Kính Thưa Qúy Thầy Cô, Kính Thưa Qúy Bạn:
Khi lên giảng đài này, tôi cảm thấy rất bối rối và xấu hổ khi nhìn
thấy phía dưới phần đông đều là những người trong hàng tiền bối, bậc thầy cô của
mình. Trước hết xin giải thích tại sao một người mạt học dở ẹt như tôi cũng lên giảng đài
nói chuyện với quý vị? Ðây là do ảnh
hưởng của một bịnh nhân cho nên tôi thường kể lại câu chuyện của bịnh nhân này
và nói lên lý do người này đã giúp cho tôi hiểu được nhiều vấn đề. Chúng ta thường phải trả một giá rất đắt mới
có thể hiểu được một câu nói trong kinh, nhiều khi chỉ một câu kinh thật đơn
giản. Cô này mới có ba mươi mấy tuổi thì
bị ung thư ruột già. Khi cô đến bịnh
viện cứ khóc hoài không thôi. Lúc đó tôi
mới làm bác sĩ tập sự thuộc khoa ung thư, xem bịnh lý mới biết cô đã mổ qua hai
lần nhưng ung thư vẫn tái phát trở lại, đúng là vô phương cứu chữa. Cô khóc hoài nên nói không ra tiếng nữa,
thiệt là không biết làm sao, muốn tìm bác sĩ để hỏi rõ bịnh trạng của mình. Hôm đó tôi hết ca trực liền đến phòng bịnh để
thăm cô và cũng nhân tiện giới thiệu sơ lược một ít Phật pháp cho cô biết. Không ngờ cô nghe xong, xúc động, mở mắt thật
to và nói:
“Tại sao bấy lâu nay không
có ai nói cho tôi biết về những chuyện này?
Tại sao tôi đã sống ba mươi mấy năm đầy phiền não và đến lúc sắp lìa đời
tôi mới được nghe Phật pháp?”.
Tuy chỉ có mấy câu nói thật ngắn nhưng hình như đã xoi thủng tim
tôi. Sau đó cô bật khóc và làm tôi cũng
khóc theo, khóc một cách rất bức rức.
Lúc bấy giờ Tuyết Công lão ân sư (lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam) còn tại thế và
giảng kinh vào ngày thứ tư mỗi tuần. Mỗi
ngày khi làm xong việc tôi thường ở lại bịnh viện để nói chuyện và an ủi bịnh
nhân, ngoại trừ ngày thứ tư vì phải đi nghe Tuyết Công giảng kinh. Cô thấy mỗi thứ tư tôi đều rất vui chuẩn bị
đi nghe giảng nên nói: “Tôi cũng hy vọng có thể đi theo (nghe giảng) nhưng rất
tiếc không có cơ hội”. Tôi đáp: “Trong
tương lai cô cũng sẽ có dịp đi được”.
Cuối cùng cô cũng đã được đi nghe kinh, lúc đến giảng đường Hoa Nghiêm ở
thư viện Từ Quang tôi thấy cô ngồi ở vài hàng ghế phía trước. Nhưng đến nửa buổi giảng cô vừa ôm bụng vừa
khóc và đi về, bịnh tình của cô biến chứng nặng nên cô đau quá không thể tiếp
tục nghe kinh. Lúc đó tôi chợt hiểu được
một câu trong bài khai kinh kệ:
‘Vô thượng thậm thâm vi
diệu pháp.
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ.
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì.
Nguyện giải Như Lai
chân thật nghĩa’.
Vì ảnh hưởng của cô nên từ hôm đó trở đi tôi không ngại sự hiểu
biết còn thô thiển của mình, luôn luôn cố gắng, tích cực hơn, và muốn mau mau
giới thiệu cho mọi người những điều trọng yếu trong Phật pháp [mà mình hiểu
được], nói cho đại chúng biết những sự hạnh phúc mà Phật pháp có thể đem lại cho
mọi người. Hạnh phúc này tiền tài mua
không được, kẻ ăn trộm cũng không thể lấy mất.
Trong bất cứ trường hợp và cảnh giới nào và không kể người ta dùng quan
niệm ‘phước’ hay ‘họa’ trong thế gian để đo lường những cảm nhận hạnh phúc này,
trong nội tâm của chúng ta đều luôn luôn đầy đủ sự an tịnh, hạnh phúc, và tươi
sáng.
Tôi hỏi các vị đạo hữu ở Phật học xã nghiên cứu đề mục hay kinh
điển gì trong khóa học này, bác Hứa trả lời là đang thảo luận ‘Kinh Bát Ðại Nhân
Giác’. Chắc ai cũng đã xem qua kinh này
và có thể đã học thuộc lòng rồi. Ðiều
giác ngộ thứ nhất là:
‘Thế gian vô thường, quốc độ mong manh, tứ
đại khổ không, năm ấm vô ngã, sanh diệt đổi dời, hư ngụy không chủ…’.
Tuy là biết thuộc lòng nhưng phần đông chúng ta không tin như
vậy. Tuy Phật nói thế gian là khổ, là vô
thường, nhưng bạn lại cảm thấy nhân gian rất vui sướng! Mỗi sáng thức dậy ăn bánh uống cà phê, …,
ngước mắt nhìn lên, ôi chao trời trong mây trắng, đời sao mà sung sướng
thế! Nếu được vậy thì cũng thường thôi,
nhưng những lúc như vậy trôi qua rất nhanh.
Giả sử một lúc nào đó, chuyện khó khăn thử thách thình lình xảy ra, khi
đó bạn sẽ không thấy trời trong mây trắng, không thấy trăm hoa đua nở, trong
lòng của bạn sẽ không còn cảm thấy vui sướng nữa. Ở đây tôi xin kể một vài câu chuyện thật mà
tôi đã gặp khi làm việc ở bịnh viện.
Trong những câu chuyện này, mỗi bịnh nhân đều là giáo sư của tôi, mỗi
người đều kể cho tôi một đạo lý mà đức Phật đã nói trong kinh điển, họ ấn chứng
(chứng minh) những điều Phật dạy, họ làm cho tôi hết lòng tin tưởng lời Phật nói
và tin đức Phật là ‘người nói lời chân thật, không bao giờ nói dối’.
Có nhiều bịnh nhân hỏi tôi: “Bác sĩ năm nay bao nhiêu tuổi?”.
Tôi trả lời: “Ba mươi hai tuổi”.
Lại hỏi: “Bác sĩ lập gia đình chưa? Tôi làm mai cho”.
Tôi liền hỏi họ: “Cuộc sống của bà rất sung sướng phải
không?”
Thật kỳ lạ không có một người nào đáp là ‘phải’ hết! Cho đến một hôm tôi gặp một bịnh nhân bị ung
thư cổ tử cung, mỗi lần đến khám bịnh đều trang điểm thiệt là đẹp, thoa môi son
thiệt đỏ, móng tay chân đều có sơn màu rất đẹp.
Khám bịnh xong bà muốn làm mai cho tôi.
Bà nói:
“Cháu tôi làm việc ở bịnh viện Quốc Thái, người rất lịch sự đàng
hoàng”.
Tôi hỏi bà: “Bà thiệt là rất sung sướng phải không?”
Bà nói: “Phải, chồng tôi đối xử rất tốt; con cái rất có hiếu, nhà
cửa rất sung túc”.
Như vậy thật là sung sướng, xin chúc mừng cho bà. Bà là người duy nhất nói mình có hạnh phúc,
thiệt là mừng giùm bà. Tại vì khi bịnh
nhân bước chân vào bịnh viện thì thường khóc và than:
“Bác sĩ không biết đâu, tôi phải mượn tiền của người ta để lại đây
khám bịnh, con cái không vui chút nào”;
Hoặc là: “Ôi chao lúc về nhà không ai đếm xỉa tới; mang bịnh lâu
quá rồi người ta không chịu chăm sóc nữa”.
Cũng không ai thăm hỏi: “Thưa ba ăn cơm chưa?”.
Hoặc là: “Từ lúc tôi mắc bịnh này, chồng tôi bỏ đi luôn”.
Phần lớn là thuộc vào loại này, tình tiết không giống nhau nhưng
nội dung hoàn toàn tương tợ; chỉ có bà này thiệt là may mắn có được hạnh
phúc. Nhưng qua một thời gian ngắn sau
đó, y tá coi báo ngạc nhiên nói bà đó đã tự tử.
Cô y tá nói: “Trong báo đăng tin bà được vớt lên từ bờ sông ở ….Bà bỏ nhà
ra đi hết năm ngày, sau đó thì tự tử”.
Tôi hỏi: “Bà đó rất sung
sướng, rất hạnh phúc, sao lại tự tử?”.
Thưa quý vị, chúng ta thử nghĩ xem tại sao lúc đó niềm thương yêu
của chồng không thay đổi được tâm niệm muốn tự tử của bà? Tại sao sự hiếu thảo của con cái cũng không
kéo bà lại được? Tại sao tiền bạc không
mua được sự an ổn của tinh thần? Chồng
thương yêu cho mấy và con cái hiếu thảo đến đâu cũng không thay thế được sự đau
đớn trên thân thể của bà. Một người đàn
bà xinh đẹp như thế tại sao lại phải trốn khỏi nhà đi lang thang rồi cuối cùng
phải nhảy vào dòng nước đen tối? Có lẽ
vì trước đó bà cảm thấy cuộc đời quá xinh đẹp, chưa nếm qua mùi vị của sự khổ,
bà chưa biết qua: ‘thế gian vô thường, quốc độ mong manh’, cho nên trong tâm
không có chuẩn bị tâm lý, gặp chuyện thử thách trong đời chịu không nổi, không
có ‘chích ngừa’ để phòng bị, không có khả năng đề kháng, chịu đựng khổ không
được nên mới tự tử. Tôi rất hối hận
trước đó không giới thiệu Phật pháp để cho bà thay đổi quan niệm và hướng về
quang minh, hướng về Di Ðà.
Những sự khổ này có lẽ mọi người sẽ nghĩ: ‘Ðó chỉ là thiểu số,
người tự tử rất ít’. Thiệt ra người tự
tử rất nhiều, tôi làm việc trong khoa ung thư, nếu có ngày nào không gặp bịnh
nhân muốn tự tử thì ngày đó phải được kể là ngày rất tốt, rất hiếm! Thiệt đó, mỗi ngày tôi thường nghe câu: ‘Tôi
nên chết sớm thì tốt hơn’. Khi người ta
cầu mong khỏe mạnh và sự quan tâm chăm sóc mà không được toại nguyện thì thường
thường sẽ tự sát. Ban đêm trong bịnh
viện tôi thường phải đi giải quyết những chuyện tự tử này. Không phải là họ cố ý không muốn sống nhưng
bị bịnh đau khổ quá nên không biết cách nào để chịu đựng nữa.
Ngoài ra còn có người cầu sanh không được cầu chết cũng không
xong, nằm trên giường bệnh rên siết. Có
một người bịnh nguyên phần phía dưới bụng bị ung thư lở loét ra hết, bác sĩ phải
mổ và làm một cái hậu môn tạm trên bụng, nhưng không cách nào trị lành
được. Chất bài tiết trong ruột rỉ thẳng
ra. Phòng của người này ở lầu ba, từ lầu
hai đã nghe mùi hôi bay đến. Không phải
người này có gì đặc biệt nhưng bất cứ ai trong chúng ta khi gặp phải trường hợp
này đều như vậy. Khi con bà săn sóc cho
mẹ bất đắc dĩ phải dùng một miếng vải để bịt miệng và mũi lại. Mỗi ngày bà đều muốn tự tử nhưng chưa gặp cơ
hội. Một hôm nhân dịp con bà đi ra chợ
mua đồ ăn sáng, bà rán hết sức mình ngồi dậy, leo qua cửa sổ từ lầu ba của bịnh
viện nhảy xuống. Vừa đúng lúc đó người
con về đến, nhìn thấy mau mau chạy tới để đỡ bà. Kết cục bà nhảy xuống không chết mà còn bị
thương. Vốn là đã quá đau khổ bây giờ
còn bị thương thêm, mỗi ngày đau đớn không thể nào diễn tả được, cầu sanh không
được, cầu tử cũng không xong; mạng chưa hết tự tử cũng không chết. Cho dù tự tử chết đi rồi, vĩnh viễn trầm luân
trong lục đạo luân hồi, sự khổ não vô tận lại tái diễn trở lại!
Nhà thơ Rabindranath Tagore có nói:
‘Sanh thời lệ tợ hạ hoa, tử
thời mỹ như thu nguyệt’
(Lúc sống đẹp như hoa
mùa hạ, lúc chết đẹp như trăng mùa thu).
Bạn muốn sống đẹp như hoa mùa hạ có lẽ cũng không khó lắm; nhưng
muốn chết đẹp như trăng mùa thu thì phải ra sức chuẩn bị công phu mới được! Lắm lúc có nhiều người phê bình những người
học theo Phật và nói: “Ôi chao, sao quý vị ưa nói chuyện ‘chết’, ưa nói chuyện
‘lâm chung’ quá, hình như đã xem thường cả cuộc đời. Trong cuộc sống có rất nhiều chuyện phải làm,
đặc biệt là những người tu theo Tịnh độ như quý vị, ngày ngày cứ niệm ‘A Di Ðà
Phật’, chuẩn bị để vãng sanh Tây phương, thật là quá tiêu cực”. Thật ra cuộc sống chúng ta giống như quá
trình vẽ một con rồng, mỗi nét vẽ mỗi màu sắc đều rất quan trọng. Lúc lâm chung cũng như nét vẽ cuối cùng vào
mắt rồng. Lúc sanh lúc tử đều rất quan
trọng, không có nét vẽ nào có thể cẩu thả được.
Niệm Phật là tâm niệm tối thiện nhất, tích cực làm cho lúc sống và lúc
chết đều là chí thiện chí mỹ (tốt đẹp nhất).
Nói chuyện từ nãy đến giờ nhưng chưa nói vào đề tài chính hôm nay:
‘Lắng nghe bài ca bên sông Hằng’. Mấy
năm trước tôi có dịp đi qua Ấn độ và ngồi thuyền đi dọc theo bờ sông Hằng. Lúc đó trong lòng tôi rất an tịnh; âm thanh
trên sông cứ cuồn cuộn nổi dậy làm tôi có cảm giác như là đang đi trong dòng
nước ‘sanh tử’…. Khi lắng tai nghe những
âm thanh này tôi nghe thấy trong đó có âm thanh của trẻ con, của người lớn, có
tiếng khóc, có tiếng cười vui. …Tất cả những âm thanh này trộn lẫn vào nhau biến
thành một câu vạn đức hồng danh: ‘A Di Ðà Phật’. Bạn hãy nhìn hình ảnh của sông Hằng, của từng
làn sóng nhấp nhô, hình bóng của chính bạn, của người thân, bạn bè, mặt trời
lặn, con chim và làn mây đang bay lơ lửng ở cuối chân trời, tất cả những hình
bóng này hòa hợp lẫn nhau làm thành con sông ‘sanh mạng’. Chúng ta hãy cùng nhau xem những hình ảnh và
lắng nghe bài ca bên sông Hằng này, từ bài ca ‘luân hồi sanh tử của sông Hằng’
cho đến bài ca ‘đức Phật giác ngộ’. Ðối
với chúng ta sông Hằng là một con sông rất quen thuộc vì trong kinh đức Phật
thường dùng danh từ ‘cát sông Hằng’ để
hình dung ý nghĩa ‘vô lượng vô biên’.
Trong con ‘sông Hằng’ sanh mạng này chúng ta đều là những người bơi lội
qua sông….
Con thuyền cứ tiếp tục tiến tới và đi ngang một chỗ dùng để hỏa
táng ở bờ sông. Phong tục mai táng người
chết của Ấn độ rất đơn giản, họ không cần quan tài chỉ dùng vải bao bọc thi thể
lại rồi đem thiêu ở bờ sông, cho đến bà Gandhi cũng không ngoại lệ (bà được dùng
lá quốc kỳ để bao). Người giàu thì có đủ
củi lửa nên có thể thiêu thành tro rồi đem bỏ xuống sông. Người nghèo thì thiêu qua loa một chút rồi
đem thi thể bỏ xuống sông. Lúc tôi ngồi
thuyền đi ngang một chỗ thiêu người chết này, dưới đống tro tàn còn thấy được
một cái chân đen kịt thiêu chưa thành tro.
Chúng ta thử hỏi cái chân thiêu nửa chừng này là của ai? Không lâu trước đó nó cũng có làn da rất mềm
mại và được ôm ấp trong lòng mẹ. Có lúc
nào đó cái chân này đang rảo bước trên bải cỏ xanh mướt, cũng có thể là có rất
nhiều thanh niên muốn thân cận nó. Rồi
theo thời gian trôi qua nó bắt đầu chai cứng và khô khốc khi người chủ của nó
già đi. Rốt cục rồi nó biến thành một
cái chân thiêu nửa chừng, đen kịt, nằm dưới đống tro tàn. Sau một thời gian nữa thì nó sẽ biến thành
một đống cát trong sông Hằng. Thêm một
lần nữa chúng ta hãy nhìn kỹ hình ảnh và lắng nghe bài ca bên sông Hằng. Những hình ảnh này của người Ấn độ mà cũng có
thể là của chúng ta nữa!
Có một ông thường ngày rất thích ăn trầu, hút thuốc, uống rượu rồi
sau này bị ung thư trong miệng. Khi đến
bịnh viện khám thì chỗ bị ung thư đã lan rộng ra, lở loét đến quai hàm và gò má
lủng lỗ. Chỗ lở cứ chảy nước vàng ra
hoài, khi ông ăn uống thì thức ăn đều lọt ra ngoài. Cho dù ông uống rượu ngon trước đó ông thích
nhất cũng rất đau, khi ăn trầu vào cũng đau như ‘nuốt viên sắt nóng’. Thân thể cường tráng của ông dần dần tiều tụy
vì ăn uống không được; chúng tôi phải đút một ống dẫn đồ ăn từ mũi vô đến bao
tử. Vợ ông rất hối hận và nói lúc trước
hai vợ chồng họ cứ cãi lộn hoài. Bà kể
lại: “Ðược rồi, ông chửi tôi ông sẽ bị ung thư miệng, tôi trù cho ông bị ung thư
miệng. Ai ngờ rằng ổng bị ung thư miệng
thật, người khổ nhất lại là tôi; ngoài việc phải chăm sóc vết thương cho ổng, đi
khắp nơi kiếm bác sĩ trị cho ổng, còn phải lo kiếm tiền để trang trải…thiệt là
khổ không cách nào diễn tả được”. Nếu bà
biết trước được cảnh khổ bây giờ thì sẽ trân trọng những lúc còn khỏe mạnh và
còn nói: “Lúc ổng chửi tôi, tôi thà đi lạy Phật một trăm lạy chúc phúc cho ổng,
mời ổng ăn đồ ngon, tôi cũng không dùng lời ác độc để trù ổng”.
Hai người cùng nhau niệm Phật trong ánh sáng từ bi trí tuệ của đức
Phật thì không tốt hơn là cãi lộn hay sao?
Rất tiếc là chúng ta thường chọn lấy những phương thức đối xử để gây đau
khổ lẫn nhau; lúc chưa bịnh thì mặc sức hành hạ thân thể này, đến lúc mang bịnh
rồi thì lại than trời than đất. Hy vọng
là chúng ta trong những nhân duyên tương ngộ rất ngắn ngủi này, hãy dùng tâm từ
bi chân thành đối đãi với nhau; sự giận tức oán hờn chỉ giúp tạo ra con đường
đầy chông gai đau khổ ở phía trước. Ông
rất thích đi câu cá; lúc tay mang trầu, rượu, và cần câu đi ra bờ sông thì ông
cảm thấy rất thích thú. Nhưng đến khi bị
ung thư loét hết miệng thì mới giựt mình sực tỉnh, mới biết được cảm giác của
con cá khi bị lưỡi câu đâm thủng miệng.
Vì miệng lở loét nên ông nói chuyện rất khó khăn, lúc tôi săn sóc vết
thương cho ông, ông rán chịu đau và nói ra những lời hối hận này, cảm nhận được
khi trước vì một chút khoái lạc nhất thời mà gây đau khổ cho những con cá; sự
đau khổ đó bây giờ quay ngược lại đến với ông, cũng là đau khổ khi miệng bị lủng
lỗ; khi miệng nuốt đồ ăn giống như cuống họng đang bị thiêu đốt, đang bị đâm
bằng dao, đau quá cũng muốn giằng co giãy giụa như con cá cắn câu rán hết sức
mình để thoát khỏi lưỡi câu. Ông dạy cho
tôi một bài học nhớ hoài không quên, đúng là ‘nhân quả tơ hào chẳng sai!’. Có bài thơ như sau:
Mạc đạo quần sanh tánh mạng vi
Nhất ban cốt nhục nhất ban bì
Khuyên quân mạc đả chi đầu điểu
Tử tại sào trung vọng mẫu quy.
(Mạng vật yếu ớt đừng khinh
Thịt, da, xương xẩu như mình khác chi!
Chớ bắn chim trên cành kia
Chim non trong tổ đang mong mẹ về)
Có một bác bị ung thư miệng và cũng phải mổ để cắt bỏ tế bào ung
thư ở gò má. Cuộc giải phẫu này rất phức
tạp, phải chia ra mấy lần mới xong, phải cắt da ngực để đắp lại vết mổ ở gò má,
và đòi hỏi rất nhiều sức chịu đựng. Ban
đêm khi tôi đi tuần phòng bịnh nhân, tôi thấy đôi mắt của bác mở thao láo nhìn
lên trần nhà, đêm đã khuya rồi mà bác ngủ không được; ngoài trời đêm tối lạnh,
nước mắt của bác cũng rất lạnh lẽo thê lương; chúng ta phải làm sao để an ủi
những bịnh nhân này? Bác đang đợi để mổ
lần thứ nhì nhưng không sống được đến lần mổ cuối cùng. Có lẽ
chúng ta thường chờ đợi để làm một công việc gì đó nhưng chưa chắc có thể sống
đến lúc đó, cho nên chuyện tốt mau mau làm, niệm Phật phải niệm ngay bây giờ
!
Lúc chăm sóc những người bị ung thư miệng, tôi thường nghĩ đôi lúc
mình bị mụt nước lở trong miệng thì rất đau, nhất là khi ăn những thức ăn chua
cay vào thì rất rát, huống chi vết thương lở loét cả hàm của những người này,
khi uống nước lạnh cũng phải đau đến run.
Khi chúng ta mở miệng nói lời không tao nhã chỉ dùng năm sáu giây để nói
một câu mà câu nói đó làm cho người nghe đau lòng cả đời, và khi quả báo hiện ra
thì cũng đau đớn như những người bị ung thư hàm này! Trầu và rượu có thể đem lại cho người ta một
chút khoái lạc nhất thời nhưng cũng đem đến những sự đau khổ không thể nào giảm
nhẹ khi mang bịnh vào thân. Chúng ta
phải nên cẩn thận, một giây phút vui
sướng ngắn ngủi đi qua rất nhanh, thời gian chịu đau trên giường bịnh một ngày
dài như một trăm năm!
Phòng khám bịnh số 1 và số 2 của bịnh viện nối liền nhau bằng một
cánh cửa tự động. Một hôm tôi thấy có
một bà khoảng năm mươi mấy tuổi nằm ở phòng 1.
Bà bị ung thư vú và cần một loại thuốc nhưng bảo hiểm lao động chưa chịu
trả cho thuốc này nên ngoài việc đau bịnh bà phải lo kiếm tiền trang trải chi
phí thuốc men; bà thường khóc thầm vì chịu đựng không nổi áp lực quá lớn. Lúc đó bên phòng 2 có một cô mới ba mươi mấy
tuổi và cũng bị ung thư vú, nghe được chuyện của bà bên phòng 1 nên lấy hết tiền
trong túi rồi nói với tôi: “Nhờ bác sĩ trao cho bà ở phòng kế bên”. Cô vừa khóc vừa nói: “Chúng tôi đều chịu
chung cái khổ này”. Tôi rất cảm động và
khen ngợi tinh thần Bồ Tát vị tha của cô, tôi hiểu rõ hoàn cảnh của cô còn thiếu
thốn hơn bà kia rất nhiều. Con của cô
còn nhỏ nên phải gởi người ta nuôi giùm, tiền lương của chồng cô rất thấp, lại
không có bảo hiểm, tiền dành dụm đã xài hết để trả tiền bịnh viện và mổ xẻ. Khi cô được giới thiệu đến bịnh viện để trị
liệu phóng xạ, cô tính bỏ mặc vận mạng đẩy đưa và không trị bịnh nữa vì không có
tiền; nhưng khi cô nhìn thấy dòng chữ trên tường: ‘Cho dù ngày mai là ngày tận thế, tối nay tôi
cũng phải trồng đầy hoa sen trong vườn’ nên mới nghĩ lại, đi về nhà má mượn
tiền, tiếp tục trị bịnh và duy trì mạng sống.
Cô nói: “Sanh mạng thiệt là vô thường và có nhiều thử thách đầy
đau khổ, tuy tôi không có khả năng lớn lao gì nhưng tôi có một chút tâm nguyện
là hy vọng làm hết sức mình, giúp đỡ những người đồng cảnh ngộ cho họ sớm lìa
khổ được vui”. Tôi rất cảm động; hai
người này đều bị bịnh ung thư nhưng một người thì âu sầu khổ não; còn một người
thì vượt thoát sự bi ai của mình, giúp đỡ, an ủi, và lau nước mắt cho người
khác, phát huy tiềm năng của mình; khi còn sống thì mỗi ngày trồng một hoa sen,
dần dần có nguyên hồ sen thơm phức. Thử
nghĩ trị bịnh nan y đòi hỏi bao nhiêu sức chịu đựng và bao nhiêu sự giày vò; nếu
đem sự giày vò này đổi lấy mạng sống âu sầu khổ não có phải là rất đáng tiếc
không? Tại sao không ‘trồng hoa sen
thanh khiết’ trong tâm khảm của mình, cho dù chỉ nở một nụ cười thì cũng là bố
thí, có thể làm cho mình và người khác đều được vui! Có câu là: ‘Chỉ cần một niệm từ bi phát khởi, tật bịnh
cùng khốn đều không ngại !’
Có một bé trai mới sáu tuổi đã bị ung thư tuyến lâm ba (lymphatic
cancer), mới có bây lớn đã phải trải qua rất nhiều đau khổ. Mỗi khi lượng bạch huyết cầu của em lên cao
thì bác sĩ phải chích một loại thuốc có tác dụng phụ là ói mửa. Việc làm cho em vui nhất là khi lượng bạch
huyết cầu giảm xuống quá thấp, thấp đến độ không thể làm trị liệu hóa học được,
bác sĩ sợ độ bạch huyết cầu quá thấp thì dễ bị nhiễm trùng có thể nguy hiểm đến
tánh mạng; đối với em mỗi lần như vậy thì em vui sướng như ở tù được thả ra, tạm
thời có thể ‘miễn bị hành hình’! Em nói
với tôi: “Mỗi ngày ngoại trừ xem TV thì cũng là xem TV”. Nhà em cũng khá giả nên em được ở một phòng
bịnh riêng. Em nói: “Cô em gần lập gia
đình rồi; cô mời em làm ‘em bé cầm bông’ trong hôn lễ của cô. Phải chi em có thể trưởng thành thì tốt biết
mấy, nhưng không biết có thể lớn nổi không?”
Ðây là lời nói của một em bé mới sáu tuổi, thiệt là làm cho người nghe
được không khỏi ngậm ngùi. Có lúc em
ngồi ở phòng đợi để chờ chích thuốc, trước đó em rất vui khi mang đồ chơi đến
đó, nhưng đến cửa phòng thì nhớ lại ‘đau khổ gần đến, gần bắt đầu rồi’ cho nên
cụt hứng ngay. Ðôi khi em cắn chặt răng
đưa tay tự mình tìm ra một mạch máu rồi nói: “Lấy chỗ này đi”. Ðôi lúc em cũng buồn hiu không chịu đi vô, em
không khóc ra tiếng, chỉ khóc khe khẽ, lệ ướt đẫm mi. Lần đầu tiên đến để rút máu từ vành tai em đã
khóc hết hai giờ đồng hồ. Cho đến nay đã
chịu khổ quá nhiều lần rồi, em thừa hiểu khóc hoặc là nhõng nhẽo thì cũng không
giúp ích được gì nên em rất dũng cảm để chịu đựng. Thiệt là một em bé quá đáng thương. Trong
đời sống chúng ta không muốn già nua thì phải đoản mạng (chết yểu), nếu không
muốn chết yểu thì phải già nua!
Có một người mới ba mươi mấy tuổi đã bị ung thư mũi vào thời kỳ
chót. Thường thường nếu ba mươi mấy tuổi
đã chết thì có lẽ bạn nói rất đoản mạng.
Nhưng cô này chỉ mới ba mươi mấy tuổi đã làm cho người nhà của cô cảm
thấy không thể chịu đựng nổi nữa. Chồng
cô phải vừa lo cho con vừa lo cho cô nên phải xin nghỉ hoài, và cũng vì vậy nên
đã mất chỗ làm. Cả nhà lâm vào hoàn cảnh
thiếu thốn và phải đến hội Từ Tế xin giúp đỡ.
Hội Từ Tế đồng ý cho cô một số tiền to lớn để trợ giúp cô trả tiền nhà
thương. Má cô đợi lâu quá nên than: “Tại
sao lâu quá còn chưa đem tiền lại. Lâu
quá!”. Tôi nói: “Không phải người ta
thiếu tiền bà đâu. Tiền này là do hội
viên dành dụm, ăn xài tiện tặn, từ bi đem đi giúp người. Họ không nhẫn tâm thấy bà chịu khổ chứ không
phải người nào cũng giàu có gì đâu”. Bà
thở dài ra! Không phải lo tiền bạc
nữa! Nhưng không khí trong gia đình còn
quá ngột ngạt. Bịnh nhân cũng không an
tâm tiếp tục sống, má cô lo cho cô đã quá mệt mỏi nên nói: “Mày sao không mau
chết cho rồi, làm hại tụi tao phải chịu khổ theo!”. Chồng cô khổ quá thường lại hỏi tôi: “Cổ còn
‘kéo dài’ được bao lâu nữa?”. Tôi nói:
“Xin đừng dùng chữ ‘kéo dài’ được không?
Sống được một ngày trong cuộc đời này thiệt là rất quý, tương ngộ một
ngày thiệt là hiếm có”. Nếu chỉ chú
trọng vào sự khổ và để ý đến chỗ tối tăm trong đời sống của mình, cho dù không
có bịnh thì cũng là ‘kéo dài’ mạng sống.
Nếu tích cực nghĩ về những chuyện tốt, cho dù đời sống rất khó khăn thì
cũng đáng sống. Nếu trân trọng đời sống,
ba mươi tuổi so với mười lăm tuổi cũng là trường thọ gấp đôi, so với người sáu
tuổi thì cũng trường thọ hơn gấp năm lần.
Tâm địa có thể cải
tạo vận mạng. Tôi có người bạn mới ba mươi mấy tuổi thì bị
ung thư xương, trước sau tổng cộng đã phải giải phẫu hai mươi lần. Sau một lần động mạch ra máu không ngừng nên
phải cưa đứt một chân. Ðời sống của cô
còn khó khăn hơn người kể ở trên nhưng nhờ biết áp dụng Phật pháp, lấy tâm biết
ơn đối đãi với nhau, cả nhà sinh sống còn vui hơn lúc chưa bị bịnh.
Cô nói với tôi: “Tôi rất may mắn, tôi mất đi một chân mà có thể
nghe được Phật pháp. Nếu không nghe được
thì không biết phải tạo ra bao nhiêu nghiệp tội, phải chịu bao nhiêu khổ
đau”.
Chồng cô ở bên ngoài phòng mổ đợi qua hai mươi lần giải phẫu, quý
vị biết được tâm trạng của ông chồng này không?
Ông nâng đỡ chăm sóc cô như một vị Bồ Tát, không hề than thở chút
nào. Sau khi biết Phật pháp, cô chống
nạng cùng chồng nấu đồ ăn đem cho những người cùng bị bịnh và khuyên họ niệm
Phật. Tôi hẹn với cô: “Cô học thuộc lòng
kinh A Di Ðà rồi chúng ta cùng nhau đi lên núi vừa đi vừa lạy để hồi hướng cho
những người bị bịnh ung thư”. Do đó cả
nhà cùng với cô học kinh, con cô mới học đến tiểu học nói với cô: “Má học thuộc
lòng kinh A Di Ðà một chữ không sai thì con cho má năm trăm đồng tiền
thưởng”; Cô ở nhà vừa làm đồ thủ công
vừa học kinh hoặc niệm Phật, đến tối thì trả bài cho mọi người nghe.
Ðến ngày cô học thuộc hết quyển kinh, cô nói: “Cả nhà tôi từ trước đến giờ chưa khi nào vui mừng giống như
hôm đó”. Kể cả tiền thưởng của con và
tiền công kiếm được trong thời gian học kinh cô có được bốn ngàn đồng, cô đem
toàn bộ đi cúng dường Tam Bảo. Vì muốn
đi lên núi mỗi đêm khi cả nhà đã ngủ yên giấc, cô phải tập luyện lạy Phật. Nếu bạn thấy cô dùng một chân để lạy Phật bạn
sẽ cảm động đến rơi lệ. Chồng cô tìm
cách quyên tiền để làm cho cô một cái chân giả.
Cô nói: “Nếu ông có thể quyên được mười vạn đồng thì xin đưa tiền này cho
tôi để tôi bố thí; tại vì một cái chân cũng đủ dùng rồi”. Cô chỉ hai cây nạng rồi nói: “Tôi không phải
là thiếu một chân mà ngược lại tôi dư một chân”. Khi cô nói câu này là lúc tế bào ung thư đã
lan đến phổi nên phải mổ và trị liệu hóa học thêm một lần nữa. Nét mặt cô hồng hồng và thường có nụ cười
thật tươi, nhiều khi còn tươi hơn những người không bịnh nữa. Cô nói: “Nhà tôi tuy là không giàu có gì
nhưng bây giờ còn vui hơn lúc trước khi chưa cưa chân nữa”. Người niệm Phật ngay đời này đã có thể sống
trong Tịnh độ, trong không khí vui vẻ hòa thuận của cuộc sống hàng ngày.
Như phần đông người bịnh ung thư khác, cô cũng không tránh khỏi
tình trạng kinh tế thiếu thốn; có người mời cô mở tiệm làm trò chơi điện tử cho
trẻ em có thể kiếm rất nhiều tiền. Cô
nói: “Tôi muốn thử chồng nên cố ý đem việc này hỏi ý kiến của chồng”. Cô rất vui khi ông nói: “Chúng ta là người
niệm Phật, sợ con mình bị trò chơi điện tử mê hoặc thì làm sao có thể làm hại
con cái của người khác!”. Tôi rất khâm
phục hai vợ chồng này, tuy trong hoàn
cảnh khó khăn mà họ vẫn có những hành động rất cao thượng. Có nhiều gia đình cũng vì kinh tế khó khăn
nên phải sa vào hoàn cảnh đen tối, ngược lại gia đình của cô nhờ bị bịnh mà có
thể hướng về đức Phật, đem những chướng ngại khó khăn của mình biến thành những
đóa hoa sen thơm ngát, rất xứng đáng làm gương cho người khác.
Có một người bị ung thư hàm miệng phải giải phẫu để cắt bỏ tế bào
ung thư và phải cắt bỏ luôn xương hàm dưới.
Bác sĩ phải cắt da trên ngực để đắp chỗ mổ và bất đắc dĩ ông trở thành
người không có môi. Ông không thể ăn
cơm, chỉ có thể uống súp hoặc thức ăn lỏng.
Ông không thể ngồi ăn như người thường, phải nằm xuống để ăn, nếu không
thì thức ăn sẽ đổ ra. Vì không có môi
cho nên đối với ông không có chuyện ‘ngậm miệng lại’. Bạn hãy nhìn những người này làm thế nào rán
hết sức mình để chịu đựng và chống chỏi với bệnh tật; có nhiều lúc tôi tự hỏi
tại sao mình lại được may mắn hơn họ?
Trong lúc chịu khổ đau như vậy ai nỗ lực thì cũng có thể vượt qua; tuy họ
có hoàn cảnh và tâm trạng không giống nhau và có cái nhìn đời sống khác biệt
nhau, nhưng tất cả đều tin sâu những gì Phật nói. Lúc tôi giải thích những điều Phật dạy cho
người trẻ tuổi, nhiều khi phải nói đến khô cuống họng luôn mà họ cũng không tin;
nhưng đối với những người đang chịu đau khổ trong bịnh viện, không cần nói gì
hết, chỉ hỏi: “Khó chịu, đau khổ không?”.
Họ đáp: “Rất khó chịu, rất đau khổ”.
Tôi nói: “Phật nói thế gian
là biển khổ, hãy niệm A Di Ðà Phật, đem tâm niệm hướng về phía quang minh, lìa
khổ được vui”.
Họ không nói thêm câu nào nữa lập tức bắt đầu niệm A Di Ðà
Phật. Hèn chi mới có câu: ‘Thập phương ba đời chư Phật đều lấy tám thứ
khổ làm thầy’. Khổ là vị thầy tốt
nhất, nhưng chúng ta phải đợi cho đến lúc này sao?
Lại thêm một người bị ung thư hàm miệng, ông đã bị mù, tế bào ung
thư đã phát triển đến cổ. Nước vàng
không ngừng từ gò má chảy xuống. Con dâu
của ông nói: “Ở nhà tôi xịt không biết bao nhiêu dầu thơm cũng không làm những
mùi hôi này bay mất”. Tôi nghe rồi mới
nói riêng với cô: “Tôi thấy cô thường dẫn ba chồng của cô đi khám bịnh, cô rất
có hiếu thảo; chăm sóc cho người bịnh ung thư rất khổ, nhưng Phật có nói: ‘Trong tám phước điền, chăm sóc cho người
bịnh là phước điền hạng nhất’. Nếu
cô tận tâm chăm sóc cho ông, làm cho ông già được hoan hỷ, tự nhiên phước báo sẽ
vô lượng. Một ngày nào đó chúng ta cũng
sẽ già đi, sẽ sanh bịnh, chúng ta đối xử với người già như thế nào, con cái của
ta cũng sẽ bắt chước theo để đối xử với chúng ta. Chúng ta phải để ý, cho dù một hành động lời
nói rất nhỏ nào cũng vậy, cũng phải thương xót và tội nghiệp cho người
bịnh. Người bịnh không muốn có những mùi
hôi như vậy. Ngày nay một trong ba bốn
người sẽ có một người bị ung thư, nếu người đó là mình thì cũng không thể nào
không có mùi hôi; họ bất đắc dĩ phải như vậy mà, nếu cô có thể bao dung một chút
thì cô sẽ có thêm phước báo.”
Vì ông bị mù nên thường hỏi bác sĩ bệnh trạng rất kỹ: “Bịnh của
tôi thật sự ra sao? Bác sĩ nói thiệt cho
tôi biết đi, không hề gì đâu. Ðiều tôi
lo nhất bây giờ là con tôi còn một đứa chưa lấy vợ!”. Ôi chao, người ta đúng là có vô biên phiền
não, một mình bịnh nặng mà không lo, lại lo cho ‘đứa con chưa cưới vợ’!
Khi một người không có năng lực lo cho mình thì thiệt ra không có
khả năng và biện pháp gì để lo cho người khác.
Nếu không vượt qua biển khổ của mình thì không thể nào độ người khác và
giúp họ vượt qua biển khổ được.
Có một bịnh nhân ở trước ngực có xâm hình rồng và cọp, chắc trước
kia là người trong băng đảng gì đó. Từ
ngày bị ung thư hóc miệng trở đi ông bắt đầu chân thành sám hối. Ông nói: “Tôi thiệt đáng đời”, không một lời
trách móc, chân thành ăn năn, giúp đỡ bịnh nhân khác, tận lực tu thiện. Trải qua rất nhiều hoàn cảnh khổ nạn cuối
cùng ông cũng đã vượt qua…
Tôi thường nghe bịnh nhân than thở: “Cả đời tôi đâu có làm ác, đâu
có làm hại ai đâu, đúng là ông trời không có mắt; tại sao để cho tôi bị bịnh khổ
như vầy?”. Lời này làm tôi suy nghĩ có
thiệt như vậy không? Có thiệt là chưa
làm việc ác không? Nếu đúng như vậy thì
chúng ta đều là thánh nhân hết. Xem lời
Phật dạy, chúng ta từ nhỏ đến lớn khi gặp chuyện không vừa ý thì nổi giận, mở
miệng thì chửi mắng. Vì dục vọng khi ăn
uống không đoái hoài gì đến gà con mất mẹ, không màng gì đến heo con một nhà
sanh ly tử biệt. Không nói lời thành
thật, làm việc không tích cực, thường cãi lời cha mẹ, vân vân. Tất cả không có thứ nào không bị tham, sân,
si chi phối. Người có trồng cải rồi đều
biết hột cải tuy nhỏ nhưng lúc mọc ra cây cải thì không nhỏ. Lúc quả báo chưa hiện ra chúng ta còn dám nói
xấu người khác, hoặc là trong lúc giận dữ nói lời xúc phạm đến người khác, dám
mời khách ăn hải sản sống. Khi quả báo
hiện ra mới biết khổ không chịu đựng nổi, đến lúc bị khổ nạn mới cầu nguyện để
tiêu nghiệp chướng.
Lão hòa thượng Quảng Khâm có nói:
“Phải từ thân, khẩu, ý mà
tiêu trừ căn bản của nghiệp chướng”.
Nói một cách khác khi tham ăn, nghĩ đến con cá chép, con cá trê
này cũng là một chúng sanh mà mười phương chư Phật thương xót; nói như vậy thì
đó cũng là huynh đệ của mình, chư Phật đang thương xót, má nó đang trông đợi
nó; khi gặp chuyện muốn nổi giận nhưng
vì hiểu đó đều là mộng huyễn cho nên không sanh tâm sân hận nữa. Nhịn không được muốn chửi người, nghĩ đến họ
cũng là chúng sanh mà đức Phật A Di Ðà ngày đêm trông mong để cứu độ và tiếp
dẫn; họ cũng bị nghiệp lực trói buộc và có sự khổ não, cho nên mới chuyển tâm
niệm để nghĩ đến Phật và niệm Phật.
Nếu có thể sửa đổi mình một cách tích cực, không bị ngôn ngữ, hành
động, ý niệm của thói quen làm chướng ngại, nghiệp chướng sẽ bị tiêu trừ, sự khổ
của bịnh tật cũng nhờ tâm niệm từ bi nhu nhuyễn hóa giải và giảm dần đi.
Tôi gặp một giáo sư trung học, ông là một bịnh nhân rất phi
thường. Mỗi lần đi ngang giường bịnh tôi
đều dùng tâm niệm tìm tòi học hỏi để quan sát họ. Khi ông vào bịnh viện thì ung thư đã lan đến
tuỷ xương sống, đè đến dây thần kinh cho nên hai chân không thể cử động được
nữa. Trải qua một thời gian dùng phóng
xạ trị liệu thì miễn cưỡng có thể chống nạng đi được; nhà cầu ở ngay kế bên giường đối với ông là
một khoảng cách rất xa. Ông thường phải
phấn đấu rất khó khăn mới có thể ngồi dậy và đi vào nhà cầu; mặc dù thân thể của
ông rất yếu nhưng hai mắt ông rất có tinh thần.
Ông nói chuyện rất khó khăn vì thần kinh trong não cũng bị ung thư. Lúc ngủ hai mắt nhắm không được, rồi sau đó
xương chân bị gãy luôn. Trong lúc bị
bịnh nặng như vậy mà ông nói: “Rất tiếc là bây giờ tôi không thể dạy học được
nữa!” (ông đã là một giáo sư rất nhiệt tâm dạy học trò). Ông nói: “Từng trải qua cơn bịnh quá đau khổ
này làm cho tôi hiểu thêm về cuộc đời, hiểu rõ được sự khổ đau của mọi người,
tôi sẽ càng thương yêu chăm sóc học sinh của tôi; rất tiếc là tôi không còn cơ
hội nữa!”. Tôi nói: “Ông là một giáo sư
rất đáng kính trọng, chỉ xem nguyện vọng của ông khi bị bịnh như vậy thì biết
được”. Ông từ trên giường phấn đấu để
ngồi dậy nhưng chỉ có thể ngước đầu lên ba tấc.
Chúng ta lúc ngồi dậy thì lập tức ngồi dậy. Ông phấn đấu đến cả người đổ mồ hôi ướt đẫm
áo cũng chỉ ‘gần’ ngồi dậy được; nhưng ông rất vui và nói: “Tôi hôm nay có thể
nhích được khoảng cách như thế này”. Ðối
với tôi, khi ông ngồi dậy được khoảng 30 đến 40 độ còn đáng nể phục hơn lực sĩ
nhảy xa ở Thế Vận Hội.
Ngoài sự phấn đấu về thể lực ra ông còn có tâm nguyện muốn tiếp
tục dạy học và tiếp tục chăm sóc cho học sinh.
Người thường chúng ta mỗi ngày khoẻ mạnh đầy đủ tinh thần nhưng thường
tính toán chuyện nhỏ nhặt để đem phiền não đến cho mình; chúng ta thường than
trách công việc trong chỗ làm, có sức lực khả năng mà không làm chuyện tốt. Ông
là một bịnh nhân nằm chịu đau trên giường nhưng lại có nguyện vọng đi dạy học
trở lại để chăm sóc dạy dỗ thêm cho học sinh.
Tuy là ông không thể làm vậy được, nhưng tâm nguyện rộng lớn chân thành
của ông đã đem ông lên giảng đài vĩnh viễn và trở nên giáo sư của hàng vạn
người.
Có một người bị ung thư lưỡi đang trong thời kỳ cuối cùng. Tế bào ung thư đã từ lưỡi lan rộng đến cả hàm
dưới. Lúc đầu còn khoẻ thì có thể tự
mình đi đứng được, sau đó phải có hai người vịn ở hai bên mới đi được, rồi phải
ngồi xe lăn, rồi cuối cùng thì không cử động được nữa. Nước vàng từ những chỗ bị ung thư rỉ ra hoài;
mỗi khi tôi đến thay thuốc ông thường hỏi: “Tại sao càng ngày càng lớn
vậy?”. Ông nói chuyện không rõ ràng; khi
tôi rửa vết thương thay thuốc cho ông, ánh mắt của ông nhìn tôi hình như là đang
hỏi: “Không biết bịnh của tôi có thể lành được không? Tôi gần chết rồi phải không?” Cái tâm trạng sợ hãi đó chính là tấm ảnh của
‘sanh tử trên sông Hằng’.
Khi chúng sanh đối đầu với sanh tử, ai cũng cảm thấy rất cô độc,
sợ hãi, khủng bố. Cho dù là một bà mẹ
tám mươi mấy tuổi cũng co ro vào lòng tôi khóc nức nở như một đứa bé … Một hôm tôi đi nghe giảng kinh và đi ngang
qua đường T. H. Trời lúc đó rất lạnh,
quán bán thịt nai bên đường vừa mới khai trương. Tôi lái xe mô tô đi ngang nhìn thấy có ba con
nai đang đứng khép nép trong lồng. Ánh
mắt của con nai đó rất quen thuộc, rất giống ánh mắt của những bịnh nhân đang
nằm trong bịnh viện, hình như họ đang nói: “Tôi sắp chết phải không? Mau mau cứu tôi với; không kể dùng thuốc gì,
dùng phương pháp gì …” Tội nghiệp ba con
nai. Hãy thả chúng ra! Thả cho chúng về rừng đi! Một khi hô hấp của chúng ngừng lại thì không
có cách gì có thể làm cho nó chạy nữa, mau mau kiếm người chủ van xin đừng giết
chúng nó!
Khi quay trở lại tôi ghé ngang và mua mấy con nai đi phóng
sanh. Khi người chủ nghe chúng tôi muốn
đem nai đi phóng sanh, cảm động mà nói: “Tôi là người nuôi nai, rất thương yêu
chúng, không bao giờ giết hại chúng.
Nhưng vì kinh tế khó khăn, bất đắc dĩ hôm nay phải bán chúng làm thịt,
tôi cũng rất đau lòng!”. Nghe xong tôi
rất xúc động, chúng sanh tạo nghiệp thọ báo đều có những sự khổ não bất đắc dĩ
như vậy. Thật ra mỗi người đều có Phật
tánh; đây cũng là lý do mà đức Phật A Di Ðà luôn luôn khoan dung, thương xót,
chờ đợi đến lúc chúng ta có một niệm quay đầu trở về với quang minh. Chúng tôi mua nai xong đem chúng đi quy y Tam
Bảo rồi thả vào rừng, hy vọng là chúng sẽ không bị bắt trở lại, và cũng nguyện
cho những người đi săn có thể phát Bồ đề tâm, gặp nhân duyên thiện có thể đổi
nghề nghiệp, chấm dứt nghiệp sát để khỏi chịu khổ báo nữa.
Bịnh nhân thường
để một con cá trê hay cá chép trong nồi hay thau nước ở dưới giường hoặc trên
bàn để ăn cho bổ. Khi tôi đến thăm bịnh
thì thấy hình như những con cá này đang vùng vẫy. Có một hôm tôi đến giường bịnh của một cô bị
bịnh ung thư vú. Cô là một tín đồ Cơ Ðốc
giáo rất trẻ, mới hai mươi bảy tuổi đã bị bịnh này; bạn có thể tưởng tượng được
khổ tâm của cô không? Hai tay cô lúc nào
cũng lạnh. Ở dưới giường cô có để một
con cá; tôi nói với cô:
“Có người đang kêu cứu ở dưới giường cô”. Cô mở mắt thật lớn và tỏ vẻ rất ngạc
nhiên. Tôi hỏi cô:
“Lúc biết được mắc phải bịnh này thì cô rất hy vọng sẽ có người
cứu cô hết bịnh phải không?”. Cô gật
đầu, tôi nói tiếp:
“Con cá dưới giường biết là nó sắp sửa vô chảo nóng, cảm tưởng của
nó cũng giống cảm tưởng của cô bây giờ.
Cô chịu làm Chúa Giê Su đi cứu con cá này không? Con cá đang cầu cứu cô đó. Cô hãy xem”.
Mắt của cô đỏ lên (muốn khóc).
Tôi mới nói thêm:
“Cô phát tâm cứu chúng nó, lúc cô bị chuyện khó khăn hay tai nạn,
tự nhiên sẽ có người lại cứu cô”. Cô vui
mừng chịu đem cá đi phóng sanh. Sau đó
một vị đạo hữu ở trường đại học Chuyên Khoa Ðài Trung giúp cô đem cá đi phóng
sanh…
Nhiều khi tôi nói với bịnh nhân: “Bán cho tôi nồi cá sống này được
không?”.
Bịnh nhân thường nói: “Nếu
bác sĩ thích ăn thì tôi tặng cho bác sĩ”.
Tôi trả lời: “Tôi ăn chay, không ăn cá, tôi muốn mua những con cá
này đi phóng sanh, đem công đức phóng sanh này hồi hướng cho bạn, hy vọng là bạn
cũng giống như con cá này cũng được giải thoát, khôi phục lại sức khoẻ, sớm lành
bịnh về nhà đoàn viên với gia đình.”
Thông thường những bịnh nhân đã chịu quá nhiều đau khổ hoặc có
kinh nghiệm đi gần đến cánh cửa sanh tử đều hiểu rõ ‘tình cảnh của mình cũng
giống như của con cá’. Họ thường phát
tâm từ bi đem cá đi phóng sanh. Tâm niệm
đem cá phóng sanh thường có thể làm cho họ có cảm giác vui vẻ, cổ võ sự yêu đời
của họ, và làm tươi nhuận đời sống họ nhiều hơn là ăn cá.
Có một người trẻ
tuổi khi đi trên phố nửa đêm bị kẻ bất lương đâm vào bụng bị thương nằm ngã quỵ
ở bên đường. Sau đó được người ta chở
vào nhà thương, vết thương quá lớn nên lòi ruột ra, gan và mật cũng bị
thương. Chúng tôi nửa đêm phải giúp anh
giải phẫu và khi đó anh không có người nhà đi theo nên chúng tôi phải chụp hình
vết thương trước khi giải phẫu để ngừa trường hợp giải phẫu có trục trặc gì phải
có bằng chứng bị thương trước… (Trong xã hội hiện nay chúng ta cứu người cũng
không phải là chuyện dễ dàng!). Anh này
mới đính hôn không bao lâu, bạn có thể tưởng tượng được sự bối rối, lo lắng của
người vợ sắp cưới khi nghe tin anh bị thương không? Những thứ trong bụng chúng ta thật không phải
là vật gì tốt đẹp, đức Phật nói với chúng ta về ‘quán bất tịnh’, chúng ta có thể
quán tưởng thử xem. Nếu lúc đính hôn mà
lấy một tấm hình vết thương bụng máu me tùm lum đem cho người ta xem, chắc rất
ít người sẽ chịu đính hôn với bạn!
Có một bịnh nhân nọ vào bịnh viện để trị bịnh xương, phía trên
chân có gắn một cây bằng kim loại xuyên qua xương và qua luôn cả bắp thịt phía
bên kia. Phía dưới chân cũng xỏ thêm một
cây như vậy. Bạn có thể tưởng tượng
khuôn mặt và tiếng hét kêu đau của người này lúc đút cây vào xương. Nếu người đó là bạn thì bạn có thể mỉm cười
được không? Chúng ta thử đoán xem? Bạn thấy những chỗ bán chim nướng ở chợ đêm
không? Có cả năm mười con chim xỏ chung
vô một xâu treo lủng lẳng trước quày hàng.
Sự đau khổ gì gây ra cho những chúng sanh khác một ngày nào đó cũng có
thể xảy ra đến thân thể chúng ta. Khi
chuyện đó xảy ra thì chúng ta sẽ cảm thấy vô cùng đau đớn, một chút xíu cũng
không dễ chịu. Nhưng chúng ta thường đem
sự đau khổ này gây ra cho chúng sanh khác một cách vô tình và xem như không có
gì xảy ra. Hãy nghĩ đến sự khổ của chúng
sanh, và cũng nên nghĩ đến hạnh phúc lâu dài, xin tất cả mọi người đừng làm vậy
nữa, để khỏi ‘hý tiếu sát tha mạng, bi khốc nhập địa ngục’ (cười vui khi giết
mạng sống của con vật, rồi khóc than lúc vào địa ngục).
Có một người bị ung thư tử cung mỗi lần gặp tôi đều khóc. Bà đã ly dị và một mình nuôi mấy đứa con rất
cực khổ; đứa nhỏ mới học tiểu học thì bà bị bịnh này. Mỗi ngày âu sầu phiền muộn qua ngày… Thật ra trước đó bà đã trị bịnh gần hết rồi;
nếu bà có được chút ít trí tuệ trong đời sống… thì cũng có thể sinh sống vui
vẻ. Người ta có thể trị hết bịnh ung
thư, nhưng sự đau khổ trong tâm nếu không dùng trí huệ và nghe Phật pháp thì trừ
không hết. Bà đã được trị liệu bằng
phóng xạ, bằng giải phẫu, chỉ thiếu một chuyện là không thỉnh đức Phật mổ cho
tâm bà. Sự giải phẫu có hiệu quả nhất là
phải giải phẫu trong tâm, bứng tận gốc rễ của phiền não, để bà đừng ôm cứng cây
cổ thụ phiền não mỗi ngày mà cứ tưởng là cây phiền não quấn chặt lấy bà.
Có một bà lão lúc vào bịnh viện băng kín vải trên mắt. Lúc tôi mở băng ra trong tâm cảm thấy đau
nhói! Bà lão này có gương mặt rất hiền
hậu, tròng mắt bà đã bị móc ra vì bị ung thư nên phải làm như vậy. Chúng ta có khi nào nghĩ đến lúc dùng đũa để
gắp tròng mắt của con cá trên bàn ăn?
Chúng ta thử nghĩ đến Helen Keller, một vĩ nhân bị điếc, câm, và mù đã
viết như vầy: ‘Nếu mắt tôi có thể sáng
lại được chỉ ba ngày thôi, chỉ ba ngày thôi…’. Chúng ta có thể trong một trường hợp nào đó
sẽ bị mất đi đôi mắt, vậy mà lúc còn đôi mắt thì lại nhìn đông, nhìn tây và tự
mình sanh ra phiền muộn? Tại sao chúng
ta không nhìn ánh mắt từ bi của đức Phật?
Tại sao không nhìn về phía có vô lượng hào quang? Chúng ta thường dùng cặp mắt quý báu để nhìn
rác rến ở chung quanh; đem rác rến của người khác bỏ vào tâm khảm của mình. Ðể lâu rồi thì cả nội tâm giống như một cái
thùng rác hôi thúi nên phải xa cách với chúng Bồ Tát trong thanh tịnh đại
hải. Xin hãy mở rộng con mắt của nội
tâm, nhân lúc còn nhìn thấy được, hãy nhìn cái tốt đẹp của người khác, học tập
ưu điểm của người khác; hãy cảm nhận thêm một chút, hãy nhìn thêm ‘cám mục trừng
thanh tứ đại hải’ (bốn biển lớn trong ngần mắt biếc) của đức Phật A Di Ðà, hãy
nhìn phong cảnh cực kỳ xinh đẹp của thế giới Cực Lạc, và tấm lòng rộng lớn như
biển của chư Bồ Tát.
Có một người bị ung thư ở thực quản, hô hấp bị khó khăn, phải đút
một ống từ mũi vào phổi để giúp sự hô hấp và một ống để đút đồ ăn vào bao tử; có
khi bà phải rán sức để ho, mỗi lần ho thì đau như xé ruột gan, toàn thân run rẩy
vì đau đớn. Chồng bà nhìn thấy cảnh
tượng đau lòng như vậy chịu không nổi nên chạy ra hành lang mà khóc. Ðôi lúc tôi đi chợ nhìn thấy những con gà bị
treo trên quày thịt cũng tội nghiệp như vậy.
Trên cổ của con gà nào cũng có khoét một lỗ để treo, rất ít người thương
hại sự đau đớn của chúng nó; nhưng đến
khi người đút ống thở vào mũi là vợ, là con, hoặc là mẹ của bạn thì bạn cũng sẽ
đau nhót ruột mỗi khi họ ho và thở mạnh.
Có một người làm nghề bán thịt heo, ông bị ung thư phổi được một
thời gian thì qua đời. Tôi nghe vợ và
con ông kể lại khi ông về nhà mấy ngày hôn mê không tỉnh nhưng miệng cứ la hét
và nói:
“Mau mau đem những gan heo treo trên tường đi chỗ khác”. Hoặc là:
“Mau đem đầu heo đi chỗ khác”.
Ông cứ kêu la như vậy suốt mấy ngày đêm, mọi người trong nhà sợ
đến lông tóc dựng đứng nhưng không hiểu ông nói cái gì. Cảnh tượng lúc ông chết rất là dễ sợ, ông chịu
rất nhiều đau khổ. Từ đó người nhà của
ông mới biết nhân quả báo ứng của sự sát sanh; khi ông nằm bịnh viện tôi đã
khuyên người nhà ông niệm Phật, nhưng họ nói trong lúc buồn khổ như thế thì làm
sao niệm được? Tuy đức Phật A Di Ðà có
lòng đại từ bi tiếp dẫn người niệm được mười danh hiệu Phật lúc lâm chung vãng
sanh về cõi Cực Lạc, nhưng lúc còn khỏe mạnh người ta rất khó niệm được vì bị mê
hoặc bởi tình ái của thế gian, huống chi là lúc gần chết bị sự bịnh khổ giày vò,
hành hạ thì làm sao có thể niệm được!
Nguyện cho sự thị hiện thuyết pháp của người bịnh này làm cho người khác
nghe thấy được và rút tỉa kinh nghiệm để tránh khỏi sự đau khổ tương tợ. Và cũng nguyện công đức cảnh giác chúng sanh
của ông có thể giúp ông lìa cảnh khổ và được Phật tiếp dẫn. Và cũng nguyện cho những chúng sanh bị ông
giết hại nương vào nước cam lồ của Phật pháp, cởi mở gút mắt trong lòng, đồng
niệm Di Ðà, đồng sanh tây phương, đồng thành Phật đạo.
Người khỏe mạnh thường than ngủ không đủ. Trong bịnh viện có quá nhiều nước mắt, sự đau
khổ kéo dài lây lất! Người chưa tới số,
nằm nướng trên giường và nói đồng hồ reo báo thức quá ồn. Người tới số, suốt đêm chiến đấu và dằng co
với sanh tử. Có một người bị ung thư ở
hàm dưới và lan đến cuống họng. Ông
không thể nuốt được, hô hấp cũng khó khăn, cho nên bác sĩ mới khoét một lỗ ở
bụng để đút ống dẫn thức ăn vào dạ dày, và khoét một lỗ ở cổ để giúp sự hô
hấp. Chúng ta có thể ăn uống không cần
khoét lỗ để đút đồ ăn và hô hấp không cần khoét lỗ đút ống thì thiệt rất quý,
rất đáng biết ơn!
Vài ngày trước khi ông mất, có thể nói là mỗi ngày đều chảy máu
một chút, cách hai ba ngày lại chảy máu nhiều; máu từ miệng và mũi chảy ra, từ
chỗ đút ống thở chảy ra. Những người y
tá và bác sĩ trực rất muốn cứu ông nhưng chỉ có thể đứng một bên cầm cái thau để
hứng máu từ thân ông chảy ra, rồi phải truyền máu cho ông tại vì máu trong mình
ông chảy ra từ những chỗ không thể cầm được.
Có một lúc máu của ông chảy ra dính vào cả người tôi. Ðôi mắt của ông đỏ ngầu và sưng lớn lên trông
rất dễ sợ. Cả đêm chúng tôi ở bên cạnh
chăm sóc và hứng máu cho ông. Sáng ngày
hôm sau còn phải tiếp tục khám bịnh nên tôi mới nhờ một người bạn đem áo lại cho
tôi thay. Áo tôi có thể thay còn áo của
ông thì không thể thay được! Bạn biết
không, mỗi lần ông cử động mạnh một chút là máu chảy ra nhiều thêm nữa. Chúng tôi phải không ngừng tiếp máu vào cho
ông nhưng cũng không nhanh bằng máu từ người ông tuôn ra; thuốc men gì cũng hết
công hiệu; thân thể ông cứ chảy máu như vậy và hành hạ ông cả ngày, cả đêm. Người ta muốn nhắm mắt một cách êm đềm thiệt
không phải là một việc đơn giản!
Từ hôm đó tôi hiểu thêm một chút về vấn đề sanh tử, cái hình bóng
phản chiếu trên sông Hằng rất có thể cũng là hình bóng của chính mình!
Có một em trai 16 tuổi là một học sinh hạng nhất trong lớp; em bị
bịnh ung thư não. Em đã phải mổ não bốn
lần mà ba lần mổ được tiến hành trong cùng một năm. Em vào bịnh viện lần này để
trị liệu phóng xạ, xương não của em bị cắt đi một khoảng cho nên cái đầu bị lõm
vô một bên. May mà tánh mạng còn duy trì
và có cơ hội nghe được Phật pháp. Một
hôm tôi nhận được một bức thiệp cám ơn của ba em gởi. Trong đó ông nói là em nhờ ông viết và hy
vọng nếu thuận tiện thì xin gởi cho em một tượng Phật để em lễ lạy. Ông rất khách sáo sợ làm phiền tôi, và làm như
là bất đắc dĩ lắm mới xin tượng Phật.
Tôi cảm động đến chảy nước mắt nên lập tức đi thỉnh một tượng Phật A Di
Ðà cho em. Ông ở Phong Nguyên, tôi quá
bận nên phải nhờ một cô y tá đem cho ông.
Cô y tá này kể lại khi cô vừa đến thì em từ trên giường ngồi bật dậy, vì
nửa thân người gần như cử động không được nên đi cà nhắc nhưng rất hăng hái và
có tinh thần để đi lạy Phật. Nhìn cảnh
tượng như vậy nên cô cảm động và nói: “Tứ chi tôi còn khỏe mạnh nhưng từ trước
đến nay không bao giờ có ý muốn lạy Phật, nhìn thấy em chí thành như vậy, phấn
đấu hết sức lực yếu ớt của mình để lạy Phật, tôi rất xấu hổ”.
Khi người ta còn khoẻ mạnh đi đứng cử động được, thì cứ nghĩ đó là
tự nhiên, ít khi nào quý trọng. Thời
gian thân thể khỏe mạnh không thể kéo dài hoài được, những đoạn trước có kể
người ta có thể mất đi miệng, mất cuống họng, thậm chí đến mất bộ não. Ngày nay chúng ta còn có miệng chúng ta nên
học những lời nói ôn hòa tốt đẹp, cùng nhau khuyên nhủ giúp đỡ, cùng nhau niệm
câu vạn đức hồng danh ‘A Di Ðà Phật’.
Chúng ta không biết khi nào có thể mất đi bộ não, ngày hôm nay nên dùng
nó để nghĩ đến hào quang và lòng từ bi của đức Phật.
A
Di Ðà Phật. A Di Ðà Phật.
Khi tôi làm bác sĩ nội trú vào năm thứ nhất, có một đêm trực ở
phòng cấp cứu. Nửa đêm có một người bị
nghẽn động mạch cơ tim, đã ngừng hô hấp và hôn mê không tỉnh. Mặt và lưỡi đã biến thành màu tím ngắt. Máy đo tim và kết quả thử máu cho biết là tim
đã bị hư hoại trầm trọng; theo kinh nghiệm của bác sĩ chủ nhiệm thì bịnh trạng
nhẹ hơn người này cũng không cứu được nữa huống chi là tình trạng nặng như người
này nên nói cho người nhà phải ‘chuẩn bị tinh thần’. Tôi cứ theo lệ thường vừa niệm Phật vừa lo
cấp cứu bịnh nhân. Dùng hết nhiều thứ
thuốc rồi nhưng huyết áp của ông không thế nào đo được, ông vẫn còn hôn mê và
không thể tự mình hô hấp. Vợ của ông
đau lòng nói với tôi:
“Người ta nói ông trời thương và giúp đỡ người hiền lương, nhưng
tại sao ông trời không thương tôi?”.
“Xin bác sĩ tìm mọi cách để cứu ông, cho dù ông biến thành ‘người thực
vật’ thì tôi cũng chịu chăm sóc cho ông”.
Tôi cảm thấy là bà rất đôn hậu và thật thà nên mới khuyên bà:
“Lúc người gặp tai nạn lớn, phải phát đại nguyện niệm Phật thì hy
vọng có thể vượt qua”.
Bà nói: “Làm sao phát đại nguyện?”.
Tôi nói: “Dùng tâm chí thành của mình mà phát đại nguyện”.
Bà liền nói: “Từ nay trở đi hai vợ chồng chúng tôi sẽ ăn chay
trường và niệm Phật; ông ta là thầy giáo, khi hết bịnh có thể hoằng dương Phật
pháp”.
Tôi đưa bà và mấy người con mỗi người một xâu chuỗi và nói: “Ðêm
nay quý vị nóng lòng chờ đợi trong phòng cứu cấp thì cũng không ích lợi gì,
không bằng đem tâm bồn chồn này lắng xuống để niệm một vạn danh hiệu Phật A Di
Ðà, cầu Phật gia bị, Phật lực không thể nghĩ bàn. Chúng tôi rán hết sức để cứu ông, quý vị vì
ông mà niệm Phật, nếu thọ mạng của ông hết thì ông cũng có thể vãng sanh Cực
Lạc”. Ðêm đó ba người bác sĩ chúng tôi
cứ nhìn các điện đồ đo tim và đo máu, điều chỉnh lượng thuốc từ 7 giờ chiều đến
3 giờ khuya. Một trong ba bác sĩ than
là: “Chúng ta ba người trực cả đêm để lo cho một người mà không đo áp suất máu
được!” (Nghĩa là người này nếu không có
gắn máy thì không thể tự mình hô hấp được).
Ðiều kỳ lạ là đến khoảng bốn năm giờ sáng thì áp suất máu của ông từ từ
tăng lên, ông cũng từ từ tỉnh lại. Tôi
lập tức đi thông báo cho người nhà của ông.
Tôi rất cảm động khi mở cửa nhìn thấy cả nhà ngồi xếp thành một hàng đang
niệm Phật một cách rất chí thành. Con
của ông viết trên một trang giấy: “Thưa ba, con rất muốn ba mở đôi mắt hiền từ
ra”.
Có một thanh niên đến thăm ông và khóc sướt mướt làm tôi cứ tưởng
là con của ông. Người thanh niên đó nói:
“Ổng là thầy tôi, lúc trước ổng ở trong một chái nhà lụp sụp, dùng hết tiền
lương để cung cấp lo cho đám học sinh chúng tôi. Nếu không có thầy thì hôm nay không có tôi,
xin bác sĩ nhất định phải cứu sống ổng”.
Lời nói chưa dứt thì lại khóc tiếp; sau đó tôi mới biết ông đã được chọn
là một trong ‘mười vị thầy có lòng thương học trò lớn nhất’. Sau khi ông tỉnh lại phải tiếp tục dùng máy
để trợ giúp hô hấp thêm ba ngày nữa. Lúc
đó ông bắt đầu niệm Phật; ngoài bịnh bị
nghẽn động mạch cơ tim ông còn bị bịnh phổi nữa. Cuối cùng ông cũng lành bịnh và tự mình bước
đi ra khỏi bịnh viện. Sau đó ông trở lại
bịnh viện kiếm tôi để hợp tác in kinh.
Những bác sĩ xem qua tâm điện đồ và kết quả thử máu rồi thấy sức khoẻ ông
từ từ bình phục đều cảm thấy không thể tưởng tượng nổi.
Có một cô gái rất đẹp, lúc trước từng là hoa khôi trong
trường. Trên mặt bị bịnh ung thư sưng
lớn lên khoảng gần bằng ba cái đầu chụm lại.
Lúc tôi mới gặp và nhìn thấy cô
thì có cảm tưởng như là có đứa bé đang ngồi trên đầu. Tuy cô phải chịu đựng sự đau khổ to lớn này
nhưng nghĩ lại cũng còn may. Trong thời
gian đau khổ này cô biết đến Phật pháp, cô than là: “Rất tiếc tôi nghe được quá
trễ!”. Nhưng nếu kịp thời phát tâm thì
cũng không trễ. Trong trường hợp đau khổ
như vậy nếu người khác thì đã kêu trời kêu đất rồi, ngược lại cô còn có thể niệm
Phật. Cô đem sự đau khổ biến thành nước
cam lồ của lòng từ bi, đổi sự áo não buồn rầu thành ánh sáng thanh lương, tâm cô
đã nương dựa vào đức Phật A Di Ðà. Cô
đem tất cả tài sản của cô ra để cúng dường cho mọi người và dặn dò chuyện lâm
chung đại sự. Rất nhiều pháp sư và liên
hữu cũng cảm động và từ bi niệm Phật tiếp cô.
Một hôm cô đưa năm trăm đồng nhờ tôi mua hột giống hoa đem gieo trong
chùa hoặc là phía trước của Tịnh Nghiệp Tinh Xá Niệm Phật Ðường; cô nói là để
khi nào hoa nở có thể cúng Phật, có hoa nở ra hoài để cúng Phật.
Chúng ta là người khoẻ
mạnh nhưng không ai có tâm niệm đẹp như cô.
Có lẽ bạn sẽ nói mặt của cô rất xấu xí, diện mạo không còn đẹp như xưa
nữa, nhưng nghĩ lại chúng ta có tâm niệm đẹp như cô không? Cô đưa tôi sợi dây chuyền quý nhất mà má cô
tặng cho cô lúc trước và nói: “Nhờ bác sĩ bán sợi dây chuyền này xong rồi đem
tiền đi in kinh, cúng dường Tam Bảo… tuỳ tiện làm thế nào cũng được, miễn là có
thể làm lợi ích cho chúng sanh”. Thật là
hiếm có, trong lúc cô chịu đựng muôn vàn đau khổ mà lại có được tâm niệm đẹp như
vậy, bạn đã thể hội được sức lực của Phật pháp hay không? Rất nhiều người vào thăm cô, cô nói: “Tôi bị
bịnh này là do nghiệp báo [của những chuyện ác mà tôi làm lúc trước], quý vị
thăm tôi rồi sau này phải đừng làm việc ác, nên làm việc lành, luôn luôn nhớ như
vậy, phải biết dự trữ đồ ăn phòng khi đói kém.
Mau sớm niệm Phật thì mới không uổng chuyến đi thăm tôi lần này”.
Có một ông già tám mươi tuổi bị ung thư phổi từ viện dưỡng lão
đến. Ông nói: “Lúc ông năm tuổi thì cha ông mất, tám tuổi thì mẹ mất, một người
sống cô đơn đến nay đã 80 năm”. Có thể
nói là ông đã nếm đủ hết mùi vui, buồn, ly, hiệp trong đời. Ðến nay đã già lại mắc phải bịnh nặng, suốt
ngày phải nằm trên giường. Có một đêm
ông ngồi dậy ôm gối tự nói chuyện với mình : “Tôi muốn đi về, tôi muốn đi về”;
giọng nói rất là thê lương, nhưng lúc đứng dậy thì đứng không vững và lại té bị
thương. Răng trong miệng đã bám đầy bựa,
mỗi ngày y tá phí bao nhiêu sức lực để kêu ông chà răng, ông nhất định không
chịu chà và nói: “Người muốn chết rồi, chà răng để làm gì nữa!”. Ðã gần hai tháng ông không chịu ăn gì hết nên
gần kiệt lực vì đói. Rất khó khăn lắm
tôi mới để thuốc và thức ăn vào miệng ông, nhưng ông nhất định không chịu nuốt
và quyết tâm muốn chết.
Sau đó đại và tiểu tiện cũng không khống chế và điều kiển được; đi
đại tiểu tiện ngay trên giường bịnh. Ông
không có gia đình, người làm trong bịnh viện không đủ, không có người túc trực ở
kế bên để thay vải trải giường và thay quần áo.
Sau đó cả quần áo cũng không còn sức để mặc mà cũng không chịu mặc, chỉ
còn trơ da bọc xương như vậy nằm trên giường.
Vì ông không chịu ăn cơm cho nên chỉ có thể chích thuốc. Tay ông bấy hết vì kim đâm để chích thuốc
hoặc lấy máu. Ðây là cái khổ của sự già
nua. Khuyên ông niệm Phật nhưng ông rất
khó niệm được, mỗi lần nhìn ông thì không có bút mực nào diễn tả hết những sự
đau lòng khổ não này. Ông cũng đã từng
khoẻ mạnh như chúng ta, đã từng bước đi thoăn thoắt trèo non vượt suối, cũng đã
từng giống như chúng ta, khi đói thì kiếm ăn, cười tươi như hoa nở. Nhưng những đợt sóng sanh tử của sông Hằng
một giây phút, một tích tắc cũng không chịu ngừng lại… Thân thể chúng ta cũng như căn nhà có thể bị
hư hoại và bị sụp đổ; sống trong căn nhà cũ bị hư, bị dột mưa thì rất khổ, rất
khó khăn. Nếu lúc đó chúng ta niệm Phật,
đem tâm an trú tại cõi Tây phương tự do tự tại, kiên cố thanh tịnh, bất cứ lúc
nào cũng có thể dọn nhà đi thì rất trang nghiêm tốt đẹp. Nếu buồn rầu áo não theo căn nhà cũ nát, sợ
là tương lai bạn cũng sẽ dọn đến căn nhà còn hư dột và cũ hơn hiện tại nữa, đời
đời chịu khổ!
Có một bịnh nhân đã già, có người nói ông đã 80 tuổi, có người nói
ông đã 90 tuổi. Hình như trước kia ông
là giáo sư trường đại học Bắc Kinh, diện mạo của ông rất giống người trí
thức. Ông không phải là bịnh nhân thuộc
chuyên khoa chữa trị của tôi. Từ lúc đầu
tiên khi tôi gặp ông thì ông đã hôn mê bất tỉnh. Mỗi lần đi vào phòng bịnh tôi chỉ có thể niệm
‘A Di Ðà Phật, A Di Ðà Phật’ vào tai ông.
Cứ như vậy cả hai tháng ông chưa khi nào có một chút phản ứng gì
hết. Sau cùng ông tỉnh lại, có chút phản
ứng và nhìn tôi, ra hết sức hình như muốn niệm ‘A Di Ðà Phật’, nhưng không có
sức để niệm ra tiếng. Tay ông cử động
hình như muốn chắp tay, chắp tay lại đối với người khoẻ mạnh là một chuyện rất
là dễ dàng, nhưng đối với ông thì lại vô cùng khó khăn. Không phải là lúc còn trẻ da ông cũng rất
hồng hào mềm mại hay sao? Nhưng thế
gian vô thường, hồng hào mập mạp trẻ trung sẽ từ từ biến thành già nua lụm
cụm!
Hình như tôi đã đem hình tượng của những người lớn tuổi kéo xuống
tận đáy thẳm vực sâu, như thế có phải quá tàn nhẫn hay không? Nhưng nếu không diễn tả rõ ràng như vậy thì
mọi người không hiểu rõ những chuyện trong thế gian, không buông xả được thì
không thể đạt được hạnh phúc tự tại. Nếu
không kịp lúc hồi đầu niệm Phật e rằng sẽ hối hận vĩnh kiếp về sau!
Phần đông khi người ta sắp chết thì hô hấp rất khó khăn. Nếu đang ở trong bịnh viện thì bác sĩ sẽ đút
một ống vào miệng hoặc vào mũi vô khí quản đến phổi để duy trì sự hô hấp. Ðến
lúc nguy cấp thì đẩy vào phòng có y tá túc trực thường xuyên để theo dõi bịnh
nhân. Có khi dùng duỡng khí chụp vào mũi
để giúp cho bịnh nhân thở. Khắp nơi trên
thân thể chỗ nào có thể đút ống vào thì cũng đều đút ống, thí dụ đường tiểu thì
đút ống vào để thông tiểu, miệng thì đút ống vào để dẫn thức ăn vào bao tử, hoặc
mũi thì đút ống vào phổi, chỉ thiếu một thứ là không có một ống gì để dẫn ánh
sáng của đức Phật A Di Ðà vào tâm khảm của người ta. Một phòng bịnh có y tá túc trực (intensive
care) thì cũng giống như một địa ngục ở trần gian. Có lẽ những thiết bị tối tân này đã cứu sống
rất nhiều người, nhưng thiệt ra đối với bịnh nhân, không kể là chữa lành bịnh
hay không đều là địa ngục rất dễ sợ, không người nào thích bị đưa vào thêm một
lần nữa! Lúc trước khi đọc kinh Ðịa Tạng
tôi thường nghĩ là chư Phật Bồ Tát sợ chúng sanh làm chuyện ác, cố ý nói ra để
dọa người, đâu có chỗ nào là địa ngục thiêu đốt, địa ngục cắt lưỡi, … cái khổ gì
cũng có, rất là dễ sợ, hình như đều là dọa người ta. Ðến khi tôi vô bịnh viện thì mới biết đức
Phật nói câu nào cũng đều là sự thật, và cũng hiểu được tại sao đức Phật ở trong
kinh đã nhiều phen dặn dò và phó chúc Ðịa Tạng Bồ Tát là:
“Ðừng để chúng sanh đọa vào
ác đạo [cho dù chỉ là] một ngày một đêm”.
Nhất định phải nói rõ cho chúng
sanh biết những sự khổ trong nhân quả
báo ứng này, đừng để cho chúng sanh đọa vào ác đạo chịu khổ một ngày một
đêm.” Nhưng lúc bình thường chúng
ta có để ý và hiểu tâm từ bi này của Phật không?
Khi bịnh nhân kêu tôi nửa đêm, lúc tôi rất mệt và buồn ngủ nhưng
phải tỉnh dậy để đi thăm họ, săn sóc, cho thuốc hoặc là trị liệu, lúc đó thấy
chúng sanh đang chịu đựng bên bờ sanh tử, những câu trong kinh Bát Ðại Nhân Giác
liền hiện ra trong tâm:
“Sanh tử thiêu đốt, khổ não vô lượng, phát
đại thừa tâm, phổ tế tất cả, nguyện chịu thay vô lượng khổ cho chúng sanh, làm
cho chúng sanh đến được sự sung sướng viên mãn”.
Nhưng khi nhìn thấy những cảnh tượng quá khổ này, kêu bạn đi chịu
khổ thay cho chúng sanh bạn có thể làm được không? Thử hỏi những sự khổ đã kể ở đoạn trước, bạn
có thể thay thế cho họ một đêm không?
Tôi không nói chuyện ‘thay thế’ này quá khó, chỉ là ở một bên để săn sóc
an ủi người bịnh liên tục mấy đêm liền không ngủ, cả ngày lẫn đêm thì đã quá khó
rồi (thường thì bạn sẽ cảm thấy đầu nặng, tim đập mạnh hơn lúc trước…).
Tu hành trong nhà Phật trừ tâm từ bi ra, còn cần có lòng tin vững
chắc, nguyện lực rộng lớn, niệm Phật chuyên cần thì mới có khả năng thoát ra
khỏi lục đạo sanh tử luân hồi khổ não.
Thiệt ra không nói là thay thế chịu khổ, chỉ ‘nghe’ thôi, cả ngày ngồi ở
đó từ sáng đến tối nghe người ta than thở: “Tôi khổ như thế nào”, “nhà tôi có sự
khổ vô cùng”, để cho bạn nghe một ngày 24 giờ, liên tục mấy ngày liền thì bạn sẽ
hiểu. Sau khi tôi ‘nghe’ một thời gian,
có một hôm khi tôi đang niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì nghe có tiếng người khác
cũng đang niệm “Nam mô Ðại từ Ðại bi Quán Thế Âm Bồ Tát”, nghe xong câu này tôi
liền có một niềm xúc động vô hạn, chảy nước mắt lúc nào không hay.
Thật đúng như vậy, đừng
nói để bạn thay thế chúng sanh chịu vô lượng khổ, chỉ để bạn ‘nghe’ sự khổ thì
liền biết lòng từ bi vô biên của Bồ Tát.
Ngài đã phát nguyện “lắng nghe chuyện khổ nạn trong thế gian”, chỗ nào có
người chịu khổ liền lập tức đến để cứu họ.
Chúng ta lắng tâm để niệm Bồ Tát, từ danh hiệu của một vị Bồ Tát thì biết
được lòng từ bi vô cùng tận của chư Bồ Tát, tâm địa rộng lớn không thể nghĩ bàn
của quý ngài.
Khi đôi mắt tôi nhìn thấy sự buồn rầu, lo sợ, khủng bố của những
người sắp chết, đôi tai nghe vô số tiếng khóc lúc sanh ly tử biệt, quay lại niệm
‘vô lượng quang minh và vô lượng thọ’ của đức Phật A Di Ðà, tự nhiên lại tràn
đầy nước mắt và cảm nhận được sự từ bi thông cảm vô cùng thân thiết chứa đựng
trong danh hiệu đức Phật A Di Ðà. Thì ra
đức Phật A Di Ðà từ xưa đã biết được những sự đau buồn đen tối và sự lo sợ trong
vòng sanh tử của phàm phu chúng ta, nên ngài phóng vô lượng quang đến khắp mọi
nơi để cứu độ, không nhàm chán mà an ủi chúng sanh. Ngài không nghỉ ngơi, không ‘lấy vacation!’,
ngày cũng như đêm, chí nguyện vĩnh viễn không bao giờ ngừng nghỉ mà cứu giúp
chúng sanh trong biển khổ sanh tử, đem sự thanh lương ở cõi Cực Lạc ban bố cho
chúng sanh. Bạn có để ý những khi mưa
suốt mấy ngày liền nhưng mặt trời vẫn không mất đi. Vô Lượng Quang Thọ là một nguồn từ bi vĩnh
hằng, chiếu rọi vô tận, không bị bất an vì mất đi quang minh, không có sự đau
khổ của sanh ly tử biệt.
Có khi đêm đã khuya, thuốc ngủ và thuốc chống đau đều không còn
hiệu lực nữa, tôi thường ở bên giường bịnh nhân giúp họ niệm Phật (thật ra phải
nói là ‘Bồ Tát bịnh nhân’ giúp tôi niệm Phật, vì nếu không có họ ở một bên, tôi
không siêng đến nỗi nửa đêm không ngủ, thức dậy niệm Phật). Hòa hợp vào nhịp thở và tiếng niệm Phật của
bịnh nhân, vừa niệm vừa nghe từng câu từng tiếng một cách an tịnh. Khi thuốc men không còn công hiệu nữa, hết
sức thành khẩn cầu cứu đức Phật A Di Ðà có công hiệu mạnh nhất, có thể an ủi
thân tâm đau khổ của bịnh nhân; lắng nghe được một tiếng thì ngay khi đó liền
được giải thoát, nếu an tịnh mà nghe rõ ràng từng chữ từng chữ thì sự đau khổ
trong mỗi phút này biến mất cũng như sương tan khi mặt trời mọc. Phật A Di Ðà giống như một công ty cung cấp
điện lực miễn phí, chỉ cần bạn đừng rút đồ cắm điện ra thì sẽ thâu nhận được
nguồn năng lượng vĩnh viễn không bao giờ chấm dứt này.
Có một người bị ung thư ở mũi, ở đây giới thiệu về người này là có
ý nghĩa đặc biệt. Ung thư của cô đã lan
rộng đến lúc khó thở thì cô mới đến bịnh viện, lúc đó vô cùng đau đớn. Một thời gian không lâu trước khi mất, cô
phát tâm ăn chay; cô kéo tay tôi và nói: “Bác sĩ à, nếu bịnh tôi không có hy
vọng chữa hết thì xin cầu cho tôi được mau mau về nước của đức Phật A Di
Ðà”. Cô từ bịnh viện khác đến bịnh viện
chúng tôi để trị liệu phóng xạ. Bịnh ung
thư mũi vốn là bịnh có hiệu quả trị lành bịnh rất cao, chỉ cần phát hiện sớm và
trị liệu sớm thì đều hết bịnh, nhưng cô phát hiện bịnh quá trễ. Vì nửa đêm cô bị hô hấp khó khăn nên người ta
mới chở cô đến bịnh viện chúng tôi cấp cứu, nhưng cứu không được. Ðêm đó tôi không có trực tại bịnh viện, cho
đến sáng hôm sau lúc tôi đến thì cô đã ngừng thở hết một thời gian và được xem
là đã chết rồi, người nhà đang sửa soạn để xuất viện. Không biết tại sao y tá ở phòng cấp cứu kêu
tôi bằng hệ thống truyền thanh của bịnh viện.
Khi tôi đến nhìn thấy cô thì cảm thấy rất buồn; tôi kề bên tai cô và nói:
“Trong đời sống ngắn ngủi
của cô đã chịu đựng quá nhiều đau khổ, con cô tuy còn nhỏ nhưng còn chồng cô lo
cho nó, những chuyện này cô muốn lo cũng lo không được rồi. Bây giờ cô nhất định phải buông xả hết tất cả
mọi việc, cô hãy cùng tôi niệm A Di Ðà Phật rồi theo ngài về Tây phương Cực Lạc
Thế Giới ”.
Tôi ở bên cạnh cô niệm Phật và cầu đức Phật từ bi nhiếp thọ; lúc
đó trong lòng tôi cảm thấy rất rõ ràng mỗi một câu niệm Phật đều từ đáy lòng
phát ra. Một điều kỳ lạ là nước mắt của
cô cứ chảy ra hoài. Sau đó tôi mời những
cô y tá trong phòng cấp cứu lại xem và nói:
“Trên mặt y khoa chúng ta
nói là cô ta đã chết, hơi thở đã đoạn dứt rồi, không còn nhịp tim đập, không còn
áp suất của máu, tất cả đều không còn nữa.
Nhưng nhà Phật nói tại vì người chết có chấp trước, thần thức của họ chưa
hoàn toàn rời khỏi thân thể, bình quân phải đợi đến 8 giờ sau mới lìa khỏi thân
thể, do đó chúng ta phải lo cho người gần lâm chung hoặc là mới chết một cách
đàng hoàng”.
Nhưng người hiện nay nếu tắt thở trong bịnh viện, phần đông là
không cho chúng ta để yên không động thi thể của họ, điều này thật đáng
tiếc.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH.( MHDT ).19/4/2012.
|
No comments:
Post a Comment