Chương IINội Giáo - Ngoại Giáo
&
Mật Giáo Của Đức Phật
&
Mật Giáo Của Đức Phật
Đức
Phật Thích Ca được xem là vị Phật IV của đại kiếp này . Ngài đã đã thành đạo và
hướng dẫn chúng sinh trên con đường giác ngộ . Ngài dạy các giáo pháp của chư
Phật quá khứ và bổ túc các giáo pháp bằng một số kỹ thuật thích hợp với nhu cầu
của con người trong kỷ nguyên này . Giáo pháp của ngài được tiên tri sẽ tồn tại
năm ngàn năm . Có mấy lối khác nhau để phân loại những giáo pháp ; ngài đã trao
truyền như chia thành ba đạo pháp Tiểu Thừa , Đại Thừa và Kim Cương Thừa . Căn
bản, ý nghĩa và nội dung giáo pháp của ba thừa được nói đến trong bài kệ Tây
tạng :
Thực hành bên ngoài là con đường trì giới
,
Thực hành bên trong là Bồ đề tâm .
Thực hành Bí mật là pháp mật chú bí truyền .
Thực hành bên trong là Bồ đề tâm .
Thực hành Bí mật là pháp mật chú bí truyền .
Mỗi
dòng kệ nói về một thừa : Tiểu thừa , Đại Thừa, và Kim Cương Thừa . Với ba đặc
tính là các phương pháp tâm linh : Bên ngoài , bên trong và bí mật do đức Phật
dạy ở Ấn độ . Ba giai đoạn Phật giáo lần lượt xuất hiện . Có nghĩa Giáo pháp
thấp sửa soạn cho sự phát sinh cho Giáo pháp cao hơn . . .
1-Giáo pháp bên ngoài ;
Tiểu Thừa .
Tiểu Thừa .
Giáo pháp này gồm những lời dạy căn bản và phổ quát của
đức Phật ; dựa trên những bài thuyết pháp công khai dành cho thính chúng đủ hạng
. Bắt đầu là thời thuyết pháp ở Lộc Uyển gần thành Ba-La-Nại . Đề tài trung tâm
là Tứ Diệu đế , Bát Chánh đạo , Mười Hai Nhân Duyên và ba pháp cao hơn là : Trì
giới , thiền định , trí huệ . Trọng tâm là lối tham thiền đơn giản không chính
thức với căn bản giữ giới luật thật tinh nghiêm .
Về
mặt lịch sử, đây là hình thức Phật giáo mà vua Ashoka ( A Dục ) bảo hộ vào thế
kỷ III trước Tây lịch . Và đã cho các nhà truyền giáo của ngài truyền bá khắp
vương quốc từ A Phú Hãn ở Tây bắc đến Bengal ở Đông bắc . Vì vậy , có khi các
học giả Tây phương gọi loại Phật giáo này là “ Phật giáo sơ khởi ” . Chúng ta
nên biết : Theo các cổ thư của Ấn độ và Tây tạng loại Phật giáo này không được
truyền dạy trước hai loại kia . Đúng hơn , đây là hình thức Phật giáo được
truyền bá rộng rãi nhất vào lúc đầu .
2-Giáo pháp bên trong ;
Đại thừa .
Đại thừa .
Thế
kỷ hai Tây lịch . Một luận sư có tài bậc nhất thế giới xuất hiện ở Ấn độ là
Nagarjuna ( Long Thọ ) . Chính đức Phật đã tiên tri : Nagarjuna sẽ đưa ra nội
giáo hay Đại Thừa . Đó là giáo pháp chỉ được dạy cho những nhóm đệ tử chọn lọc
và được truyền một cách lặng lẽ qua các thế kỷ như để đợi sự trưởng thành của
nền văn minh Phật giáo Ấn độ . Khi nền văn minh này đã đến tuổi chín chắn .
Nagarjuna sẽ đầu thai và lấy lại nội giáo từ những “ Naga ” ( rồng ) hay những vị bảo tồn giáo pháp
để phổ biến . Gần bốn mươi quyển “ Kinh Bát Nhã
Ba La Mật ” ngài đã thu hồi và được nhiều tín đồ Phật giáo Ấn độ đón
nhận . Bộ “ Sáu Luận Thư Về Lý Trung Đạo
” của ngài cũng được nổi tiếng ngay tức khắc . Vì thế , Nagarjuna có
ảnh hưởng lớn tới Phật giáo Ấn độ . Đa số các luận sư sau này đều nhận cảm hứng
từ các tác phẩm của ngài .
Nhân vật quan trọng thứ nhì của phong trào tiền phong
Đại Thừa là : Asanga ( Vô Trước , cuối thế kỷ thứ tư ) . Ngài đưa ra văn bản năm
quyển luận được coi là lời dạy của Bồ tát Di Lặc . Trong đó có “ Yoga Sư Địa Luận ” và các quyển luận do ngài
viết . Tất cả những quyển này đều được đưa vào Luận tạng của Đại Thừa . Long Thọ
và Vô Trước đều diễn giải bộ kinh Bát
Nhã . Nhưng Long Thọ chú trọng đến thuyết “ Trí Huệ Về Tính Không ” . Còn Vô Trước tập
trung vào các Hạnh Bồ Tát . Hai đạo sư
Ấn độ này được xem là hai vị tổ của Đại Thừa . Trong “ Bè Vượt Biển Tư Tưởng Phật Giáo Ấn Độ ” đức
Dalai Lama II viết : “ Tổ của Đại Thừa là
Nagarjuna và Asanga . Hai vị đều gây nhiều tranh luận trong thời đó . Vì một số
tác phẩm của hai ngài đều bình luận trực tiếp tư tưởng của đức Phật . Tức là từ
kinh nghiệm thiền quán của mình chứ không dựa vào kinh điển có sẵn . Hai vị thầy
này sáng lập hai phái Đại Thừa ” .
Điểm cốt yếu của nội giáo hay Đại Thừa là : Phát Bồ đề
tâm và thực hành Bồ tát đạo - Nuôi lớn ý nguyện đạt giác ngộ tối thượng như
phương tiện ; để thực hiện từ bi vì lợi ích chúng sinh và thực hành Hạnh Bồ Tát
như : Sáu hạnh tuyệt hảo hay Sáu ba la mật .
3-Giáo pháp Bí mật ;
Kim Cang thừa .
Kim Cang thừa .
Khuynh hướng thứ ba trong Phật giáo Ấn độ là Kim Cương
thừa hay đạo pháp của Mật giáo . Khuynh hướng này , xuất hiện công khai vào
khoảng sau thế kỷ V hay VI trước Tây lịch . Từ đây cho đến tai họa triệt phá
Phật giáo ở Ấn độ . Các hệ thống Mật giáo mới lần lượt phát khởi . Những người
được xem là có công phổ biến Kim Cương Thừa vào lúc ban đầu là : Indrabhuti ,
Saraha , Latitavajra và nhiều người khác . . . Dù hiện tại không thể định thời
gian chính xác của các vị thầy này vì thiếu tài liệu . Nhưng chúng ta biết rõ họ
tuyên bố thuộc giòng truyền thừa trực tiếp giáo pháp Phật giáo do chính đức Phật
đã bí mật dạy cho các đệ tử cao cấp nhất của ngài . Những giáo lý này được
truyền bí mật tuyệt đối cho đến đúng lúc có thể phổ biến rộng rãi . Điều đáng
ghi nhớ nhất là : “ Kalachakra Tantra
” là một trong những hệ thống nghi quỹ Yoga tối thượng cuối cùng xuất
hiện ở Ấn độ tức là vào thế kỷ X .
Ba
loại giáo pháp của đức Phật : Nội giáo , Ngoại giáo và Mật giáo đều được đưa đến
Tây tạng . Nhưng đạo pháp của các Mật điển được xứ tuyết tiếp nhận nồng nhiệt
nhất .
Ở
Ấn độ , ba loại giáo pháp và thực hành Phật giáo không sống chung hòa hợp với
nhau như ở Tây tạng . Tín đồ của các tông phái thường không công nhận giá trị
của Ngoại giáo và Mật giáo . Ví dụ , khi xem các luận thư Đại thừa của anh mình
là Vô Trước . Thế Thân nói : “ Anh tôi ẩn tu mười
hai năm . Một giấc mộng tốt cũng không đạt được . Đừng nói đạt được giáo lý chân
chính . Một số giáo lý là do anh ta đặt ra ” .
Sự
xuất hiện của các giáo pháp Mật giáo cũng không được tất cả tín đồ Phật giáo
thời đó chấp nhận . Vì sự bảo thủ của họ . Chỉ về sau người Ấn độ dần dần chấp
nhận cả ba hình thức Phật giáo . Trong thế kỷ XI , những người Tây tạng hành
hương đến các tu viện ở miền bắc Ấn độ như Nalanda , Vikramashila và Odantapuri
. Thuật lại những nơi này xem ba khuynh hướng Phật giáo là những phương diện của
một tổng thể . Tiểu sử của các đạo sư Ấn độ quan trọng trong thời đó như Atisha
, Naropa và những vị khác do người Tây tạng viết cũng nói đến thái độ hợp nhất
này . Với tình trạng như vậy , Phật giáo được đưa vào Tây tạng trong hai đợt :
1-Đợt thứ nhất :
Vào thế kỷ VII & IX ,
Dưới sự bảo hộ của các vua Tây Tạng ở Lhasa .
2-Đợt thứ hai :
Vào thế kỷ XI ;
Chính yếu dưới sự bảo trợ của các vua ở Guge - Tây Tây tạng .
Vào thế kỷ VII & IX ,
Dưới sự bảo hộ của các vua Tây Tạng ở Lhasa .
2-Đợt thứ hai :
Vào thế kỷ XI ;
Chính yếu dưới sự bảo trợ của các vua ở Guge - Tây Tây tạng .
Trong “ Bè Vượt Biển Tư Tưởng Phật Giáo Ấn Độ ” . Đức
Dalai Lama II nói tóm tắt về ba thừa như sau : “ Nói chung , đức Phật dạy ba
loại giáo pháp ; đối với các đệ tử có khuynh hướng về đạo pháp đơn giản ; ngài
dạy Tiểu thừa . Đối với các đệ tử thiên về lối phức tạp hơn ; ngài dạy Đại thừa
hay Ba La Mật thừa . Còn những người muốn đi theo một con đường cực kỳ sâu sắc ;
ngài dạy Kim Cương Thừa bí truyền . Đạo pháp đưa cách dùng ái dục của Mật giáo
vào các pháp thực hành ” .
Ở
đây , đức Dalai Lama II nói về các hành giả như những người thọ nhận chính ba
loại giáo pháp đặc thù . Và dùng phương diện này như phương pháp thực hành tâm
linh chính yếu . Về mặt thực hành , bài kệ trích dẫn ở phần đầu cho thấy cách
tổng hợp ngoại giáo , nội giáo và mật giáo trong việc thực hành của hành giả như
những mức độ nỗ lực tâm linh nối tiếp nhau .
Tóm
lại , người Tây tạng cho rằng : Trước hết hành giả
phải phát triển sự ổn định nội tâm bằng các phương pháp Tiểu thừa .
Đó là ba môn học cao cấp : Trì giới , thiền định, và
trí huệ . Sau đó ; mở rộng thực hành với Bồ đề tâm cầu giác ngộ tối thượng là thực hành Sáu hạnh
ba-la-mật . Sau cùng , khi đã đạt được các phẩm tính : Không chấp thủ , từ bi và trí huệ về tính không .
Hành giả sẽ nhập môn Mật giáo và thực hành các phương pháp của Kim
Cương Thừa .
Đức
Dalai Lama III nói về lợi ích của thái độ đúng đắn trong luận thư Yếu Tính
Của Vàng Tinh Luyện : “ Tất cả các giáo lý sâu xa được dạy trong các Kinh điển
và Mật điển . Cũng như trong các Luận thư và các sách Diễn giải của các đạo sư
Phật giáo thuộc các đời liên tiếp . Phải được xem là : Những phương pháp ứng
dụng . Khởi đầu bằng những pháp môn căn bản . Và rồi bằng những pháp cao vượt
hơn ; để diệt trừ những chướng ngại do vô minh . Sự quan trọng của tất cả những
lời dạy của đức Phật và các vị tổ . Từ lời khuyên về tình thầy trò đến các
phương pháp kiến tánh . Phải được quán tưởng . . . Tất cả các giáo pháp phải
được thực hành trong sinh hoạt và thực hành của hành giả ” . HET=OM MANI PADME HUM.( 3 LAN ).GESHE TASHI TSERING.( MHDT ).14/4/2012.
No comments:
Post a Comment