|
||
Trở
thành đức Phật , có nghĩa đạt đến tỉnh thức trọn vẹn . Với đòi hỏi loại
trừ toàn diện những bất toàn của chúng ta và thành tựu tất cả những tiềm
năng để có thể giúp người một cách có hiệu quả .
Những
đau khổ trong thế giới chúng ta quả thật bao la . Quá thật khẩn thiết để
tìm ra những phương pháp hữu hiệu để có thể giảm thiểu đau khổ . Đó là
những gì trong những lễ khai tâm pháp
Kalachakra
đề nghị .
Từ Tây
tạng Wang
là :
“ Quyền năng ”
và lễ khai tâm là : Có đối
tượng chính xác để trao truyền và cung cấp quyền năng
.
Khả năng tự dấn thân vào thực hành thiền định riêng biệt với cứu cánh tối
ưu là thành tựu tỉnh thức và đi vào trạng thái Phật vì lợi ích chúng sinh
.
Kalachakra
là hệ thống thiền định
thuộc về Anuttara Yoga
. Đẳng cấp cao nhất trong bốn đẳng cấp Mật tông
( Anuttara là khó thể vượt qua )
. Nhiều người Tây phương , tuy chấp nhận ; nhưng vẫn còn duy trì những tư
tưởng sai lầm về Mật tông .
Họ suy tưởng lễ khai tâm Mật tông
giúp những tín đồ đi vào thế giới của pháp thuật , tính dục ngoại hạng và
với những quyền năng thần khốc .
Vì vậy ,
khi biết rằng trong hiện thực lại hoàn toàn khác biệt . Thực hành Mật tông
là cái gì đó cực kỳ phức tạp . Nhất là đòi hỏi một trình độ tâm linh rất
cao , mà sự thành tựu cần phải dấn thân sâu sắc và tuân thủ nhiều phạm trù
thệ nguyện . Điều này làm họ bối rối và lo sợ . Vì thế nảy sinh trong họ
hai thái độ : Hăng hái quá
trớn hay sợ hãi vì nhận thầy không còn lý do để hiện hữu .
Vì thế ,
chúng ta cần chọn theo lối tiếp cận hiện thực đối với Mật tông nói chung
, và lễ khai tâm Pháp
Kalachakra nói
riêng . Như Tsenzhab
Serkhong Rinpoché
, giảng sư chính
của tôi nói :
“ Nếu anh
lao vào những thực hành huyền hoặc , kết quả sẽ huyền hoặc . Nếu anh thực
hành những phương pháp có giá trị , kết quả cũng rất có giá trị ” .
Từ Mật tông nghĩa thông thường là cá tính bất tận
và liên tục .
Như thế , nó vận hành trên 3 bình diện :
Căn bản ,
Con đường ; Quả hay trái .
Căn bản
là :
Dòng chảy
bất tận và liên tục có nghĩa tâm thức con người ,
Hay chính xác hơn ở trình độ rất vi tế ; Là ánh sáng sáng tỏ nguyên thủy tồn tại từ đời này sang đời khác .
Phẫm chất tâm thức có
thể so sánh với chùm sáng thuần khiết sáng tỏ đầy rõ biết ; không bị những
dao động tâm thức thô lỗ và quan niệm tác động hay bị những cảm xúc quấy
nhiễu . Gây căng thẳng sự trải nghiệm cuộc sống bình thường trong trạng
thái thức cũng như ngủ .
Tâm thức rất tế nhị
được so sánh như radio . Giả định nó có thể vận hành liên tục xuyên thời
gian . Sự kiện thay đổi độ dài bước sóng hay những tần số , không ảnh
hưởng gì đến sự vận hành căn bản của đài thu phát . Tương tự , tâm thức
rất tế nhị không bao giờ bị « tắt »
. Nó hợp thành căn bản trải
nghiệm về sự chết hay Bardo
( Trạng thái trung gian giữa hai lần sinh và sự tái sinh ) .
Những thay đổi đài thu
phát hay âm lượng . Sự nhiễu sóng không ảnh hưởng gì đến sự căn bản vận
hành của đài thu phát . Tương tự , trạng thái tái sinh . Cường độ của trải nghiệm hay những « ô
nhiễm » do tư tưởng hay tính khí phù du không ảnh hưởng tâm thức rất vi tế
của chúng ta .
Tâm thức ánh sáng sáng
tỏ tồn tại trạng thái Phật . Vì nó là nền tảng của tỉnh thức . Hơn nữa ,
dòng chảy bất tận và liên tục của tâm thức . Cho dù trước hay sau tỉnh
thức là cá tính đặc biệt tuyệt đối cá nhân .
Và không đài thu phát nào lại có thể hoàn toàn
giống như nhau . Thực sự không thể có tâm thức toàn năng ánh sáng sáng tỏ
hay Mật tông căn bản phục vụ toàn bộ cho nhân loại .
Nhiệm vụ thứ hai của Mật tông :
Dòng chảy bất tận và
liên tục của con đường dính liền với những phương pháp cho phép đạt đến
trạng thái Phật . Bao gồm những kỹ thuật thiền định liên quan đến những
hình tượng của chư Phật . Phương pháp này đôi khi được chỉ định bằng thuật
ngữ : « Yoga về thần linh » .
Nhiệm vụ thứ ba của Mật tông :
Kết quả hay trái dính
liền với dòng chảy bất tận và liên tục những thân chư Phật thành tựu nhờ
vào tỉnh thức . Để có thể giúp người trọn vẹn . Chúng ta cần sản sinh
những thân vật lý hay những bộ sưu tập hiểu biết đầy minh triết . Những
trải nghiệm và hình tướng được chọn lọc theo những nhu cầu đa dạng . Những
con người chúng ta để nghị giúp đở , cũng những những hoàn cảnh của sự
giúp đở .
Tóm lại , Mật tông đòi hỏi
dòng chảy bất tận và liên tục rõ biết về những ô nhiễm phù du , để có thể
thực hiện trên căn bản dòng chảy bất tận và liên tục những thân vật lý
của một vị Phật . Những văn bản chuyên về chủ đề này được mang tên là
« Mật điển » .
Vài người hoang mang ; trong lần đầu
tiên nghe nói thực hành thiền định để phát sinh trong tâm thức những thần
linh được gọi là “ Yidams ” và “ Dakinis ” . Vì họ đang sống ở nền tảng
văn hóa hoàn toàn khác biệt . Và tự đồng hóa mình với những thần linh Mật
tông .
Có nghĩa trở thành những người sáng
tạo có quyền năng tuyệt đối hay vẫn tiếp tục chịu đựng những giới hạn của
trạng thái tái sinh cho dù đã biết những mỹ vị của thượng giới .
Thật ra
, những thần linh Mật tông là những hình tướng nam - nữ . Là hình tướng
chư Phật được biểu lộ để giúp những ai theo sự chuyển hóa tự nhiên đang
thực hành con đường Mật tông .
Nhất là
vượt qua những khuyết điểm và thực hiện những tiềm năng riêng biệt . Đồng
thời , mỗi hình tượng Phật đồng tượng trưng cho sự tỉnh thức trọn vẹn . Đó
là nét đặc trưng của tỉnh thức . Có thể liệt kê vài thí dụ như : Avalokteshvara
tượng trưng cho lòng từ , trong khi Manjoushri là biểu tượng của sự minh
triết .
Về phần
Kalachakra , tượng trưng cho khả năng đương đầu với bất cứ tình
huống nào và bất cứ lúc nào . Thiền định tập trung vào những hình tượng
chư Phật hay vào những nét đặc trưng . Đồng thời tạo ra chủ đề tập trung
và hình thành cấu trúc thực hành . Điều này có khuynh hướng gia tăng sự
tiến bộ về phía tỉnh thức .
Để làm nhẹ
những đau khổ cho người nhanh chóng . Đòi hỏi chúng ta ứng dụng những
phương pháp hiệu quả để có được những khả năng tỉnh thức về thân , lời và
tâm thức của chư Phật .
Những
điều kiện căn bản của sự sở hữu này là : Vững chắc và kiên quyết tự giải
phóng chúng ta khỏi những giới hạn . Tình thương rộng lớn và lòng từ vô
hạn , kỷ luật đạo đức . Sức mạnh tập trung , sự lãnh hội cân bằng hiện
thực và thái độ phục vụ người bằng nhiều cách khác nhau .
Sau khi
trưởng dưỡng từng phẩm chất riêng rẽ . Sau đó , cần trưởng dưỡng hơn thêm
nữa và cùng hoàn thiện , để có thể hình thành đầy đủ những phẩm chất của
trái quả . Với Yoga thần
linh , sẵn có kỹ
thuật thích hợp . Có thể nói thực hành
Yoga thần linh
tương tự như lặp lại một vở tuồng . Chúng ta mặc bộ quần áo thích hợp mô
phỏng mình là hình tượng chư Phật riêng biệt sẵn có tất cả những khả năng
tỉnh thức .
Khi tự
trình vận hành theo cách này . Chúng
ta phát sinh nguyên nhân cho hòa nhập và cập nhật hình tượng riêng biệt
trong thời gian ngắn nhất .
Nhưng đây là kỹ thuật thuộc về giai đoạn cao của con đường Mật tông .
Có thể chỉ cần mô phỏng chúng ta đạt
được tất cả những phẩm chất vị Phật . Vì thế cần phải thực hành từng phẩm
chất riêng biệt .
Để có thể nhập vai trong
tổng thể , cần bắt đầu bằng cách học thuộc lòng . Sau đó lặp lại với một
số lượng nào đó , từng giai đoạn một . Vì thế ; thật thận trọng cũng như
cần thật thông tuệ khi bước vào thực hành Mật tông trước khi trải nghiệm
lớn về thiền định .
Thực hành Mật tông cũng có nghĩa là
thuần hóa sự mô phỏng .
Công cụ dũng mãnh này mỗi người chúng ta đã có sẵn . Kiên trì mô phỏng đạt đến một mục tiêu được định sẵn ; là phương pháp vững chắc để tịnh hóa .
Giả định
, chẳng hạn nếu không có việc làm . Bạn liên tục mô phỏng mình đã tìm ra
một việc làm , cơ hội thành công đương nhiên sẽ tốt hơn . Nếu thất bại ,
chúng ta than vãn trên sự đau khổ và nhắc đi nhắc lại cho đến ngày nhắm
mắt . Nhưng nguyên nhân thành công chính là trạng thái tâm thức tích cực
của mình .
Ngược
lại , nếu cứng ngắt trong trạng thái tiêu cực . Hay bạn không có sự tự tin
cần thiết để tự đi tìm việc làm . Như thế , thất bại hay thành công tùy
thuộc rất nhiều vào hình ảnh đã có về chính mình . Vì vậy Mật tông nhắc
nhở chúng ta làm việc cho sự cải thiện hình ảnh cá nhân nhờ vào mô phỏng
những hình tượng chư Phật .
Sự kiện
mô phỏng chúng ta là một vị Phật tạo ra hình ảnh chính mình cực kỳ dũng
mãnh ; có khả năng vô hiệu hóa những thói quen tiêu cực và tâm trạng thiếu
khả năng của mình . Nhưng sẽ không thích hợp . Nếu nhận định sai về con
đường Mật tông khi thực hành tư tưởng tích cực .
Khi sử dụng
khả năng mô phỏng , thật sự cần phải cụ thể . Cần phải phân biệt giữa
huyền hoặc và hiện thực . Nếu không chúng ta sẽ lao vào những vấn đề tâm
lý trầm trọng . Tất cả những vị thầy Mật tông . Tất cả những Mật điển đều
nhấn mạnh sự thành tựu tiên quyết hay một lãnh hội gần như bền vững về
tính không .
Những gì
có thể định nghĩa là : Tâm
thức gần như vắng bặt , trống không mọi dạng thức huyền hoặc như mô hình
thật hiện thực .
Với cái nhìn về sự tương thuộc những sự việc quay trở lại hiện hữu . Tất
cả sự việc đều lệ thuộc những nguyên nhân và hậu quả . Như tất cả mọi
người chúng ta sẵn sàng tìm một việc làm .
Không ai
là kẻ “ bại trận ”
từ khi sinh ra đời . Không một khả năng nào như thế cả . Tìm việc làm tùy
thuộc một phần vào hoàn cảnh kinh tế . Nhưng cũng nương nhờ vào những nỗ
lực chúng ta trải bày theo những chiều hướng này .
Rất
nhiều người phủ nhận con đường Mật tông , với lý do nó liên quan đến kỹ
thuật thực hành này giống như tự thôi miên .
Thật ra , mô phỏng mình là Phật
không phải là tự huyễn hoặc . Vì chính tự mỗi người chúng ta đã sẵn có tất
cả những yếu tố cần thiết của Phật tính .
Tất cả chúng
ta đều sẵn có một tâm thức , một trái tim . Đầy đủ khả năng giao lưu với
người và thế giới . Cũng như năng lượng vật lý và những chất liệu hoàn
hoàn đầy đủ để phục hồi những khả năng tỉnh thức của một vị Phật . Càng về
lâu , khi rõ biết thật sự chưa đạt đến giai đoạn thành tựu . Và bản ngã
không còn tự thổi phồng với những ảo hóa vĩ đại . Chính vào lúc này , có
thể thiền định về hình tượng chư Phật mà không chạm đến những hiểm nguy về
tâm linh .
Vì thế ,
trên con đường Mật tông . Chúng ta mô phỏng những gì sẵn có về hình tướng
, môi trường , thái độ và cuộc sống nội hỉ của một vị Phật .
Thân vật lý của một vị Phật được hợp
thành từ ánh sáng sáng tỏ . Mỗi vị Phật có khả năng phục vụ tha nhân không
mệt mõi với hiệu năng toàn hảo .
Tuy chúng ta mô phỏng hình
tượng một vị Phật . Dù vậy
không thể chuyển hóa thành một người quần quật với công việc hay như những
nhà tuẫn đạo
không có khả năng nói không .
Những hành
giả Mật tông biết nghỉ ngơi mỗi khi cảm thấy cần thiết . Dù vậy , còn giử
trong tâm thức hình ảnh bản ngã thật khổng lồ có hiệu quả làm lùi những
giới hạn quen thuộc . Vì khi đã giử cái lớn nhất thì cái nhỏ không thể tồn
đọng .
Tất cả
chúng ta đều tồn trử sẵn những năng lượng gần như vô tận , tuy có thể vơi
đi nhất là khi gặp trường hợp khẩn cấp . Nhưng không cha mẹ nào kiệt quệ
đến nổi không còn sức mạnh bay đến hỗ trợ con mình vừa té ngã .
Hơn nữa , suốt thời thực hành Mật tông . Chúng ta cảm nhận một môi trường hoàn toàn thuần khiết đáp ứng cho sự tiến bộ tâm linh của tất cả chúng sinh . Mô phỏng môi trường như thế sẽ không rơi hậu quả vô tình với vấn đề môi sinh hay xã hội .
Thật đơn
giản , để phục vụ người và chính mình vượt qua trạng thái ủ rủ và hoang
mang như sự thất vọng có thể lao vào . Chúng ta thấy không bao giờ mình ù
lì với những khía cạnh tiêu cực của môi trường chung quanh .
Với động
năng mạnh vừa đủ , kết hợp với những phương pháp có khả năng chuyển hóa
những thái độ bên trong . Giúp chúng ta tiến bộ trên con đường tâm linh
cũng như sự thảm hại của tình trạng thế giới bên ngoài . Thay vì ; không
ngừng tự than thân trách phận và tạo dựng thành những lời tiên đoán về đau
khổ . Chúng ta thích hy vọng ngay trong hành động . Đồng thời hồi hướng
cho toàn thể thế giới .
Mô phỏng
mình có khả năng hành xử như chư Phật và điều này là vì lợi ích của người
khác và tất cả chúng sinh . Chúng ta có niềm xác tín riêng với mô hình
hiện hữu . Và hành động này tác động ảnh hưởng rực rở lên môi trường xung
quanh .
Những ai
có thể tiếp cận những người có tính tâm linh rất cao như
Đức Đạt lai Lạt ma hay mẹ Théresa
, sẽ hiểu chính xác sự khẳng định như thế . Phần đông những người này .
Ngay cả khi họ ít cảm nhận cũng cảm thấy như đất vở trước mắt để khuyến
khích hành động với nhiều cao thượng của tâm não hơn .
Khi thực
hành Mật tông , chúng ta mô phỏng đã có những hệ quả tương đồng với những
người xung quanh . Thậm
chí duy chỉ hiện diện hay khi nghe đến tên cũng đủ làm họ xoa dịu . Vì đã
mang lại sự bình yên tâm thức và hoan hỉ cũng như sách tấn để vươn cao hơn
với chiều cao mới của cuộc sống .
Cuối
cùng , chúng ta mô phỏng thưởng thức tất cả sự việc với cùng tính thuần
khiết tâm thức như những chư Phật .
Phong cách nội hỉ thông thường của
chúng ta thật sự vẫn còn ướm màu lầm lẫn ; với
những gì Phật học thường chỉ định bằng thuật ngữ « Niềm vui lan tỏa » .
Cho nên
chúng ta thấy lúc nào cũng lặp lại và mãi mãi hoài không thể hài lòng về
bất cứ điều gì . Chúng ta nghe nhạc mà không thật sự thưởng thức và tự
thuyết phục phẫm chất âm thanh dàn hi-fi của mình không bằng dàn nhạc của
nhà hàng xóm . Ngược lại ,
một vị Phật hoàn toàn vui với tất cả với tâm thức không vấy bất cứ dấu vết
lầm lẫn nào cho dù thật nhỏ .
Nên khi thực
hành Mật tông . Chúng ta mô phỏng cùng
trong trạng thái này . Chẳng hạn , thực hiện cúng dường ánh sáng , hương
khói hay thực phẫm . Hoặc thực hành một vài nghi thức nào đó trong niềm
vui lan tỏa .
Nhiều vị
Phật tượng trưng bằng biểu tượng :
Một thân với nhiều màu khác nhau . Với vài cái đầu và tay . Chẳng hạn , Kalachakra có 4 gương mặt và 24 tay . Với lối trình bày như thế có thể làm chúng ta hoang mang . Nhưng những lý do của hệ thống Mật tông lại khá sâu sắc .
Mỗi hình tướng biểu
tượng trong thực hành Mật tông đều chứa đựng những chức năng khác biệt .
Từng thành phần của thân , màu sắc chứa đựng nhiều trình độ ý nghĩa .
Sự phức tạp này phản ảnh tức thời bản chất tối ưu của Mật tông - Mình
chính là Phật .
Một vị Phật rất tích
cực và tâm thức đầy đủ những phẩm chất và sự thành tựu . Vì ngài sẵn sàng
phục vụ vào bất cứ lúc nào vì lợi ích chúng sinh . Hơn nữa , cần nhắc lại
vô số đặc trưng một cách chi tiết cho những ai cần giúp đở ; để có thể
hành động vào bất cứ tình huống nào .
Đó là : Sự thành tựu cho dù bất bất cứ
mục tiêu nào cũng không hề vượt khỏi tầm tay .
Trong tình trạng phát
triển hiện thời . Phải chăng chúng ta có đủ khả năng rõ biết nhiều sự việc
cùng một lúc . Chẳng hạn , khi lái xe . Chúng ta đồng thời rõ biết về tốc
độ đang vận hành . Khoảng cách cần thiết để thắng hay để vượt qua xe khác
. Tốc độ của những xe chạy trước . Nơi đến và những bảng chỉ dẫn . . .
Có sự phối hợp chặc
chẻ giữa đôi mắt , tay lái và chân trên những bàn đạp . Chúng ta có thể rõ
biết hơn về những tiếng động bất thường trong máy hay đang nghe nhạc hoặc
nói chuyện với người đồng hành .
Sự mô phỏng Mật tông
không chỉ phát triển với những thái độ sẵn có . Có nghĩa đồng thời rõ biết
một số sự việc nào đó xuất hiện chung quanh . Nếu không có sự hỗ trợ của
kỹ thuật . Rất khó khăn để giữ tâm thức đồng thời trong 24 cái nhìn và
hành động thẩm thấu như 24 cánh tay của Phật
Kalachakra
.
Những phẩm chất lòng
từ hay đức kiên nhẫn và những đặc trưng như sự vô thường . Để nhắc lại
tất cả sự việc . Chúng ta có thể phát minh một hệ thống trợ giúp trí nhớ .
Chẳng hạn chắp từng khúc với những mẫu tự đầu của chúng .
Để trình bày vài số
lượng về cái nhìn thẩm thấu dưới dạng thức hình ảnh là quá trình cực kỳ
thực tiển . Trường hợp một giáo sư cần chuẩn bị chương trình cho một lớp
có 24 học trò . Phần đông các giáo sư khó nhớ lại cá tính và những nhu cầu
riêng biệt của từng trò trong giây phút chuẩn bị giáo án .
Một danh sách tên gọi
có thể làm bảng giúp trí nhớ . Sáng hôm sau , giáo sư hiện diện trước mặt
những trò . Nếu ông chỉ nhìn họ trong một tập họp ; có thể sẽ giúp ông nắm
bắt rõ ràng những sự thay đổi của từng cá nhân . Điều này có thể mang lại
những chức năng riêng biệt về phương pháp hướng dẫn cho từng người một .
Mandala có nghĩa nôm na
là : « Vũ trụ tượng trưng » . Là một phương tiện khác mở rộng sự rõ biết
và nhìn thấu tất cả những sự việc trong tính thuần khiết . Trong bối cảnh
Mật tông , Mandala tượng trưng môi trường dùng để xuất hiện hình tướng của
một vị Phật .
Có nghĩa cung điện và
môi trường ngài sinh sống . Cũng như những bộ phận khác biệt của thân
người . Những nét kiến trúc khác biệt của một
Mandala
là những thành tựu hay những phẩm chất giữ sự sống động tâm thức chúng ta
.
Tất cả
Mandala
cần được xem như chuyển động trong ba chiều . Cũng như bất cứ dinh thự nào
của vũ trụ vật lý . Mandala
được hình thành bằng bột hay cát màu
đặc biệt ; hay được vẽ rõ nét trên vải . Tượng trưng cơ cấu nào đó suốt lễ
khai tâm , những thực hành thiền định được đi kèm và những dự thính viên
mô phỏng Mandala
theo cấu trúc không gian ba chiều
như nghi thức được trình bày .
Thực hành Anuttara Yoga Tantra bao
gồm hai giai đoạn :
Giai đoạn đầu là : Giai đoạn sáng tạo .
Bao hàm
sự mô phỏng phức tạp . Ngày lại ngày suốt những buổi thiền định . Chúng ta
mô phỏng một loạt những biến cố phát sinh từ tâm thức dưới hình tướng một
hay nhiều chư Phật trong vũ trụ tượng trưng cho
Mandala
và sự lãnh hội hay cảm
nhận những khái niệm thuộc về Phật học .
Chẳng hạn như tính không
và lòng từ . Thông
thường , để giúp giữ được dạng thức này trong tâm thức . Chúng ta đọc hay
thuộc lòng những trạng thái
Sadhana
tạo những thực thể cần thiết cho sự mô phỏng .
Giai đoạn thứ
hai là :
Giai đoạn thành tựu .
Nhờ vào
những nỗ lực đã cung cấp suốt giai đoạn đầu . Chúng ta có được sự trưởng
thành cần thiết , để dấn thân vào những thực hành cho sự thành tựu mục
tiêu cuối cùng -
Chính mình trở thành một vị Phật .
Sau khi đã
phát triển chức năng mô phỏng . Chúng ta sử dụng nó như chìa khoá mở cổng
cho những hệ thống năng lượng tế nhị . Những kinh mạch vô hình trong thân
; làm di chuyển năng lượng chi phối tính khí và trạng thái tâm lý .
Nhưng
không thể đi vào năng lượng mà không thực hành giai đoạn sáng tạo . Sau
khi giai đoạn sáng tạo được trui rèn thuần thục .
Chúng ta sẵn sàng di chuyển chúng
vào trong kinh mạch trung ương ; và nó giúp chúng ta quan hệ với tâm thức
rất tế nhị . Có nghĩa là tâm thức ánh sáng sáng tỏ .
Thiền định
tương ứng với trình độ rõ biết tạo ra nguyên nhân tức thời cho sự thành
tựu hiệu dụng thân vật lý và tâm thức thuộc về một vị Phật . Như vậy đến
giai đoạn này không cần thiết nhờ vào sức mạnh của sự mô phỏng .
Sự thành
công trong thực hành Mật tông hay bất cứ những gì khác trong cuộc sống .
Đều ứng dụng đúng theo luật nhân quả . Mục tiêu tối ưu đầu tiên vẫn là vì
lợi ích chúng sinh . Sự thành tựu này gọi là Mật tông kết quả hay dòng
chảy bất tận và liên tục của những thân Phật . Đòi hỏi sự chuyển hóa trong
nền tảng Mật tông căn bản ; với dòng chảy bất tận và liên tục của tâm thức
nguyên thủy của ánh sáng sáng tỏ .
Chúng ta
phải học sử dụng nó như thân minh triết . Có khả năng sáng tạo thân bao la
những hình tướng dẫn đến tỉnh thức . Và quá trình này hoàn thành nhờ vào
Tantra của con đường .
Có nghĩa
dòng chảy bất tận và liên tục của sự thực hành những giai đoạn sáng tạo và
thành tựu . Giai đoạn đầu tiên dẫn đến tâm thức ánh sáng sáng tỏ ; nhờ vào
công việc đã thực hiện năng lượng tế nhị với mô phỏng .
Giai
đoạn thứ hai cung cấp những công cụ cần thiết cho sự thành tựu hiệu dụng
tâm thức ánh sáng sáng tỏ . Khi tác động quyền năng tập trung và mô phỏng
. Như thế , giai đoạn đầu
tiên thực hành Mật tông làm nhân cho sự thành tựu giai đoạn tiếp theo . Vì
thế còn gọi là con đường kết của sự kết quả ( trái ) .
Như đã nói ở trên .
Chúng ta có được tất cả những chất liệu cần thiết ; để hình thành thân vật lý chư Phật ( Năng lượng tích cực ) . Vì chúng là thành phần dùng để lồng vào Mật tông căn bản . Tất cả những tiềm năng cần thiết gắn liền với tâm thức ánh sáng sáng tỏ - Khía cạnh nguyên thủy của Phật tính . Yếu tố chủ yếu cho phép mỗi người đến phiên mình trở thành Phật .
Nhưng , trước khi nghĩ
đến phát triển những tiềm năng , Đương nhiên cần đánh thức chúng . Chính
xác là vai trò :
Truyền trao quyền năng –
Đó là sự cần thiết của buổi lễ khai tâm và nhất là khai tâm về Kalachkra (
Với điều kiện được một vị thầy đủ tư cách trao truyền , như ở chương V ) .
Buổi lễ khai tâm ,
dùng để khởi sự dọn dẹp gọn những chướng ngại của tâm thức thô lỗ ngăn
chận sự phát triển tiềm năng sẵn có của Phật tính . Và cũng chính buổi lễ
khai tâm sẽ đánh thức và cũng cố vững chắc tính Phật .
Quá trình này chia làm hai thời
là :
1-Đón nhận sự tịnh hóa . 2-Gieo giống » .
Nhưng để sự tịnh hóa
có thể hiệu quả và hạt mầm
thật sự được gieo vào tâm thức . Cần nhờ vào sự mô phỏng và có cảm nhận về
sự tịnh hóa và gieo hạt . Vì thế truyền trao quyền năng không chỉ đòi hỏi
hành động từ vị thầy trao truyền . Đồng thời rất cần sự tham gia tích cực
của môn sinh .
Sự hiện diện một vị
thầy tâm linh rất cần thiết . Nếu không ai hỗ trợ và truyền trao kỹ thuật
và giúp đánh thức năng lượng . Nếu chỉ đọc những sách về nghi thức khai
tâm hay xem buổi lễ nào đó trên vidéo hoặc TV . Vẫn không đủ kích hoạt
những tiềm năng Phật . Quả thật cần thiết tham gia trực tiếp vào những
buổi lễ khai tâm để dễ dàng thấu hiểu .
Muốn sử dụng tốt sự
đồng cảm . Mỗi người chúng ta cần biết sự khác biệt giữa sự nghe nhạc qua
băng - đĩa và trực tiếp thưởng thứ trong buổi hòa tấu hoành tráng . Vị
thầy Mật tông sẽ cung cấp sự gợi hứng , lòng xác tín và niềm tự tin cần
thiết . Cũng như những giáo huấn hỗ trợ thực hành Mật tông .
Không kể sự hiện diện tạo
quan hệ không riêng với vị thầy , mà còn những mối quan hệ đến năng lượng
tập họp từ những vị thầy trong dòng ; thậm chí của chính đức Phật ( Sự
gia trì ) . Xác tín những kỹ thuật đánh dấu thành công suốt hàng bao nhiêu
thế kỷ hoàn toàn chính xác và cốt yếu . Vì điều này cho phép chúng ta có
được niềm tin hoàn toàn vào nghi thức khai tâm .
Như thế ; tham gia
buổi lễ khai tâm do vị thầy đủ tiêu chuẩn trao truyền . Không phải không
hữu ích . Đây không phải là tự huyền hoặc hay tự mô phỏng thành chú chuột
Mickey ở Disneyland
. Nhưng với những kỹ thuật Mật tông . Chúng ta tái lập quan hệ với vô số
hành giả đi trước đã thẩm định đánh giá tầm mức về hiệu năng .
Nếu không người giám
hộ , một vườn nho không thể phát triển đúng mức . Tương tự như những hành
giả Mật tông . Những tiềm năng phải được kích hoạt và chúng cần có một cấu
trúc để tự phát triển .
Đây là thành phần chức
năng của những thệ nguyện và những dạng thức dấn thân đi trước mọi trao
truyền quyền năng thuộc dạng thức Mật tông . Mang lại cấu trúc cần thiết
cho sự tiến bộ trên con đường đặc biệt này .
Sự thực hành Mật tông
không thể xem như chuyện giải trí bốc đồng hay hành vi tọa thiền . Với nó
, chúng ta đi vào việc chuyển hóa bao trùm từng khía cạnh của cuộc sống .
Để tiến bộ , cần có những đường chuẩn rõ ràng được cung cấp qua sự quy y .
Cũng như sự nắm bắt những thệ nguyện Bồ tát đạo và Mật tông .
Quy y mang lại hướng
sống vững bền và tích cực ; cho phép chúng ta loại trừ những khuyết điểm
và thực hiện những tiềm năng - Những gì chư Phật đã thành tựu và những
hành giả cực kỳ tỉnh thức về Mật tông . Với những thệ nguyện Bồ tát đạo .
Chúng ta dấn thân và từ khước những thái độ tiêu cực . Vì chúng sẽ cản trở
mục tiêu tối ưu của chính mình .
Chúng ta hứa không
hành động bằng con đường phá hoại thái độ giúp người . Khi giữ những thệ
nguyện Mật tông . Chúng ta không lạc vào con đường khá phức tạp này . Cả
hai phạm trù thệ nguyện cần xem như những món quà vô giá . Nó không phải
là gánh nặng không chịu nổi trên vai .
Đức Phật đã lập ra những
đường chuẩn . Vì thế không cần chính mình tự khám phá . Vì có thể bị lầm
lẫn . Và vài thái độ cho phép chúng ta đạt tỉnh thức vì lợi ích chúng sinh
và xác định những ai rời khỏi hành trình .
Lễ khai tâm Mật tông .
Một nghi thức cực kỳ xinh đẹp . Và khi xuyên qua , nó trở thành điểm tham
khảo không lay chuyển trong tâm thức . Một sự dấn thân vào con đường đã
được đề nghị . Một nghi thức thật cổ xưa cần được nắm bắt bằng mọi giá ;
và chính là sự kiện đánh dấu những bước chuyển tiếp trọng đại của cuộc
sống .
Như vậy , mượn chiếc
xe Mật tông để tự lao vào giai đoạn cao cấp của thực hành Phật học đã đưọc
bảo đảm và xếp vào sự chuyển tiếp trọng đại của cuộc sống . Lễ khai tâm
với những quá trình khác biệt và là sự sáng tạo quan hệ với vị thầy Mật
tông cũng như những thệ nguyện Bồ tát đạo và Mật tông là một biến cố hiếm
hoi và rất khó quên .
Nhiều người hoảng sợ mỗi khi đứng trước vấn đề ;
phải lựa chọn quyết định quan trọng cho dù bất cứ dạng thức nào . Vì e sợ mất tự do , họ tỏ ra hoang mang với thái độ ngập ngừng . Vài người lại nghĩ đến sự bó buộc về luân lý ràng buộc ; khi phải dấn thân vào một vấn đề nào đó .
Và vì sợ hãi sau đó họ
phủ nhận ngay lập tức . Vì thấy lương tâm họ cắn rứt nếu vượt qua khỏi lề
thói .Vì thế rất khó khăn để tự mình quyết định vào công cuộc dấn thân
trọng đại nhất trong cuộc đời .
Ngược lại , những
người khác có vẻ thong dong hơn , họ phỏng đoán những dấn thân có tính
cách chỉ tạm thời và họ có thể phủ nhận ngay lập tức . Họ sẽ không do dự
và sẵn sàng bỏ cuộc trước những bất tiện gặp phải đầu tiên .
Đối với Mật tông , hai
dạng thức tiếp cận này hoàn toàn chướng ngại . Đúng chỉ cần chọn theo
trung đạo ( không thiên vị )
. Một mặt , cần tránh những quyết định vội vàng ; khi chưa đủ chín mùi và
không đo lường được mọi hậu quả sẽ xảy ra .
Mặt khác , không cần
chứng tỏ phải cực độ sướt mướt . Đó là sự đình trệ . Nếu bạn do dự khi dấn
thân vào con đường Mật tông . Hãy đặt những câu hỏi hoàn toàn thành thật
về thái độ và trình độ kiên quyết của mình . Cân nhắc sự dấn thân và hoàn
toàn rõ biết về những dư âm trong cuộc sống . Có nghĩa , bạn cần thời gian
suy nghĩ để thấu tình đạt lý một cách minh triết .
Bạn có thể dự thính
buổi lễ Khai tâm Kalachakra
như một dự thính viên tích cực hay chỉ là một quan sát viên . Những dự
thính viên tích cực nhận lãnh những thệ nguyện thuộc về Mật tông ; tham
gia vào tất cả những kỹ thuật mô phỏng và đón nhận những hiệu quả của sự
trao truyền quyền năng .
Sau đó , phải uốn cuộc
sống theo những thệ nguyện với những dấn thân khác . Ít nhất họ cần thực
hành những trình độ thiền định đầu tiên về Mật tông . Nếu sự trao truyền
quyền năng được vị thầy thuộc dòng Gélug
.
Hằng ngày họ sẽ thực
hành kỹ thuật thiền định gọi là : « Yoga
sáu phần » . Nếu hành giả nào cảm thấy chưa sẵn sàng và chưa thấy cần thiết
phải dấn thân Mật tông ; sẽ được khuyến khích chỉ nên tham dự lễ khai tâm
như một quan sát viên .
Nếu bạn quyết định
tham dự lễ khai tâm Mật tông như quan sát viên . Không có lý do nào bạn
cảm thấy xấu hổ hay thấy mình phạm tội . Thật vô cùng sáng suốt khi chọn
mô hình tham gia này ; hơn là quyết định dấn thân . Vì sau đó bạn có nguy
cơ hối tiếc .
Những quan sát viên
đồng thời vẫn có thể tham gia vào những buổi lễ dù với phương cách khác
biệt . Nhưng , cho dù bạn chọn làm quan sát viên hay chỉ là dự thính viên
tích cực . Lễ khai tâm cũng rất phong phú với nhiều ý nghĩa . Nếu trước đó
bạn đã làm quen với những giáo huấn vở lòng của Mật tông .
Chúng ta giả định ; tối thiểu bạn đã hiểu biết lý
thuyết Phật học .
Cũng như có nền tảng đầy đủ về cái nhìn thẩm thấu . Cũng giả định bạn có niềm tin tối thiểu về hiệu năng của những kỹ thuật về Anattura Yoga Tantra ; và một vài xác tín hữu dụng cho chính mình .
Dù cảm thấy đã sẵn
sàng đón nhận lễ khai tâm Mật tông hay chỉ là dự thính như quan sát viên .
Hiển nhiên với dự ý sáng tạo những quan hệ mãnh liệt với Mật tông để có sự
dấn thân về tương lai .
Sau đó vấn đề được đặt
ra vẫn như nhau : Sự lựa chọn bên trong của
Anuttara Yoga Tantra
thích hợp với bạn nhất . Môn học lại cực kỳ
bao la , được viết bằng ngôn ngữ hoàn toàn xa lạ . Bạn có thể không có
quan hệ đầy đủ và mật thiết với vị thầy tâm linh để có thể xin ông lời
khuyên .
Như thế quả thật quá
hoang mang . Hơn nữa , những vị thầy đầy đủ tư cách ; khó thể đến quốc gia
hay khu vực của bạn . Và càng hiếm hoi hơn nữa trong việc truyền trao nghi
thức khai tâm thuộc đẳng cấp khó vượt qua của thuộc hệ thống
Tantra
cao cấp .
Một trong những điểm mấu
chốt được xem như liên quan đến phẩm chất bên trong vị thầy . Nếu ông
không đủ tiêu chuẩn , quả thật vô ích để tham gia vào lễ khai tâm do ông
trao truyền . Ngay cả việc bạn hoàn toàn tha thiết thỉnh cầu đón nhận .
Những ai
được đào tạo với những nghi thức khai tâm ? . Và người nào có khả năng chủ
tọa lễ khai tâm ? . Ít ra phải có đẳng cấp
Anuttara Yoga Tantra
bên ngoài ; cho dù chưa đầy đủ những phẫm chất bên trong cần thiết . Điều
này quả thật uổng công . Vậy cần tránh chi phối trong sự chọn lựa một hệ
thống Mật tông . Và tự hỏi thực sự
có thích hợp với bạn hay không ?.
Đôi khi
, sự ưu tiên nhằm thiết lập những quan hệ mật thiết với giảng sư ,; tuy
không dưới hình tướng vị Phật khi trao truyền quyền năng . Đồng thời lý
tưởng hiển nhiên nhất là :
Tìm ra vị
thầy và hệ thống Mật tông bạn cảm thấy thật sự tương hợp để có thể quyết
định . Nếu hệ thống này chính xác là hệ thống Kalachakra .
Ít ra cần nhận ra dù chỉ một ít trong những khía
cạnh khác biệt .
tonysham05:
Làm thế nào nhận ra hệ thống thích hợp ? karunasham: Không ai có thể nhận ra nếu không sẵn có vị thầy truyền trao . Tất cả nằm trong chử duyên sẵn có . Cũng như làm sao có thể nhận ra Tino tonysham05: Tác giả chỉ giới thiệu những căn bản Mật tông ? karunasham: Tất cả chỉ cần nhận thấy sự tương ưng rồi duyên sẽ đưa đến .HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH,( MHDT ).13/4/2012. |
Friday, 13 April 2012
I-NHAP MON MAT TONG.
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment