Friday, 13 April 2012

Chương IINội Giáo - Ngoại Giáo
&
Mật Giáo Của Đức Phật

Đức Phật Thích Ca được xem là vị Phật IV của đại kiếp này . Ngài đã đã thành đạo và hướng dẫn chúng sinh trên con đường giác ngộ . Ngài dạy các giáo pháp của chư Phật quá khứ và bổ túc các giáo pháp bằng một số kỹ thuật thích hợp với nhu cầu của con người trong kỷ nguyên này . Giáo pháp của ngài được tiên tri sẽ tồn tại năm ngàn năm . Có mấy lối khác nhau để phân loại những giáo pháp ; ngài đã trao truyền như chia thành ba đạo pháp Tiểu Thừa , Đại Thừa và Kim Cương Thừa . Căn bản, ý nghĩa và nội dung giáo pháp của ba thừa được nói đến trong bài kệ Tây tạng :

Thực hành bên ngoài là con đường trì giới ,
Thực hành bên trong là Bồ đề tâm .
Thực hành Bí mật là pháp mật chú bí truyền .

Mỗi dòng kệ nói về một thừa : Tiểu thừa , Đại Thừa, và Kim Cương Thừa . Với ba đặc tính là các phương pháp tâm linh : Bên ngoài , bên trong và bí mật do đức Phật dạy ở Ấn độ . Ba giai đoạn Phật giáo lần lượt xuất hiện . Có nghĩa Giáo pháp thấp sửa soạn cho sự phát sinh cho Giáo pháp cao hơn . . .

1-Giáo pháp bên ngoài ;
Tiểu Thừa .

Giáo pháp này gồm những lời dạy căn bản và phổ quát của đức Phật ; dựa trên những bài thuyết pháp công khai dành cho thính chúng đủ hạng . Bắt đầu là thời thuyết pháp ở Lộc Uyển gần thành Ba-La-Nại . Đề tài trung tâm là Tứ Diệu đế , Bát Chánh đạo , Mười Hai Nhân Duyên và ba pháp cao hơn là : Trì giới , thiền định , trí huệ . Trọng tâm là lối tham thiền đơn giản không chính thức với căn bản giữ giới luật thật tinh nghiêm .

Về mặt lịch sử, đây là hình thức Phật giáo mà vua Ashoka ( A Dục ) bảo hộ vào thế kỷ III trước Tây lịch . Và đã cho các nhà truyền giáo của ngài truyền bá khắp vương quốc từ A Phú Hãn ở Tây bắc đến Bengal ở Đông bắc . Vì vậy , có khi các học giả Tây phương gọi loại Phật giáo này là “ Phật giáo sơ khởi ” . Chúng ta nên biết : Theo các cổ thư của Ấn độ và Tây tạng loại Phật giáo này không được truyền dạy trước hai loại kia . Đúng hơn , đây là hình thức Phật giáo được truyền bá rộng rãi nhất vào lúc đầu .

2-Giáo pháp bên trong ;
Đại thừa .

Thế kỷ hai Tây lịch . Một luận sư có tài bậc nhất thế giới xuất hiện ở Ấn độ là Nagarjuna ( Long Thọ ) . Chính đức Phật đã tiên tri : Nagarjuna sẽ đưa ra nội giáo hay Đại Thừa . Đó là giáo pháp chỉ được dạy cho những nhóm đệ tử chọn lọc và được truyền một cách lặng lẽ qua các thế kỷ như để đợi sự trưởng thành của nền văn minh Phật giáo Ấn độ . Khi nền văn minh này đã đến tuổi chín chắn . Nagarjuna sẽ đầu thai và lấy lại nội giáo từ những “ Naga ” ( rồng ) hay những vị bảo tồn giáo pháp để phổ biến . Gần bốn mươi quyển “ Kinh Bát Nhã Ba La Mật ” ngài đã thu hồi và được nhiều tín đồ Phật giáo Ấn độ đón nhận . Bộ “ Sáu Luận Thư Về Lý Trung Đạo ” của ngài cũng được nổi tiếng ngay tức khắc . Vì thế , Nagarjuna có ảnh hưởng lớn tới Phật giáo Ấn độ . Đa số các luận sư sau này đều nhận cảm hứng từ các tác phẩm của ngài .

Nhân vật quan trọng thứ nhì của phong trào tiền phong Đại Thừa là : Asanga ( Vô Trước , cuối thế kỷ thứ tư ) . Ngài đưa ra văn bản năm quyển luận được coi là lời dạy của Bồ tát Di Lặc . Trong đó có “ Yoga Sư Địa Luận ” và các quyển luận do ngài viết . Tất cả những quyển này đều được đưa vào Luận tạng của Đại Thừa . Long Thọ và Vô Trước đều diễn giải bộ kinh Bát Nhã . Nhưng Long Thọ chú trọng đến thuyết “ Trí Huệ Về Tính Không ” . Còn Vô Trước tập trung vào các Hạnh Bồ Tát . Hai đạo sư Ấn độ này được xem là hai vị tổ của Đại Thừa . Trong “ Bè Vượt Biển Tư Tưởng Phật Giáo Ấn Độ ” đức Dalai Lama II viết : “ Tổ của Đại Thừa là Nagarjuna và Asanga . Hai vị đều gây nhiều tranh luận trong thời đó . Vì một số tác phẩm của hai ngài đều bình luận trực tiếp tư tưởng của đức Phật . Tức là từ kinh nghiệm thiền quán của mình chứ không dựa vào kinh điển có sẵn . Hai vị thầy này sáng lập hai phái Đại Thừa ” .

Điểm cốt yếu của nội giáo hay Đại Thừa là : Phát Bồ đề tâm và thực hành Bồ tát đạo - Nuôi lớn ý nguyện đạt giác ngộ tối thượng như phương tiện ; để thực hiện từ bi vì lợi ích chúng sinh và thực hành Hạnh Bồ Tát như : Sáu hạnh tuyệt hảo hay Sáu ba la mật .

3-Giáo pháp Bí mật ;
Kim Cang thừa .

Khuynh hướng thứ ba trong Phật giáo Ấn độ là Kim Cương thừa hay đạo pháp của Mật giáo . Khuynh hướng này , xuất hiện công khai vào khoảng sau thế kỷ V hay VI trước Tây lịch . Từ đây cho đến tai họa triệt phá Phật giáo ở Ấn độ . Các hệ thống Mật giáo mới lần lượt phát khởi . Những người được xem là có công phổ biến Kim Cương Thừa vào lúc ban đầu là : Indrabhuti , Saraha , Latitavajra và nhiều người khác . . . Dù hiện tại không thể định thời gian chính xác của các vị thầy này vì thiếu tài liệu . Nhưng chúng ta biết rõ họ tuyên bố thuộc giòng truyền thừa trực tiếp giáo pháp Phật giáo do chính đức Phật đã bí mật dạy cho các đệ tử cao cấp nhất của ngài . Những giáo lý này được truyền bí mật tuyệt đối cho đến đúng lúc có thể phổ biến rộng rãi . Điều đáng ghi nhớ nhất là : “ Kalachakra Tantra ” là một trong những hệ thống nghi quỹ Yoga tối thượng cuối cùng xuất hiện ở Ấn độ tức là vào thế kỷ X .

Ba loại giáo pháp của đức Phật : Nội giáo , Ngoại giáo và Mật giáo đều được đưa đến Tây tạng . Nhưng đạo pháp của các Mật điển được xứ tuyết tiếp nhận nồng nhiệt nhất .

Ở Ấn độ , ba loại giáo pháp và thực hành Phật giáo không sống chung hòa hợp với nhau như ở Tây tạng . Tín đồ của các tông phái thường không công nhận giá trị của Ngoại giáo và Mật giáo . Ví dụ , khi xem các luận thư Đại thừa của anh mình là Vô Trước . Thế Thân nói : “ Anh tôi ẩn tu mười hai năm . Một giấc mộng tốt cũng không đạt được . Đừng nói đạt được giáo lý chân chính . Một số giáo lý là do anh ta đặt ra ” .

Sự xuất hiện của các giáo pháp Mật giáo cũng không được tất cả tín đồ Phật giáo thời đó chấp nhận . Vì sự bảo thủ của họ . Chỉ về sau người Ấn độ dần dần chấp nhận cả ba hình thức Phật giáo . Trong thế kỷ XI , những người Tây tạng hành hương đến các tu viện ở miền bắc Ấn độ như Nalanda , Vikramashila và Odantapuri . Thuật lại những nơi này xem ba khuynh hướng Phật giáo là những phương diện của một tổng thể . Tiểu sử của các đạo sư Ấn độ quan trọng trong thời đó như Atisha , Naropa và những vị khác do người Tây tạng viết cũng nói đến thái độ hợp nhất này . Với tình trạng như vậy , Phật giáo được đưa vào Tây tạng trong hai đợt :

1-Đợt thứ nhất :
Vào thế kỷ VII & IX ,
Dưới sự bảo hộ của các vua Tây Tạng ở Lhasa .
2-Đợt thứ hai :
Vào thế kỷ XI ;
Chính yếu dưới sự bảo trợ của các vua ở Guge - Tây Tây tạng .

Trong “ Bè Vượt Biển Tư Tưởng Phật Giáo Ấn Độ ” . Đức Dalai Lama II nói tóm tắt về ba thừa như sau : “ Nói chung , đức Phật dạy ba loại giáo pháp ; đối với các đệ tử có khuynh hướng về đạo pháp đơn giản ; ngài dạy Tiểu thừa . Đối với các đệ tử thiên về lối phức tạp hơn ; ngài dạy Đại thừa hay Ba La Mật thừa . Còn những người muốn đi theo một con đường cực kỳ sâu sắc ; ngài dạy Kim Cương Thừa bí truyền . Đạo pháp đưa cách dùng ái dục của Mật giáo vào các pháp thực hành ” .

Ở đây , đức Dalai Lama II nói về các hành giả như những người thọ nhận chính ba loại giáo pháp đặc thù . Và dùng phương diện này như phương pháp thực hành tâm linh chính yếu . Về mặt thực hành , bài kệ trích dẫn ở phần đầu cho thấy cách tổng hợp ngoại giáo , nội giáo và mật giáo trong việc thực hành của hành giả như những mức độ nỗ lực tâm linh nối tiếp nhau .

Tóm lại , người Tây tạng cho rằng : Trước hết hành giả phải phát triển sự ổn định nội tâm bằng các phương pháp Tiểu thừa . Đó là ba môn học cao cấp : Trì giới , thiền định, và trí huệ . Sau đó ; mở rộng thực hành với Bồ đề tâm cầu giác ngộ tối thượng là thực hành Sáu hạnh ba-la-mật . Sau cùng , khi đã đạt được các phẩm tính : Không chấp thủ , từ bi và trí huệ về tính không . Hành giả sẽ nhập môn Mật giáo và thực hành các phương pháp của Kim Cương Thừa .

Đức Dalai Lama III nói về lợi ích của thái độ đúng đắn trong luận thư Yếu Tính Của Vàng Tinh Luyện : “ Tất cả các giáo lý sâu xa được dạy trong các Kinh điển và Mật điển . Cũng như trong các Luận thư và các sách Diễn giải của các đạo sư Phật giáo thuộc các đời liên tiếp . Phải được xem là : Những phương pháp ứng dụng . Khởi đầu bằng những pháp môn căn bản . Và rồi bằng những pháp cao vượt hơn ; để diệt trừ những chướng ngại do vô minh . Sự quan trọng của tất cả những lời dạy của đức Phật và các vị tổ . Từ lời khuyên về tình thầy trò đến các phương pháp kiến tánh . Phải được quán tưởng . . . Tất cả các giáo pháp phải được thực hành trong sinh hoạt và thực hành của hành giả ” . HET=OM MANI PADME HUM.( 3 LAN ).GESHE TASHI TSERING.( MHDT ).14/4/2012.

No comments:

Post a Comment