|
|
||||||
Lời Giới
Thiệu
của đức Dalai Lama Mục đích chính toàn bộ giáo pháp đức Phật là :
Nhiếp phục tâm và chuyển thức thành
trí . Phật giáo quan niệm :
“ Khi phẩm tính của tâm , tức trí huệ được
phát triển . Không những chúng ta được lợi ích sâu rộng . Chúng sinh
cũng gián tiếp được lợi ích ” .
Vì thế , tu tâm dưỡng tánh là điều kiện chính yếu để đạt an
lạc nội tâm và hạnh phúc lâu bền .
Thế nên , trước khi dựng ngôi chùa,
chúng ta phải xây nền . Cũng vậy trước khi thực hành chuyển thức
thành trí . Chúng ta phải thiết lập một nền tảng vững chắc . Có thể
nghĩ rằng : Kẻ địch thật sự của chúng
sinh là vô minh . Thế nên , nên phải diệt trừ toàn diện
vô minh bằng pháp đối trị mạnh nhất . Nhưng việc chuyển hóa tâm chỉ
có thể thành tựu qua nhiều giai đoạn .
Đầu tiên phải phát nguyện tránh làm mọi điều xấu ác , có hại từ thân
, khẩu , ý . Từ trạng thái thanh tịnh của ba nghiệp , ta có thể tu
tập bước kế tiếp là đoạn trừ vô minh phiền não và sau cùng là đoạn
trừ các chủng tử của vô minh .
Cũng vì lý do này , Phật đạo bắt đầu
bằng việc tu tập ba môn : Giới - Định -
Huệ về tính không . Sau khi hoàn toàn vững chắc . Hành
giả bắt đầu thực hành Bồ tát đạo , khởi phát bồ đề tâm , đạt giác
ngộ tối thượng , thực hành sáu hạnh
tuyệt hảo ( Ba la mật ) :
1-
Bố thí . 2- Trì giới . 3- Nhẫn nhục . 4- Tinh tấn . 5- Thiền định . 6- Trí huệ .
Để tạo lợi ích cho chúng sinh . Cuối
cùng , những phương pháp được bổ túc bằng các phương pháp Mật giáo .
Bắt đầu với việc nhận các lễ điểm đạo nhập môn , thọ giới mật giáo
và thực hành các môn yoga của giai đoạn chuẩn bị ( phát khởi ) và
thành tựu .
Như vậy , nhờ biết xây dựng ngôi nhà
tâm linh một cách từ từ . Chúng ta có khả năng nhổ rễ ảo tưởng để
đưa tâm thức đến trạng thái giác ngộ tối thượng . Có một số lý do ,
Mật giáo có thể siêu vượt các phương pháp kinh điển thông thường .
Một trong những lý do đó là Mật giáo hợp nhất các nhân tố phương
tiện và trí huệ .
1-
Thiền quán về tính không là nhân tố trí huệ . 2- Bồ tát nguyện là phương tiện .
Trong đạo pháp kinh điển cho rằng :
Hai điều này không thể phát sinh cùng lúc trong tâm thức của một
hành giả trung bình . Riêng trong Mật giáo , hành giả quán tưởng
Mandala ( cảnh giới hay môi trường ) và các vị thần như phương tiện
. Sau đó thiền quán về tính không thực thể của họ . Bằng cách này ,
phương tiện và trí huệ phát khởi cùng lúc như một thực thể của tâm .
Đi đến Phật quả , phương tiện và trí
huệ , thân và tâm phải là một nhất thể . Đạo pháp Mật giáo dùng sự
năng động này ngay từ đầu . Nên hành giả có thể đạt giác ngộ nhanh
hơn nhiều . Sự độc đáo của Mật giáo là : Pháp này nhấn mạnh đến kết
quả tu tập - Phật quả ngay đây . Trong nỗ lực tu tập của chúng ta .
Hành giả tham thiền với ý thức về tính không và tâm thức tập trung
vào tánh không được phát sinh với hình dạng các vị thần Mandala (
Hóa thần bổn tôn ) . Đó là đặc điểm của bốn loại nghi quỹ . Trong
nghi quỹ Yoga tối thượng . Nguyên tắc này còn được nới rộng với hành
giả biết tận dụng những năng lực vi-tế nhất của thân và tâm mà người
không tu tập không thể đạt được .
Ở đây Thanh Quang Đại Ấn được xem là
nguyên nhân cụ thể độc đáo của Pháp thân Phật . Có Thanh Quang Đại
Ấn trong đạo pháp thì đốn ngộ trở thành chuyện thủ đắc . Kỹ thuật
tinh tế nhất này chỉ có trong nghi quỹ du già tối thượng . Nói chung
, hiểu biết về phương pháp tâm linh chính là một phép lành . Vì thế
, muốn thực hành Mật giáo cần phải nhận được phép lành từ lễ điểm
đạo ( Nhập môn ); do vị thầy đắc pháp thuộc dòng truyền thừa không
gián đoạn minh chứng . Như vậy hành giả đã được gia hộ để bước vào
các Pháp môn Mật giáo , gieo hạt giống cho sự giác ngộ trong tương
lai .
Sau đó , khi thực hành các giai đoạn
phát sinh và thành tựu . Hành giả phải quy y một vị thầy đắc pháp để
ứng dụng thành công các phương pháp thù thắng của Mật giáo . Các
kinh sách truyền thống khuyên chúng ta thận trọng khi chọn thầy . Và
nên bằng lý trí của mình chứ không dựa vào niềm tin mù quáng . Dù
chúng ta được dạy phải tôn kính và tin tưởng thầy . Nhưng tình cảm
này cũng phải dựa vào trí phán đoán . Nếu thầy dạy trái với những gì
ta biết về Giáo Pháp , nên trình bày những thắc mắc với lòng tôn
kính và lễ độ . Chứ không thể chấp nhận một cách thiếu suy nghĩ .
Có nhiều ý kiến khác nhau về việc
đức Phật trao truyền giáo pháp Kalachakra lần đầu tiên vào lúc nào ?
. Kalachakra Norzang Gyatso , thầy của đức Dalai Lama II và các Lama
khác cho rằng : Đức Phật dạy giáo lý này một tháng trước khi nhập
Niết bàn . Một ý kiến khác nói rằng : Đức Phật dạy giáo lý này sau
khi ngài thành đạo một năm . Hai quan điểm này đều được hỗ trợ bằng
các nguồn tư liệu khác nhau để bào vệ lập luận của mình . Nhưng hai
bên đều đồng ý là : Sau khi đức Phật
truyền dạy , giáo pháp được đưa từ Ấn độ đến Shambhala và giữ ở đó
cho đến khi đạo sư Chilupa lấy lại .
Hệ thống giáo lý Kalachakra được đưa
vào Tây tạng theo hai dòng và về sau hợp làm một . Sau cùng ,
Tsongkhapa nhận quyền truyền thừa dòng hợp nhất này . Tsongkhapa
tinh tấn tu tập và truyền bá giáo pháp Kalachakra . Đức Dalai Lama
VII đã có công lớn trong việc bảo tồn , minh giải và trao truyền
giáo lý . Từ đó Kalachakra được truyền thừa không gián đoạn qua
nhiều thế hệ cho đến chúng ta ngày nay .
Trong đa số các truyền thống Mật
giáo . Lễ điểm đạo ( Nhập môn , Truyền tâm ấn ) dành cho những nhóm
nhỏ các đệ tử chọn lọc . Tối đa là hai mươi lăm người . Tuy nhiên ,
Kalachakra là ngoại lệ, theo truyền thống được truyền cho những đám
đông công chúng lớn . Chắc chắn , không phải mọi người tham dự đều
có đủ căn bản nội tâm để nhận được trọn vẹn lợi ích của lễ nhập môn
. Nhưng người ta tin là bất cứ ai tham dự với thái độ tích cực cũng
sẽ thiết lập và củng cố khả năng tích cực về nghiệp .
Hệ thống Kalachakra thuộc loại nghi
quỹ Yoga tối thượng . Vì vậy , đây là giáo pháp bí truyền . Thời
trước, tất cả các giáo lý Mật giáo được thực hành và trao truyền
hết sức bí mật . Việc sao chép và ấn hành rộng rãi các kinh sách Mật
giáo là điều không khuyến khích . Nếu có , chỉ dành cho những đệ tử
đã nhập môn . Nhưng trong thế kỷ trước , nhiều học giả Tây phương và
những người hiếu kỳ đã viết nhiều sách về Phật giáo Mật tong . Từ đó
gây ra nhiều ngộ nhận về sự thực hành Mật giáo . Không có cách nào
sửa chữa tình trạng này . Ngoài việc cho phép các học giả tu tập
theo truyền thống viết và dịch thuật các sách về Mật giáo .
Trong tất cả các Giáo pháp của đức
Phật . Giáo pháp trong các nghi quỹ Yoga tối thượng có nhiều năng
lực nhất . Những phương pháp này được xem là có thể ứng dụng cho
tình trạng cộng đồng nhân loại ngày nay . Khi những kỹ thuật về nghi
quỹ Yoga tối thượng được ứng dụng trên nền tảng ba pháp tu tập cao
cấp , Bồ đề tâm và sáu hạnh tuyệt hảo . Nó có khả năng đưa tới giác
ngộ ngay trong kiếp ngắn ngủi này .
Kalachakra là một trong
những nghi quỹ sâu rộng nhất trong các nghi quỹ Yoga tối thượng .
Tôi cầu nguyện quyển sách này có khả năng đưa đến sự hiểu biết và
thâm cảm Giáo pháp siêu diệu với lòng từ bi vô lượng mà đức Phật đã
trao truyền cho con người .
Ngày 10 tháng 5 năm 1991
Lời Nói
đầu
Trước hết tôi cảm ơn đức Dalai Lama
đã ban phước cho quyển sách nhỏ này . Cũng như với tất cả các quyển
sách khác của tôi . Trước khi bắt tay biên soạn , tôi đến viếng đức
Dalai Lama xin ngài chỉ dẫn và gửi cho thư ký của ngài danh sách
những văn bản Tây tạng tôi định đưa vào quyển sách . Lần này , trong
danh sách đó có quyển “ Về Lễ Điểm Đạo Kalachakra ” do ngài viết .
Mười năm trước đại đức Doboom Tulku và tôi đã phiên dịch . Tôi cũng
xin ngài viết lời “ Giới Thiệu ” cho quyển sách cũng như cung cấp
một tài liệu tham khảo thích hợp .
Từ khi đức Dalai Lama được tặng giải
Nobel Hòa Bình năm 1989 , sự thỉnh cầu tiếp xúc với ngài tăng lên
gấp mười . Vì thế , tôi rất thâm cảm về nhã ý ngài đã dành nhiều
thời giờ quý báu cho tôi . Khi nói về ngài , người Tây tạng thường
dùng đến danh hiệu - Yishin Norbu ( Ngọc Như ý) . Đúng thế ,
đức Dalai Lama là một viên ngọc như ý .
Tôi lập liên hệ tâm linh với truyền
thống Kalachakra vào năm 1973 . Khi tôi cùng với đám đông một trăm
năm mươi ngàn tín đồ Phật giáo vùng Hi Mã Lạp Sơn tham dự lễ điểm
đạo ở Bồ Đề Đạo Tràng ( Bodh Gaya ) Ấn độ do đức Dalai Lama chủ lễ .
Lúc đó , tôi đang học ngôn ngữ , văn học , triết học và thiền định
Tây tạng ở Thư viện Tây tạng Dharamsala . Trước đó, tôi chỉ được
nghe nói và đọc về di sản Kalachakra . Những bài thuyết pháp của đức
Dalai Lama đã giúp tôi rất nhiều và trong mười năm học ở Dharamsala
và được may mắn hân hạnh tiếp xúc nhiều lần với các tài liệu
Kalachakra .
Năm 1989 , tôi đến tu viện Ganden
Shartsey học quyển “ Ghi Chú Hai Giai Đoạn Yoga Kalachakra Vinh
quang ” của đức Dalai Lama I ; do đức Lati Rinpochey hướng dẫn .
Một năm sau , tài liệu này được đưa vào quyển đức Dalai Lama I -
Chiếc Cầu Giữa Kinh Điển Và Mật Điển ” do tôi biên soạn . Đây là tác
phẩm tiếng Anh đầu tiên chứa một tài liệu quan trọng về sáu môn Yoga
Kalachakra . Trước đó , các sách chỉ chú trọng về lịch sử hay huyền
học của Kalachakra hay các vấn đề khác như : Thiên văn , chiêm tinh
, thuật luyện kim , y học . . .
Ở đây tôi không có ý định trình bày
bản tóm lược các ngành khác nhau của truyền thống Kalachakra . Cũng
không tập trung vào việc nghiên cứu thực sự sáu môn Yoga Kalachakra
. Mục đích của tôi là : Cung cấp cho người đọc cái nhìn tổng quát
về di sản tâm linh Kalachakra như một truyền thống sống động . Chính
yếu dựa theo ý kiến của đức Dalai Lama I trong quyển “ Ghi Chú ” của
ngài . Tôi đã cố gắng phát triển những ý tưởng này , bằng cách rút
tỉa từ các vị thầy của các dòng truyền thừa lớn khác . Đặc biệt là
các đức Dalai Lama II , VII , XIII và XIV . Của các vị thầy các ngài
và một số Hóa thân các vị Ban Thiền Lama .
Trong mười hai chương đầu của quyển
sách . Tôi cố gắng mô tả thái độ của người Tây tạng đối với các pháp
Kalachakra . Việc tôi đặt Kalachakra vào hệ thống tổng quát của Phật
giáo được trình bày trong các chương từ sáu đến mười . Phần lớn dựa
theo quyển - Hướng Dẫn Về Các Mật Điển Phật Giáo của đức Dalai Lama
XIII , tôi đã trích dẫn nhiều đoạn . Nói chung , ngài viết theo ý
kiến của Lama Tsongkhapa - Người sáng lập phái Phật giáo Tây tạng
Gelukpa ( phái Mũ Vàng ) và là một trong các vị thầy quan trọng nhất
của đức Dalai Lama I .
Tôi xin cáo lỗi với các độc giả
không chuyên nghiên cứu . Nếu thỉnh thoảng có một tài liệu nào đó
đưa vào quyển này có vẻ khó hiểu . Tôi đề nghị những phần dễ , nên
đọc trước và những phần khó hơn nên đọc lại vài lần . Tôi cố gắng
và thẳng thắn trình bày về những ý niệm Mật giáo . Nhưng những Mật
điển này là những Giáo pháp cao nhất và bí mật nhất của đức Phật .
Nên cần phải nỗ lực nhiều nhất mới hiểu rõ được .
Năm 1980 , tôi dịch “ Về Lễ Điểm Đạo
Kalachakra ” do đức Dalai Lama viết để hướng dẫn những người có ý
định tham dự lễ điểm đạo Kalachakra , do ngài đã lập chương trình tổ
chức năm sau ở Madison , tiểu bang Wisconsin . Tôi xin tỏ lòng biết
ơn , vì ngài đã cho phép tôi đưa “ Về Lễ Điểm Đạo Kalachakra ” vào
quyển sách này .
Chương mười lăm của quyển này là “
Điều Kiện Tiên Quyết Để Được Điểm Đạo Mật Giáo ” đã được dịch năm
1981; do đại đức Amohok Tulku thuộc Tu viện Ganden Shartsey hướng
dẫn . Lúc đó tôi đang dạy tiếng Anh cho ngài và ngài dạy tôi tiếng
Tây tạng . “ Truyền Thống Kalachakra Tóm Lược” của đức Dalai Lama
XIII được trích từ quyển “ Hướng Dẫn Về Các Mật Điển Phật Giáo ” của
ngài .
Văn học vùng Trung á rất giàu các
tài liệu Kalachakra . Mấy ngàn văn bản , nếu không muốn nói mấy chục
ngàn bằng tiếng Tây tạng . Nhưng tôi không thể nói nhiều về kho tàng
lớn này . Chỉ có thể tập trung vào tư tưởng và đặc tính của truyền
thống như một tổng thể . Ngoài các tác giả đã trích dẫn hay đề cập
bằng những cách khác . Tôi đặc biệt thích những luận văn của Bodong
Chokley Namgyal - Thầy đức Dalai Lama I , Khedrup Norzany Gyatso -
Thầy đức Dalai Lama II và Trichen Ngawang Chokden - Thầy đức Dalai
Lama VII .
Trong cả ba trường hợp , dù đệ tử
nổi tiếng hơn vị thầy . Nhưng sự cống hiến của ba vị đạo sư rất lớn
cho việc bảo tồn và truyền bá truyền thống Kalachakra . Đức Dalai
Laman I cũng nghiên cứu Kalachakra với bốn đạo sư danh tiếng khác là
Lama Tsongkhapa , Khadrupjey , Gyaltsepjey và Pakpa Yonten Gyatso .
Các vị đều viết nhiều về Kalachakra . Khi biên soạn quyển sách , tôi
cố gắng rút tỉa phần lớn từ các tác phẩm của các vị Dalai Lama đó .
Quyển này chú trọng chính yếu đến
phương diện tâm linh của truyền thống Kalachakra . Hơn các chi nhánh
của Kalachakra như đức Dalai Lama II nói trong bài kệ tôi trích dẫn
ở chương mười . Chi nhánh là muốn nói đến các phương diện siêu hình
học hay “ khoa học ” như thuật luyện kim , thiên văn . . . Vì các
học giả khác đã khảo cứu nhiều về các ngành này . Nên tôi chỉ chú
trọng truyền thống Yoga Tây phương vẫn chưa biết rõ .
Việc trình bày và dịch thuật có thể
còn có những lỗi lầm nào đó . Nhưng tôi đã hết sức tránh phạm lỗi
bằng cách kiểm soát những điểm nghi ngờ với các Lama có khả năng .
Cũng như đối chiếu với các luận thư chính thống . Khi nói tới vấn đề
chính xác trong việc dịch thuật , đức Dalai Lama khuyến khích : “
Một vài lỗi nhỏ đây đó chỉ là dấu hiệu của việc tiên phong với vùng
đất lạ chưa được lập bản đồ . Phải có người đầu tiên khai phá ” .
Một trăm năm nữa , chắc chắn đa số
những gì mà các nhà Tây tạng học khắp thế giới đang làm hôm nay sẽ
trở thành thô sơ. Chúng ta có thể đoán như thế bằng cách đọc lại
những bản dịch cũ , dù chỉ cách đây năm mươi năm . Kiến thức về Phật
giáo Mật tông liên tục gia tăng . Các từ ngữ tiếng Anh diễn tả các ý
niệm Phật giáo cũng chính xác hơn . Nguyện quyển sách này đem lợi
ích cho những người quan tâm tới truyền thống Kalachakra , và nguyện
các học giả tương lai rút kinh nghiệm và sửa chữa những lỗi lầm mà
có thể tôi đã phạm .
Đối với những ai muốn thực hành các
phương pháp Kalachakra ở các giai đoạn phát sinh ( Chuẩn bị ) và
thành tựu . Quyển sách này không được xem là sách hướng dẫn thực
hành . Một hành giả chỉ có thể thực nghiệm Kim Cương Thừa với một vị
thầy có khả năng . Người Tây tạng lưu vong đã mang lại kết quả lớn
là : Hiện nay đa số các thành phố lớn ở Bắc Mỹ và Ấu Châu đều có ít
nhất một vị Lama Tây tạng có khả năng .
Glemm H. Mullin
Thư viện Tác phẩm và Tài liệu Tây Tạng Dharamsala, Ấn độ Ngày 10 tháng Ba năm 1991 |
Friday, 13 April 2012
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment