Friday, 13 April 2012

I-NHAP MON MAT TONG.


 
 
 

 
Trở thành đức Phật , có nghĩa đạt đến tỉnh thức trọn vẹn . Với đòi hỏi loại trừ toàn diện những bất toàn của chúng ta và thành tựu tất cả những tiềm năng để có thể giúp người một cách có hiệu quả .
Những đau khổ trong thế giới chúng ta quả thật bao la . Quá thật khẩn thiết để tìm ra những phương pháp hữu hiệu để có thể giảm thiểu đau khổ . Đó là những gì trong những lễ khai tâm pháp Kalachakra đề nghị .
Từ Tây tạng Wang là : “ Quyền năng ” và lễ khai tâm là : Có đối tượng chính xác để trao truyền và cung cấp quyền năng . Khả năng tự dấn thân vào thực hành thiền định riêng biệt với cứu cánh tối ưu là thành tựu tỉnh thức và đi vào trạng thái Phật vì lợi ích chúng sinh .
Kalachakra là hệ thống thiền định thuộc về Anuttara Yoga . Đẳng cấp cao nhất trong bốn đẳng cấp Mật tông ( Anuttara là khó thể vượt qua ) . Nhiều người Tây phương , tuy chấp nhận ; nhưng vẫn còn duy trì những tư tưởng sai lầm về Mật tông . Họ suy tưởng lễ khai tâm Mật tông giúp những tín đồ đi vào thế giới của pháp thuật , tính dục ngoại hạng và với những quyền năng thần khốc .
Vì vậy , khi biết rằng trong hiện thực lại hoàn toàn khác biệt . Thực hành Mật tông là cái gì đó cực kỳ phức tạp . Nhất là đòi hỏi một trình độ tâm linh rất cao , mà sự thành tựu cần phải dấn thân sâu sắc và tuân thủ nhiều phạm trù thệ nguyện . Điều này làm họ bối rối và lo sợ . Vì thế nảy sinh trong họ  hai thái độ : Hăng hái quá trớn hay sợ hãi vì nhận thầy không còn lý do để hiện hữu .
Vì thế , chúng ta cần chọn theo lối tiếp cận hiện thực đối với Mật tông nói chung ,  và lễ khai tâm Pháp Kalachakra nói riêng . Như Tsenzhab Serkhong Rinpoché ,  giảng sư chính của tôi nói :
“ Nếu anh lao vào những thực hành huyền hoặc , kết quả sẽ huyền hoặc . Nếu anh thực hành những phương pháp có giá trị , kết quả cũng rất có giá trị ” .  
Từ Mật tông nghĩa thông thường là cá tính bất tận và liên tục .
Như thế , nó vận hành trên 3 bình diện :
Căn bản ,
Con đường ;
Quả hay trái .
Căn bản là :
Dòng chảy bất tận và liên tục có nghĩa tâm thức con người ,
Hay chính xác hơn ở trình độ rất vi tế ;
Là ánh sáng sáng tỏ nguyên thủy tồn tại từ đời này sang đời khác .
Phẫm chất tâm thức có thể so sánh với chùm sáng thuần khiết sáng tỏ đầy rõ biết ; không bị những dao động tâm thức thô lỗ và quan niệm tác động hay bị những cảm xúc quấy nhiễu . Gây căng thẳng sự trải nghiệm cuộc sống bình thường trong  trạng thái thức cũng như ngủ .
Tâm thức rất tế nhị được so sánh như radio . Giả định nó có thể vận hành liên tục xuyên thời gian . Sự kiện thay đổi độ dài bước sóng hay những tần số , không ảnh hưởng gì đến sự vận hành căn bản của đài thu phát . Tương tự , tâm thức rất tế nhị không bao giờ bị « tắt » . Nó hợp thành căn bản trải nghiệm về sự chết hay Bardo ( Trạng thái trung gian giữa hai lần sinh và sự tái sinh ) .
Những thay đổi đài thu phát hay âm lượng . Sự nhiễu sóng không ảnh hưởng gì đến sự căn bản vận hành của đài thu phát . Tương tự , trạng thái tái sinh . Cường độ của trải nghiệm  hay những « ô nhiễm » do tư tưởng hay tính khí phù du không ảnh hưởng tâm thức rất vi tế của chúng ta .
Tâm thức ánh sáng sáng tỏ tồn tại trạng thái Phật . Vì nó là nền tảng của tỉnh thức . Hơn nữa , dòng chảy bất tận và liên tục của tâm thức . Cho dù trước hay sau tỉnh thức là cá tính đặc biệt tuyệt đối cá nhân . Và không đài thu phát nào lại có thể hoàn toàn giống như nhau . Thực sự không thể có tâm thức toàn năng ánh sáng sáng tỏ hay Mật tông căn bản phục vụ toàn bộ cho nhân loại .
Nhiệm vụ thứ hai của Mật tông :
Dòng chảy bất tận và liên tục của con đường dính liền với những phương pháp cho phép đạt đến trạng thái Phật . Bao gồm những kỹ thuật thiền định liên quan đến những hình tượng của chư Phật . Phương pháp này đôi khi được chỉ định bằng thuật ngữ : « Yoga về thần linh » .
Nhiệm vụ thứ ba của Mật tông :
Kết quả hay trái dính liền với dòng chảy bất tận và liên tục những thân chư Phật thành tựu nhờ vào tỉnh thức . Để có thể giúp người trọn vẹn . Chúng ta cần sản sinh những thân vật lý hay những bộ sưu tập hiểu biết đầy minh triết . Những trải nghiệm và hình tướng được chọn lọc theo những nhu cầu đa dạng . Những con người chúng ta để nghị giúp đở , cũng những những hoàn cảnh của sự giúp đở .
Tóm lại , Mật tông đòi hỏi dòng chảy bất tận và liên tục rõ biết về những ô nhiễm phù du , để có thể thực hiện  trên căn bản dòng chảy bất tận và liên tục những thân vật lý của một vị Phật . Những văn bản chuyên về chủ đề này được mang tên là « Mật điển » .
Vài người hoang mang ; trong lần đầu tiên nghe nói thực hành thiền định để phát sinh trong tâm thức những thần linh được gọi là “ Yidams ” và “ Dakinis ”  . Vì họ đang sống ở nền tảng văn hóa hoàn toàn khác biệt . Và tự đồng hóa mình với những thần linh Mật tông . Có nghĩa trở thành những người sáng tạo có quyền năng tuyệt đối hay vẫn tiếp tục chịu đựng những giới hạn của trạng thái tái sinh cho dù đã biết những mỹ vị của thượng giới .
Thật ra , những thần linh Mật tông là những hình tướng nam - nữ . Là hình tướng chư Phật được biểu lộ để giúp những ai theo sự chuyển hóa tự nhiên đang thực hành con đường Mật tông .
Nhất là vượt qua những khuyết điểm và thực hiện những tiềm năng riêng biệt . Đồng thời , mỗi hình tượng Phật đồng tượng trưng cho sự tỉnh thức trọn vẹn . Đó là nét đặc trưng của tỉnh thức . Có thể liệt kê vài thí dụ như :  Avalokteshvara tượng trưng cho lòng từ , trong khi Manjoushri là biểu tượng của sự minh triết .
Về phần Kalachakra , tượng trưng cho khả năng đương đầu với bất cứ tình huống nào và bất cứ lúc nào . Thiền định tập trung vào những hình tượng chư Phật hay vào những nét đặc trưng . Đồng thời tạo ra chủ đề tập trung và hình thành cấu trúc thực hành . Điều này có khuynh hướng gia tăng sự tiến bộ về phía tỉnh thức .
Để làm nhẹ những đau khổ cho người nhanh chóng . Đòi hỏi chúng ta ứng dụng những phương pháp hiệu quả để có được những khả năng tỉnh thức về thân , lời và tâm thức của chư Phật .
Những điều kiện căn bản của sự sở hữu này là : Vững chắc và kiên quyết tự giải phóng chúng ta khỏi những giới hạn . Tình thương rộng lớn và lòng từ vô hạn , kỷ luật đạo đức . Sức mạnh tập trung , sự lãnh hội cân bằng hiện thực và thái độ phục vụ người bằng nhiều cách khác nhau .
Sau khi trưởng dưỡng từng phẩm chất riêng rẽ . Sau đó , cần trưởng dưỡng hơn thêm nữa và cùng hoàn thiện , để có thể hình thành đầy đủ những phẩm chất của trái quả . Với Yoga thần linh , sẵn có kỹ thuật thích hợp . Có thể nói thực hành Yoga thần linh tương tự như lặp lại một vở tuồng . Chúng ta mặc bộ quần áo thích hợp mô phỏng mình là hình tượng chư Phật riêng biệt sẵn có tất cả những khả năng tỉnh thức .
Khi tự trình vận hành theo cách này . Chúng ta phát sinh nguyên nhân cho hòa nhập và cập nhật hình tượng riêng biệt trong thời gian ngắn nhất . Nhưng đây là kỹ thuật thuộc về giai đoạn cao của con đường Mật tông . Có thể chỉ cần mô phỏng chúng ta đạt được tất cả những phẩm chất vị Phật . Vì thế cần phải thực hành từng phẩm chất riêng biệt .
Để có thể nhập vai trong tổng thể , cần bắt đầu bằng cách học thuộc lòng . Sau đó lặp lại với một số lượng nào đó , từng giai đoạn một . Vì thế ; thật thận trọng cũng như cần thật thông tuệ khi bước vào thực hành Mật tông trước khi trải nghiệm lớn về thiền định .
Thực hành Mật tông cũng có nghĩa là thuần hóa sự mô phỏng .
Công cụ dũng mãnh này mỗi người chúng ta đã có sẵn .
Kiên trì mô phỏng đạt đến một mục tiêu được định sẵn ;
là phương pháp vững chắc để tịnh hóa .
Giả định , chẳng hạn nếu không có việc làm . Bạn liên tục mô phỏng mình đã tìm ra một việc làm , cơ hội thành công đương nhiên sẽ tốt hơn . Nếu thất bại , chúng ta than vãn trên sự đau khổ và nhắc đi nhắc lại cho đến ngày nhắm mắt . Nhưng nguyên nhân thành công chính là trạng thái tâm thức tích cực của mình .
Ngược lại , nếu cứng ngắt trong trạng thái tiêu cực . Hay bạn không có sự tự tin cần thiết để tự đi tìm việc làm . Như thế , thất bại hay thành công tùy thuộc rất nhiều vào hình ảnh đã có về chính mình . Vì vậy Mật tông nhắc nhở chúng ta làm việc cho sự cải thiện hình ảnh cá nhân nhờ vào mô phỏng những hình tượng chư Phật .
Sự kiện mô phỏng chúng ta là một vị Phật tạo ra hình ảnh chính mình cực kỳ dũng mãnh ; có khả năng vô hiệu hóa những thói quen tiêu cực và tâm trạng thiếu khả năng của mình . Nhưng sẽ không thích hợp . Nếu nhận định sai về con đường Mật tông khi thực hành tư tưởng tích cực .
Khi sử dụng khả năng mô phỏng , thật sự cần phải cụ thể . Cần phải phân biệt giữa  huyền hoặc và hiện thực . Nếu không chúng ta sẽ lao vào những vấn đề tâm lý trầm trọng . Tất cả những vị thầy Mật tông . Tất cả những Mật điển đều nhấn mạnh sự thành tựu tiên quyết hay một lãnh hội gần như bền vững về tính không .
Những gì có thể định nghĩa là : Tâm thức gần như vắng bặt ,  trống không mọi dạng thức huyền hoặc như mô hình thật hiện thực . Với cái nhìn về sự tương thuộc những sự việc quay trở lại hiện hữu . Tất cả sự việc đều lệ thuộc những nguyên nhân và hậu quả . Như tất cả mọi người chúng ta sẵn sàng tìm một việc làm .
Không ai là kẻ “ bại trận ” từ khi sinh ra đời . Không một khả năng nào như thế cả . Tìm việc làm tùy thuộc một phần vào hoàn cảnh kinh tế . Nhưng cũng nương nhờ vào những nỗ lực chúng ta trải bày theo những chiều hướng này .
Rất nhiều người phủ nhận con đường Mật tông , với lý do nó liên quan đến kỹ thuật thực hành này giống như tự thôi miên . Thật ra , mô phỏng mình là Phật không phải là tự huyễn hoặc . Vì chính tự mỗi người chúng ta đã sẵn có tất cả những yếu tố cần thiết của Phật tính .
Tất cả chúng ta đều sẵn có một tâm thức , một trái tim . Đầy đủ khả năng giao lưu với người và thế giới . Cũng như năng lượng vật lý và những chất liệu hoàn hoàn đầy đủ để phục hồi những khả năng tỉnh thức của một vị Phật . Càng về lâu , khi rõ biết thật sự chưa đạt đến giai đoạn thành tựu . Và bản ngã không còn tự thổi phồng với những ảo hóa vĩ đại . Chính vào lúc này , có thể thiền định về hình tượng chư Phật mà không chạm đến những hiểm nguy về tâm linh .
Vì thế , trên con đường Mật tông . Chúng ta mô phỏng những gì sẵn có về hình tướng , môi trường , thái độ và cuộc sống nội hỉ của một vị Phật . Thân vật lý của một vị Phật được hợp thành từ ánh sáng sáng tỏ . Mỗi vị Phật có khả năng phục vụ tha nhân không mệt mõi với hiệu năng toàn hảo . Tuy chúng ta mô phỏng hình tượng một vị Phật . Dù vậy không thể chuyển hóa thành một người quần quật với công việc hay như những nhà tuẫn đạo không có khả năng nói không .
Những hành giả Mật tông biết nghỉ ngơi mỗi khi cảm thấy cần thiết . Dù vậy , còn  giử trong tâm thức hình ảnh bản ngã thật khổng lồ có hiệu quả làm lùi những giới hạn quen thuộc . Vì khi đã giử cái lớn nhất thì cái nhỏ không thể tồn đọng .
Tất cả chúng ta đều tồn trử sẵn những năng lượng gần như vô tận , tuy có thể vơi đi nhất là khi gặp trường hợp khẩn cấp . Nhưng không cha mẹ nào kiệt quệ đến nổi không còn sức mạnh bay đến hỗ trợ con mình vừa té ngã .
Hơn nữa , suốt thời thực hành Mật tông . Chúng ta cảm nhận một môi trường hoàn toàn thuần khiết đáp ứng cho sự tiến bộ tâm linh của tất cả chúng sinh . Mô phỏng môi trường như thế sẽ không rơi hậu quả vô tình với vấn đề môi sinh hay xã hội .
Thật đơn giản , để phục vụ người và chính mình vượt qua trạng thái ủ rủ và hoang mang như sự thất vọng có thể lao vào . Chúng ta thấy không bao giờ mình ù lì với những khía cạnh tiêu cực của môi trường chung quanh .
Với động năng mạnh vừa đủ ,  kết hợp với những phương pháp có khả năng chuyển hóa những thái độ bên trong . Giúp chúng ta tiến bộ trên con đường tâm linh cũng như sự thảm hại của tình trạng thế giới bên ngoài . Thay vì ; không ngừng tự than thân trách phận và tạo dựng thành những lời tiên đoán về đau khổ . Chúng ta thích hy vọng ngay trong hành động . Đồng thời hồi hướng cho toàn thể thế giới .
Mô phỏng mình có khả năng hành xử như chư Phật và điều này là vì lợi ích của người khác và tất cả chúng sinh . Chúng ta có niềm xác tín riêng với mô hình hiện hữu . Và hành động này tác động ảnh hưởng rực rở lên môi trường xung quanh .
Những ai có thể tiếp cận những người có tính tâm linh rất cao như Đức Đạt lai Lạt ma hay mẹ Théresa , sẽ hiểu chính xác sự khẳng định như thế . Phần đông những người này . Ngay cả khi họ ít cảm nhận cũng cảm thấy như đất vở trước mắt để khuyến khích hành động với nhiều cao thượng của tâm não hơn .
Khi thực hành Mật tông , chúng ta mô phỏng đã có những hệ quả tương đồng với những người xung quanh . Thậm chí duy chỉ hiện diện hay khi nghe đến tên cũng đủ làm họ xoa dịu . Vì đã mang lại sự bình yên tâm thức và hoan hỉ cũng như sách tấn để vươn cao hơn với chiều cao mới của cuộc sống .
Cuối cùng , chúng ta mô phỏng thưởng thức tất cả sự việc với cùng tính thuần khiết tâm thức như những chư Phật . Phong cách nội hỉ thông thường của chúng ta thật sự vẫn còn ướm màu lầm lẫn ; với những gì Phật học thường chỉ định bằng thuật ngữ  « Niềm vui lan tỏa » .
Cho nên chúng ta thấy lúc nào cũng lặp lại và mãi mãi hoài không thể hài lòng về bất cứ điều gì . Chúng ta nghe nhạc mà không thật sự thưởng thức và tự thuyết phục phẫm chất âm thanh dàn hi-fi của mình không bằng dàn nhạc của nhà hàng xóm . Ngược lại , một vị Phật hoàn toàn vui với tất cả với tâm thức không vấy bất cứ dấu vết lầm lẫn nào cho dù thật nhỏ .
Nên khi thực hành Mật tông . Chúng ta mô phỏng cùng trong trạng thái này . Chẳng hạn , thực hiện cúng dường ánh sáng , hương khói hay thực phẫm . Hoặc thực hành một vài nghi thức nào đó trong niềm vui lan tỏa .
Nhiều vị Phật tượng trưng bằng biểu tượng :
Một thân với nhiều màu khác nhau .
Với vài cái đầu và tay .
Chẳng hạn ,
 Kalachakra có 4 gương mặt và 24 tay .
Với lối trình bày như thế có thể làm chúng ta hoang mang .
Nhưng những lý do của hệ thống Mật tông lại khá sâu sắc .
Mỗi hình tướng biểu tượng trong thực hành Mật tông đều chứa đựng những chức năng khác biệt . Từng thành phần của thân , màu sắc chứa đựng nhiều trình độ ý nghĩa . Sự phức tạp này phản ảnh tức thời bản chất tối ưu của Mật tông - Mình chính là Phật .
Một vị Phật rất tích cực và tâm thức đầy đủ những phẩm chất và sự thành tựu . Vì ngài sẵn sàng phục vụ vào bất cứ lúc nào vì lợi ích chúng sinh . Hơn nữa , cần nhắc lại vô số đặc trưng một cách chi tiết cho những ai cần giúp đở ; để có thể hành động vào bất cứ tình huống nào . Đó là : Sự thành tựu cho dù bất bất cứ mục tiêu nào cũng không hề vượt khỏi tầm tay .
Trong tình trạng phát triển hiện thời . Phải chăng chúng ta có đủ khả năng rõ biết nhiều sự việc cùng một lúc . Chẳng hạn , khi lái xe . Chúng ta đồng thời rõ biết về tốc độ đang vận hành . Khoảng cách cần thiết để thắng hay để vượt qua xe khác . Tốc độ của những xe chạy trước . Nơi đến và những bảng chỉ dẫn . . .
Có sự phối hợp chặc chẻ giữa đôi mắt , tay lái và chân trên những bàn đạp . Chúng ta có thể rõ biết hơn về những tiếng động bất thường trong máy hay đang nghe nhạc hoặc nói chuyện với người đồng hành .
Sự mô phỏng Mật tông không chỉ phát triển với những thái độ sẵn có . Có nghĩa đồng thời rõ biết một số sự việc nào đó xuất hiện chung quanh . Nếu không có sự hỗ trợ của kỹ thuật . Rất khó khăn để giữ tâm thức đồng thời trong 24 cái nhìn và hành động thẩm thấu như 24 cánh tay của Phật Kalachakra .
Những phẩm chất lòng từ  hay đức kiên nhẫn và những đặc trưng như sự vô thường . Để nhắc lại tất cả sự việc . Chúng ta có thể phát minh một hệ thống trợ giúp trí nhớ . Chẳng hạn chắp từng khúc với những mẫu tự đầu của chúng .
Để trình bày vài số lượng về cái nhìn thẩm thấu dưới dạng thức hình ảnh là quá trình cực kỳ  thực tiển . Trường hợp một giáo sư cần chuẩn bị chương trình cho một lớp có 24 học trò . Phần đông các giáo sư khó nhớ lại cá tính và những nhu cầu riêng biệt của từng trò trong giây phút chuẩn bị giáo án .
Một danh sách tên gọi có thể làm bảng giúp trí nhớ . Sáng hôm sau , giáo sư hiện diện trước mặt những trò . Nếu ông chỉ nhìn họ trong một tập họp ; có thể sẽ giúp ông nắm bắt rõ ràng những sự thay đổi của từng cá nhân . Điều này có thể mang lại những chức năng riêng biệt về phương pháp hướng dẫn cho từng người một .
Mandala có nghĩa nôm na là : « Vũ trụ tượng trưng » . Là một phương tiện khác mở rộng sự rõ biết và nhìn thấu tất cả những sự việc trong tính thuần khiết . Trong bối cảnh Mật tông , Mandala tượng trưng môi trường dùng để xuất hiện hình tướng của một vị Phật .
Có nghĩa cung điện và môi trường ngài sinh sống . Cũng như những bộ phận khác biệt của thân người . Những nét kiến trúc khác biệt của một Mandala là những thành tựu hay những phẩm chất giữ sự sống động tâm thức chúng ta .
Tất cả Mandala cần được xem như chuyển động trong ba chiều . Cũng như bất cứ dinh thự nào của vũ trụ vật lý . Mandala được hình thành bằng bột hay cát màu đặc biệt ; hay được vẽ rõ nét trên vải . Tượng trưng cơ cấu nào đó suốt lễ khai tâm , những thực hành thiền định được đi kèm và những dự thính viên mô phỏng Mandala theo cấu trúc không gian ba chiều như nghi thức được trình bày .
Thực hành Anuttara Yoga Tantra bao gồm hai giai đoạn :
Giai đoạn đầu là : Giai đoạn sáng tạo .
Bao hàm sự mô phỏng phức tạp . Ngày lại ngày suốt những buổi thiền định . Chúng ta mô phỏng một loạt những biến cố phát sinh từ tâm thức dưới hình tướng một hay nhiều chư Phật trong vũ trụ tượng trưng cho Mandala và sự lãnh hội hay cảm nhận những khái niệm thuộc về Phật học . Chẳng hạn như tính không và lòng từ . Thông thường , để giúp giữ được dạng thức này trong tâm thức . Chúng ta đọc hay thuộc lòng những trạng thái Sadhana tạo những thực thể cần thiết cho sự mô phỏng .
Giai đoạn thứ hai là : Giai đoạn thành tựu .
Nhờ vào những nỗ lực đã cung cấp suốt giai đoạn đầu . Chúng ta có được sự trưởng thành cần thiết , để dấn thân vào những thực hành cho sự thành tựu mục tiêu cuối cùng - Chính mình trở thành một vị Phật .
Sau khi đã phát triển chức năng mô phỏng . Chúng ta sử dụng nó như chìa khoá mở cổng cho những hệ thống năng lượng tế nhị . Những kinh mạch vô hình trong thân ; làm di chuyển năng lượng chi phối tính khí và trạng thái tâm lý .
Nhưng không thể đi vào năng lượng mà không thực hành giai đoạn sáng tạo . Sau khi giai đoạn sáng tạo được trui rèn thuần thục . Chúng ta sẵn sàng di chuyển chúng vào trong kinh mạch trung ương ; và nó giúp chúng ta quan hệ với tâm thức rất tế nhị . Có nghĩa là tâm thức ánh sáng sáng tỏ .
Thiền định tương ứng với trình độ rõ biết tạo ra nguyên nhân tức thời cho sự thành tựu hiệu dụng thân vật lý và tâm thức thuộc về một vị Phật . Như vậy đến giai đoạn này không cần thiết nhờ vào sức mạnh của sự mô phỏng .
Sự thành công trong thực hành Mật tông hay bất cứ những gì khác trong cuộc sống . Đều ứng dụng đúng theo luật nhân quả . Mục tiêu tối ưu đầu tiên vẫn là vì lợi ích chúng sinh . Sự thành tựu này gọi là Mật tông kết quả hay dòng chảy bất tận và liên tục của những thân Phật . Đòi hỏi sự chuyển hóa trong nền tảng Mật tông căn bản ; với dòng chảy bất tận và liên tục của tâm thức nguyên thủy của ánh sáng sáng tỏ .
Chúng ta phải học sử dụng nó như thân minh triết . Có khả năng sáng tạo thân bao la những hình tướng dẫn đến tỉnh thức . Và quá trình này hoàn thành nhờ vào Tantra của con đường .
Có nghĩa dòng chảy bất tận và liên tục của sự thực hành những giai đoạn sáng tạo và thành tựu . Giai đoạn đầu tiên dẫn đến tâm thức ánh sáng sáng tỏ ; nhờ vào công việc đã thực hiện năng lượng tế nhị với mô phỏng .
Giai đoạn thứ hai cung cấp những công cụ cần thiết cho sự thành tựu hiệu dụng tâm thức ánh sáng sáng tỏ . Khi tác động quyền năng tập trung và mô phỏng . Như thế , giai đoạn đầu tiên thực hành Mật tông làm nhân cho sự thành tựu giai đoạn tiếp theo . Vì thế còn gọi là con đường kết của sự kết quả ( trái ) .
Như đã nói ở trên .
Chúng ta có được tất cả những chất liệu cần thiết ;
để hình thành thân vật lý chư Phật ( Năng lượng tích cực ) .
Vì chúng là thành phần dùng để lồng vào Mật tông căn bản .
Tất cả những tiềm năng cần thiết gắn liền với tâm thức ánh sáng sáng tỏ -
Khía cạnh nguyên thủy của Phật tính .
Yếu tố chủ yếu cho phép mỗi người đến phiên mình trở thành Phật .
Nhưng , trước khi nghĩ đến phát triển những tiềm năng , Đương nhiên cần đánh thức chúng . Chính xác là vai trò :
Truyền trao quyền năng – Đó là sự cần thiết của buổi lễ khai tâm và nhất là khai tâm về Kalachkra ( Với điều kiện được một vị thầy đủ tư cách trao truyền , như ở chương V ) .
Buổi lễ khai tâm , dùng để khởi sự dọn dẹp gọn những chướng ngại của tâm thức thô lỗ ngăn chận sự phát triển tiềm năng sẵn có của Phật tính . Và cũng chính buổi lễ khai tâm sẽ đánh thức và cũng cố vững chắc tính Phật .
 
Quá trình này chia làm hai thời là :

1-
Đón nhận sự tịnh hóa .
2-Gieo giống » .
Nhưng để sự tịnh hóa có thể hiệu quả và hạt mầm thật sự được gieo vào tâm thức . Cần nhờ vào sự mô phỏng và có cảm nhận về sự tịnh hóa và gieo hạt . Vì thế truyền trao quyền năng không chỉ đòi hỏi hành động từ vị thầy trao truyền . Đồng thời rất cần sự tham gia tích cực của môn sinh .
Sự hiện diện một vị thầy tâm linh rất cần thiết . Nếu không ai hỗ trợ và truyền trao kỹ thuật và giúp đánh thức năng lượng . Nếu chỉ đọc những sách về nghi thức khai tâm hay xem buổi lễ nào đó trên vidéo hoặc TV . Vẫn không đủ kích hoạt những tiềm năng Phật . Quả thật cần thiết tham gia trực tiếp vào những buổi lễ khai tâm để dễ dàng thấu hiểu .
Muốn sử dụng tốt sự đồng cảm . Mỗi người chúng ta cần biết sự khác biệt giữa sự nghe nhạc qua băng - đĩa và trực tiếp thưởng thứ trong buổi hòa tấu hoành tráng . Vị thầy Mật tông sẽ cung cấp sự gợi hứng , lòng xác tín và niềm tự tin cần thiết . Cũng như những giáo huấn hỗ trợ thực hành Mật tông .
Không kể sự hiện diện tạo quan hệ không riêng với vị thầy , mà còn những mối quan hệ đến năng lượng tập họp từ những vị thầy trong dòng ; thậm chí của chính đức Phật  ( Sự gia trì ) . Xác tín những kỹ thuật đánh dấu thành công suốt hàng bao nhiêu thế kỷ hoàn toàn chính xác và cốt yếu . Vì điều này cho phép chúng ta có được niềm tin hoàn toàn vào nghi thức khai tâm .
Như thế ; tham gia buổi lễ khai tâm do vị thầy đủ tiêu chuẩn trao truyền . Không phải không hữu ích . Đây không phải là tự huyền hoặc hay  tự mô phỏng thành chú chuột Mickey ở Disneyland . Nhưng với những kỹ thuật Mật tông . Chúng ta tái lập quan hệ với vô số hành giả đi trước đã thẩm định đánh giá tầm mức về hiệu năng .
Nếu không người giám hộ , một vườn nho không thể phát triển đúng mức . Tương tự như những hành giả Mật tông . Những tiềm năng phải được kích hoạt và chúng cần có một cấu trúc để tự phát triển .
Đây là thành phần chức năng của những thệ nguyện và những dạng thức dấn thân đi trước mọi trao truyền quyền năng thuộc dạng thức Mật tông . Mang lại cấu trúc cần thiết cho sự tiến bộ trên con đường đặc biệt này .
Sự thực hành Mật tông không thể xem như chuyện giải trí bốc đồng hay hành vi tọa thiền . Với nó , chúng ta đi vào việc chuyển hóa bao trùm từng khía cạnh của cuộc sống . Để tiến bộ , cần có những đường chuẩn rõ ràng được cung cấp qua sự quy y . Cũng như sự nắm bắt những thệ nguyện Bồ tát đạo và Mật tông .
Quy y mang lại hướng sống vững bền và tích cực ; cho phép chúng ta loại trừ những khuyết điểm và thực hiện những tiềm năng - Những gì chư Phật đã thành tựu và những hành giả cực kỳ tỉnh thức về Mật tông . Với những thệ nguyện Bồ tát đạo . Chúng ta dấn thân và từ khước những thái độ tiêu cực . Vì chúng sẽ cản trở mục tiêu tối ưu của chính mình .
Chúng ta hứa không hành động bằng con đường phá hoại thái độ giúp người . Khi giữ những thệ nguyện Mật tông . Chúng ta không lạc vào con đường khá phức tạp này .  Cả hai phạm trù thệ nguyện cần xem như những món quà vô giá . Nó không phải là gánh nặng không chịu nổi trên vai .
Đức Phật  đã lập ra những đường chuẩn . Vì thế không cần chính mình tự khám phá . Vì có thể bị lầm lẫn . Và vài thái độ cho phép chúng ta đạt tỉnh thức vì lợi ích chúng sinh và xác định những ai rời khỏi hành trình .
Lễ khai tâm Mật tông . Một nghi thức cực kỳ xinh đẹp . Và khi xuyên qua , nó trở thành điểm tham khảo không lay chuyển trong tâm thức . Một sự dấn thân vào con đường đã được đề nghị . Một nghi thức thật cổ xưa cần được nắm bắt bằng mọi giá ; và chính là sự kiện đánh dấu những bước chuyển tiếp trọng đại của cuộc sống .
Như vậy , mượn chiếc xe Mật tông để tự lao vào giai đoạn cao cấp của thực hành Phật học đã đưọc bảo đảm và xếp vào sự chuyển tiếp trọng đại của cuộc sống . Lễ khai tâm với những quá trình khác biệt và là sự sáng tạo quan hệ với vị thầy Mật tông cũng như những thệ nguyện Bồ tát đạo và Mật tông là một biến cố hiếm hoi và rất khó quên .
Nhiều người hoảng sợ mỗi khi đứng trước vấn đề ;
phải lựa chọn quyết định quan trọng cho dù bất cứ dạng thức nào .
Vì e sợ mất tự do , họ tỏ ra hoang mang với thái độ ngập ngừng .
Vài người lại nghĩ đến sự bó buộc về luân lý ràng buộc ;
khi phải dấn thân vào một vấn đề nào đó .
Và vì sợ hãi sau đó họ phủ nhận ngay lập tức . Vì thấy lương tâm họ cắn rứt nếu vượt qua khỏi lề thói .Vì thế rất khó khăn để tự mình quyết định vào công cuộc dấn thân trọng đại nhất trong cuộc đời .
Ngược lại , những người khác có vẻ thong dong hơn , họ phỏng đoán những dấn thân có tính cách chỉ tạm thời và họ có thể phủ nhận ngay lập tức . Họ sẽ không do dự và sẵn sàng bỏ cuộc trước những bất tiện gặp phải đầu tiên .
Đối với Mật tông , hai dạng thức tiếp cận này hoàn toàn chướng ngại . Đúng chỉ cần chọn theo trung đạo ( không thiên vị ) . Một mặt , cần tránh những quyết định vội vàng ; khi chưa đủ chín mùi và không đo lường được mọi hậu quả sẽ xảy ra .
Mặt khác , không cần chứng tỏ phải cực độ sướt mướt . Đó là sự đình trệ . Nếu bạn do dự khi dấn thân vào con đường Mật tông . Hãy đặt những câu hỏi hoàn toàn thành thật về thái độ và trình độ kiên quyết của mình . Cân nhắc sự dấn thân và hoàn toàn rõ biết về những dư âm trong cuộc sống . Có nghĩa , bạn cần thời gian suy nghĩ để thấu tình đạt lý một cách minh triết .
Bạn có thể dự thính buổi lễ Khai tâm Kalachakra như một dự thính viên tích cực hay chỉ là một quan sát viên . Những dự thính viên tích cực nhận lãnh những thệ nguyện thuộc về Mật tông ; tham gia vào tất cả những kỹ thuật mô phỏng và đón nhận những hiệu quả của sự trao truyền quyền năng .
Sau đó , phải uốn cuộc sống theo những thệ nguyện với những dấn thân khác . Ít nhất họ cần thực hành những trình độ thiền định đầu tiên về Mật tông . Nếu sự trao truyền quyền năng được vị thầy thuộc dòng Gélug .
Hằng ngày họ sẽ thực hành kỹ thuật thiền định gọi là : « Yoga sáu phần » . Nếu hành giả nào cảm thấy chưa sẵn sàng và chưa thấy cần thiết phải dấn thân Mật tông ; sẽ được khuyến khích chỉ nên tham dự lễ khai tâm như một quan sát viên .
Nếu bạn quyết định tham dự lễ khai tâm Mật tông như quan sát viên . Không có lý do nào bạn cảm thấy xấu hổ hay thấy mình phạm tội . Thật vô cùng sáng suốt khi chọn mô hình tham gia này ; hơn là quyết định dấn thân . Vì sau đó bạn có nguy cơ hối tiếc .
Những quan sát viên đồng thời vẫn có thể tham gia vào những buổi lễ dù với phương cách khác biệt . Nhưng , cho dù bạn chọn làm quan sát viên hay chỉ là dự thính viên tích cực . Lễ khai tâm cũng rất phong phú với nhiều ý nghĩa . Nếu trước đó bạn đã làm quen với những giáo huấn vở lòng của Mật tông .
Chúng ta giả định ; tối thiểu bạn đã hiểu biết lý thuyết Phật học .
Cũng như có nền tảng đầy đủ về cái nhìn thẩm thấu .
Cũng giả định bạn có niềm tin tối thiểu
về hiệu năng của những kỹ thuật về Anattura Yoga Tantra ;
và một vài xác tín hữu dụng cho chính mình .
Dù cảm thấy đã sẵn sàng đón nhận lễ khai tâm Mật tông hay chỉ là dự thính như quan sát viên . Hiển nhiên với dự ý sáng tạo những quan hệ mãnh liệt với Mật tông để có sự dấn thân về tương lai .
Sau đó vấn đề được đặt ra vẫn như nhau : Sự lựa chọn bên trong của Anuttara Yoga Tantra thích hợp với bạn nhất . Môn học lại cực kỳ bao la , được viết bằng ngôn ngữ hoàn toàn xa lạ . Bạn có thể không có quan hệ đầy đủ và mật thiết với vị thầy tâm linh để có thể xin ông lời khuyên .
Như thế quả thật quá hoang mang . Hơn nữa , những vị thầy đầy đủ tư cách ; khó thể đến quốc gia hay khu vực của bạn . Và càng hiếm hoi hơn nữa trong việc truyền trao nghi thức khai tâm thuộc đẳng cấp khó vượt qua của thuộc hệ thống Tantra cao cấp .
Một trong những điểm mấu chốt được xem như liên quan đến phẩm chất bên trong vị thầy . Nếu  ông không đủ tiêu chuẩn , quả thật vô ích để tham gia vào lễ khai tâm do ông trao truyền . Ngay cả việc bạn hoàn toàn tha thiết thỉnh cầu đón nhận .
Những ai được đào tạo với những nghi thức khai tâm ? . Và người nào có khả năng chủ tọa lễ khai tâm ? . Ít ra phải có đẳng cấp Anuttara Yoga Tantra bên ngoài ; cho dù chưa đầy đủ những phẫm chất bên trong cần thiết . Điều này quả thật uổng công . Vậy cần tránh chi phối trong sự chọn lựa một hệ thống Mật tông . Và tự hỏi thực sự có thích hợp với bạn hay không ?.
Đôi khi , sự ưu tiên nhằm thiết lập những quan hệ mật thiết với giảng sư ,; tuy không dưới hình tướng vị Phật khi trao truyền quyền năng . Đồng thời lý tưởng hiển nhiên nhất là :
Tìm ra vị thầy và hệ thống Mật tông bạn cảm thấy thật sự tương hợp để có thể quyết định . Nếu hệ thống này chính xác là hệ thống Kalachakra . Ít ra cần nhận ra dù chỉ một ít trong những khía cạnh khác biệt .

tonysham05:
Làm thế nào nhận ra hệ thống thích hợp ?
karunasham:
Không ai có thể nhận ra nếu không sẵn có vị thầy truyền trao .
Tất cả nằm trong chử duyên sẵn có . Cũng như làm sao có thể nhận ra Tino
tonysham05: Tác giả chỉ giới thiệu những căn bản Mật tông ?
karunasham:
Tất cả chỉ cần nhận thấy sự tương ưng rồi duyên sẽ đưa đến .
HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH,( MHDT ).13/4/2012.

No comments:

Post a Comment