Thursday 19 April 2012

Vấn: Con đọc kinh điển và lịch sử Phật Giáo thì thấy ngày xưa các vị tổ sư đều có tục lệ truyền y bát cho vị đề tử chân truyền của mình? Vậy việc truyền y bát này bắt đầu từ đâu và với ý nghĩa gì? Ngày nay có còn tục lệ này không ạ?
Đáp:
Y Bát có từ thời kỳ Đức Phật:
Thông thường xá-lợi của đức Phật gồm có ba loại: thân xá-lợi (di cốt còn lại sau lễ trà tỳ kim thân của đức Phật như: xương, răng, tóc…), tùy thân xá-lợi (những vật dụng mà đức Phật thường dùng khi còn tại thế như y, bát, tích trượng, tọa cụ…), và pháp xá-lợi tức là những kinh điển hay pháp và luật mà Ngài đã truyền dạy. Trong Phật giáo, y và bát của đức Phật được tôn trọng, kính ngưỡng vì chúng không chỉ được xem là những phần xá-lợi gắn liền với cuộc đời đức Phật Thích-ca mà còn là những vật truyền thừa của chư Phật trong nhiều đời.
Theo kinh Bổn Sanh, sau khi vượt thành xuất gia, thái tử Sĩ-đạt-đa nghĩ rằng bộ y phục sang trọng may bằng lụa xứ Ba-la-nại mà mình đang mặc chẳng hợp với những ai đang vân du khắp nơi để tầm cầu chân lý và vì thế thái tử đã đổi nó để nhận một bộ y phục nhạt màu từ một người thợ săn vốn là hoá thân của một Phạm thiên. Bộ y phục này được xem là khởi đầu cho truyền thống mặc y phấn tảo hay y bá nạp (loại y được may từ những mảnh vải rách lượm từ đống rác hay nghĩa địa được giặt sạch) trong Tăng đoàn.
Trong thời gian du hóa, đức Phật đã được nhiều vị gia chủ cúng dường những tấm lụa quí hiếm, nhưng Ngài đều giao lại cho đệ tử mình tùy nghi sử dụng. Có một lần bác sĩ Kỳ-bà được bệnh nhân tặng một xấp vải quí, không dính nước, đáng giá mười vạn đồng như là tiền thù lao của mình. Bác sĩ bèn đem vải dâng cúng cho đức Phật. Đức Phật đã trao vải lại cho tôn giả A-nan và tôn giả đã cắt vải may y cho đức Phật, La-hầu-la và các tỳ-kheo khác. Di mẫu Kiều Đàm dùng tơ quí dệt thành một bộ y và đem dâng cúng lên đức Phật, đức Phật từ chối, Di mẫu tỏ ra không vui và thưa rằng bà đã từng nuôi nấng đức Thế Tôn trong thời thơ ấu và nay thì chính tay bà đã dệt bộ y này với mục đích duy nhất là cúng dường cho đức Phật. Đức Phật liền bảo bà nên đem cúng bộ y ấy cho chư tăng vì Tăng là ruộng phước, cúng dường chư Tăng cũng chính là cúng dường Phật. Sau đó Di mẫu đến giữa Tăng đoàn và cúng bộ y này cho tôn giả Di-lặc. Ngoài chuyện Di mẫu dâng cúng y cho đức Phật, kinh điển Phật giáo còn ghi lại chuyện tôn giả Đại Ca-diếp đổi y Tăng-già-lê mềm mại của mình để nhận tấm y phấn tảo của đức Phật. Tôn giả vốn thường thực tập hạnh đầu đà nhưng vẫn chưa tìm được một tấm y phấn tảo thích hợp nào. Một lần nọ đức Phật đến thăm lúc Tôn giả đang ở dưới một gốc cây, Tôn giả bèn gấp y Tăng-già-lê của mình và thỉnh đức Phật ngồi lên tấm y đó. Khi nghe đức Phật khen tấm y mềm mại, Tôn giả thành tâm xin được cúng dường tấm y của mình cho đức Phật và mong được thọ trì tấm y phấn tảo mà đức Phật đang dùng. Đức Phật biết Tôn giả đang cần y phấn tảo để thực hành hạnh đầu đà nên Ngài hứa khả. Sau khi nhận được y, tôn giả đã sử dụng nó cho đến cuối đời mình.
Các văn bản Phật học Pāli dường như không nói nhiều về tấm y mà đức Phật dùng trong những năm du hoá cuối đời và khi Ngài nhập diệt. Sách Pháp Uyển Châu Lâm có thuật lại chuyện về tấm y Tăng-¬già-lê của đức Phật do một vị trời Tứ Thiên Vương kể cho luật sư Đạo Tuyên như sau. Trước khi nhập diệt ba tháng, đức Thế Tôn bảo ngài Văn Thù triệu tập đại chúng tại đạo tràng. Khi hội chúng đã vân tập, đức Phật bèn kể rằng sau khi vượt thành xuất gia và đổi y phục cho một người thợ săn, Ngài được một vị thần dâng lên y Tăng-già-lê của đức Phật Ca-diếp theo như lời phó chúc của đức Ca-diếp. Sau ngày thành đạo đức Phật đã thọ trì và giữ gìn tấm y này một cách cẩn thận suốt năm mươi năm. Theo tác phẩm Ðại Ðường Tây Vực Ký của ngài Huyền Trang, khi hay tin đức Phật nhập diệt, Ma-da phu nhân cùng chư thiên từ cung trời Đao Lợi đã đến Câu-thi-na để chiêm ngưỡng lần cuối kim thân cùng y Tăng già lê, bình bát và tích trượng của đức Phật. Cũng theo ngài Huyền Trang, khi đến thành Ê-la ở Tây Bắc Ấn, Ngài đã được chiêm ngưỡng xá-lợi và y Tăng-già-lê của đức Phật. Theo bộ Phật Sử, sau lễ trà tỳ tại Câu-thi-na, xá-lợi của đức Phật được sứ giả tám nước mang về xây tháp cúng dường; những vật tùy thân khác của Ngài được đưa về thờ ở nhiều nơi khác nhau như bình bát và tích trượng ở Vajirā, hạ y ở Kus¬aghara, thắt lưng ở Pāṭaliputra, y tắm ở Campā, Pháp y ở cung trời Phạm thiên.
Cùng với y, bình bát của đức Phật cũng được xem như xá-lợi của đức Phật và là bảo vật truyền thừa của chư Phật. Theo các sử liệu Phật giáo của cả hai truyền thống Nam và Bắc truyền, thì sau khi thành đạo dưới cội Bồ-đề, đức Phật đã thọ dụng bữa ăn đầu tiên vào tuần thứ tám do hai thương gia Đề Vị và Ba-lỵ dâng cúng. Khi được hai thương gia dâng cúng thực phẩm, đức Phật liền nghĩ rằng chư Phật trong ba đời đều dùng bình bát để thọ dụng vật thực, nay ta cũng nên theo truyền thống này.
Cuối thế kỷ thứ 4, khi ngài Pháp Hiển đến khu vực Kiền-đà-la, Ngài đã có duyên được chiêm ngưỡng và lễ bái bình bát khất thực nói trên của đức Phật trong một tu viện tại đó. Theo ngài Pháp Hiển, khi vua Nguyệt Dân chinh phạt nước này, vua muốn mang bình bát về nước mình để thờ phụng nhưng dù bằng mọi cách khác nhau, ngay cả khi dùng sức của tám voi, vua cũng không cách nào đem bình bát đi được. Nghĩ rằng nhân duyên chưa đến, vua bèn xây bảo tháp cùng một ngôi già lam để thờ bát. Hằng ngày, trước giờ ngọ và vào ban đêm, chư Tăng và tín đồ được phép đến lễ bái, cúng dường bát. Điều lạ là khi những người nghèo dâng cúng một vài vòng hoa thì hoa nở rộ đầy bát, còn khi những phú gia đặt hàng trăm vòng hoa vào bát, bát vẫn không khi nào đầy. Hơn hai thế kỷ sau khi ngài Huyền Trang đến nơi này, bình bát nói trên không còn nữa và chỉ còn lại bệ thờ của bình bát mà thôi. Ngài Huyền Trang cũng cho biết rằng bình bát đã di chuyển đến nhiều nước và vào thời điểm đó bình bát hiện đang ở xứ Ba Tư.
Khi đến Tích Lan, ngài Pháp Hiển có gặp một nhà sư Ấn Độ và vị này cho biết rằng bình bát khất thực của đức Phật vốn được thờ tại Tỳ-xá-ly và sau đó cứ vài trăm ngàn năm sẽ tuần tự di chuyển đến các nước khác nhau như Càn-đà-la, Kế Tân, Tích Lan, Trung Hoa… và cuối cùng thì quay lại Ấn Độ. Khi đức Di -lặc thành đạo có bốn vị Thiên vương mang bốn bình bát này dâng lên đức Di Lặc. Ngài Pháp Hiển cho rằng chư Phật trong hiền kiếp đều có chung một truyền thống nhận bát như thế.
Bình bát của đức Phật được xem là một bảo vật luôn mang lại nhiều phước lành cho nhân gian, là biểu tượng cho sự hưng hiển của chánh pháp. Khi bình bát này được mọi người tôn thờ và giữ gìn cẩn thận thì lúc đó chánh pháp được vững mạnh. Lúc bình bát bị vỡ hay sắp biến mất cũng là lúc báo hiệu cho thời kỳ mạt pháp. Khi bình bát này di chuyển đến nước nào thì nơi ấy tai ươn, ách nạn tiêu trừ, mùa màng đượm nhuần, chánh pháp hưng hiển, vua chúa nhân từ, muôn dân đều sống trong thanh bình và an lạc. Cho đến thời kỳ mạt pháp, lúc những điềm xấu như bệnh dịch, mất mùa, thiên tai xuất hiện, thọ mạng loài người ngắn dần, thực phẩm trở nên khan hiếm, thì đó cũng chính là lúc bình bát không còn lưu lại trong nhân gian.

Y Bát của Phật được truyền trao cho ai?
Một trong những sự kiện quan trọng liên quan đến việc truyền thừa y và bát của đức Phật Thích-ca cho đức Di Lặc trong tương lai đó là việc tôn giả Đại Ca-diếp nhập định lưu thân tại núi Kê Túc. Khi biết cơ duyên hoằng hóa đã mãn, Tôn giả Ca Diếp quyết định vào núi Kê Túc nhập đại định đợi đến khi đức Di-lặc thành đạo sẽ trao lại y bát của đức Thích¬-ca. Trước khi lên núi, Tôn giả vào thành Vương Xá để từ biệt vua A-xà-thế. Lúc ấy nhà vua còn đang nghỉ nên Tôn giả một mình lên Kê Túc. Sau khi thức dậy, vua A-xà-thế bèn tìm gặp tôn giả A-nan và nhờ Tôn giả đưa mình đến đảnh lễ ngài Đại Ca-diếp. Khi cả hai đến núi Kê Túc, theo như lời nguyện của ngài Đại Ca-diếp, núi bỗng mở ra và cả hai cùng được chiêm ngưỡng và đảnh lễ tôn giả Đại Ca-diếp lần cuối. Hai mươi năm sau kỳ kiết tập kinh điển, tôn giả Đại Ca-diếp biết mình sắp nhập diệt nên theo lời phú chúc của đức Phật vào núi này nhập định để sau này trao lại y báu cho đức Di Lặc.
Việc tôn giả Đại Ca-diếp dâng y cho đức Di Lặc được thuật chi tiết trong kinh Phật thuyết Di Lặc đại thành Phật. Theo bản kinh này, khi đức Di Lặc vừa dùng thần lực mở núi Kê Túc, Phạm Vương liền dùng dầu thơm cõi trời xoa trán và thân của tôn giả Đại Ca¬-diếp. Tôn giả bèn ra khỏi Diệt tận định, thưa thỉnh và dâng y Tăng-già-lê của đức Thích-ca lên đức Di Lặc. Lúc ấy hội chúng của đức Di Lặc bèn bạch Ngài rằng vì sao hôm nay trên ngọn núi này có một chúng sanh đầu nhỏ như côn trùng, mặc y Sa-môn, lễ bái Ngài như thế. Đức Di Lặc bèn dạy các đệ tử Ngài rằng đừng nên khởi tâm khinh mạn người này. Đây chính là tôn giả Đại Ca-diếp, bậc đầu đà đệ nhất trong số một ngàn hai trăm năm mươi vị đệ tử thân cận của đức Phật Thích-ca, là vị Sa-môn tu hành rất tinh tấn, luôn thương tưởng những chúng sanh bần cùng, bậc tối thắng trong hàng trời, người… các ông nên một lòng chắp tay kính lễ vị ấy. Khi nghe đức Di-lặc dạy như vậy, cả hội chúng không còn thắc mắc, tất cả đều lễ bái tôn giả Đại Ca-diếp.
Công cuộc truyền y bát tại Trung Hoa
Khi Thiền tông hưng khởi tại Trung Hoa, y, bát được xem là những biểu tượng thiêng liêng của chánh pháp và là vật truyền thừa tối quan trọng trong thiền môn. Truyền thống này bắt nguồn từ giai thoại đức Thế Tôn trao truyền chánh pháp nhãn tạng cho tôn giả Đại Ca-¬diếp trên hội Linh Sơn, xứ Ma Kiệt Đà. Sách Cảnh Đức Truyền Đăng Lục có chép rằng sau khi truyền tâm ấn cho ngài Huệ Khả, tổ Bồ-đề Đạt-¬ma còn truyền pháp y để minh định tông chỉ nhà thiền và xem đó như bảo vật để minh chứng cho sự truyền thừa từ một tổ sư Thiên Trúc cho một môn đồ đắc pháp Trung Hoa. Tổ Đạt-ma còn huyền ký rằng sau khi ngài diệt độ hai trăm năm, lúc người biết đạo thì nhiều mà hành đạo thì ít, nói lý thì nhiều mà tỏ lý thì ít, pháp y không được truyền thừa nữa. Lịch Đại Pháp Bảo Ký cũng thuật lại rằng lúc trao pháp y cho nhị tổ Huệ Khả, tổ Đạt-ma căn dặn rằng ví như khi một vị Chuyển Luân Thánh Vương vừa lên ngôi được bảy món báu, việc truyền ca-sa là để biểu trưng cho sự truyền thừa chánh pháp. Như thế việc truyền thừa y, bát trong Phật giáo, đặc biệt là trong Thiền tông ám chỉ cho sự truyền pháp của một vị thầy hay một thiền sư cho người đệ tử nào xứng đáng và đã đắc pháp với mình. Chúng ta có thể biết rõ hơn điều này qua việc ngài Phật-đà Bạt¬-đà-la truyền y cho ngài Tăng Triệu hay tổ Đạo Tín truyền y cho ngài Pháp Dung.
Truyền thống Thiền tông cũng cho rằng pháp y được truyền từ thời tổ Đạt-ma cho đến thời ngài Huệ Năng chính là tấm y mà đức Phật đã truyền lại cho tôn giả Đại Ca-diếp, người lãnh hội được yếu chỉ của thiền trên pháp hội Linh Sơn. Song theo huyền ký của tổ Đạt-ma nói trên cũng như trong kinh Pháp Bảo Đàn khi được đệ tử Pháp Hải hỏi về việc truyền pháp y, ngài Huệ Năng đáp rằng cứ theo di kệ của tổ Bồ-đề Đạt-ma, sau khi Ngài viên tịch pháp y sẽ không được truyền thừa như trước nữa. Theo ngài Thần Hội, tại Ấn Độ, nơi có những bậc Cao tăng sống đời thanh bạch và nghiêm tịnh pháp y không được xem như là ấn tín. Việc truyền thừa y để ấn chứng chỉ xảy ra ở những nơi có quá nhiều người tham cầu tiếng tăm, lợi dưỡng, hay tranh cãi và sống thô tục, chẳng hạn như Trung Hoa.
Ngoài ý nghĩa biểu trưng cho sự hiện hữu của đức Thế Tôn tại nhân gian, y và bát của đức Phật còn là một thông điệp đầy ý nghĩa đối với hàng đệ tử của Ngài. Trong sinh hoạt của Tăng đoàn việc thọ trì y và bát theo luật nghi là một điều tối quan trọng để hội chúng xuất gia được thanh tịnh và để kế thừa truyền thống chánh pháp của chư Phật trong nhiều đời. Phẩm hạnh của mỗi người xuất gia được hình thành một phần nhờ vào nếp sống thiểu dục, tri túc thông qua việc thọ nhận phẩm vật của người đời để nuôi thân và che thân. Y và bát của đức Phật hay của mỗi người xuất gia vừa là để phân biệt với lối sinh hoạt của người thế tục, nhưng đồng thời cũng nói lên chí nguyện, hoài bão mà người xuất gia đang hướng đến. Con người sở dĩ chịu quá nhiều đau khổ, tai ươn là vì họ quá đam mê ngũ dục. Hình ảnh một bậc vương tử, một người tầm đạo khả kính nhất, một bậc đạo sư của ba cõi sống một cuộc đời thanh đạm với y phục hoại sắc và bình bát đơn sơ sẽ mãi mãi là hình ảnh cao đẹp và thâm thúy nhất đối với những ai đang thao thức về một lẽ sống thuần tịnh và thanh cao, những ai đang hướng về một lý tưởng trong sáng, và những ai đang tiếp bước trên con đường mà các bậc tiền nhân khả kính đã đi qua.
Y Bát được truyền đến ngài Huệ Năng:
Trước Huệ Năng, Thiền còn mang nặng ảnh hưởng Ấn Độ nhưng đến đời Sư, Thiền bắt đầu có những đặc điểm riêng của Trung Quốc. Vì vậy mà có người cho rằng Sư mới thật sự là người Tổ khai sáng dòng Thiền tại đây. Huệ Năng không chính thức truyền y bát cho ai, nên sau đó không còn ai chính thức là truyền nhân. Tuy nhiên Sư có nhiều học trò xuất sắc. Môn đệ chính là Thanh Nguyên Hành Tư và Nam Nhạc Hoài Nhượng là hai vị Thiền sư dẫn đầu hầu như toàn bộ các dòng Thiền về sau. Cả hai dòng này cũng được truyền đến Việt Nam qua các vị như Thảo Đường, Nhất Cú Tri Giáo, Vô Ngôn Thông và Chuyết Công.
Sư là tác giả của tác phẩm chữ Hán duy nhất được gọi là “Kinh”, một danh từ thường chỉ được dùng chỉ những lời nói, bài dạy của chính Phật Thích-ca, đó là Lục Tổ Đại Sư Pháp Bảo Đàn Kinh, một tác phẩm với ý nghĩa rất sâu xa về thiền. Cũng nhờ Pháp Bảo Đàn Kinh mà người ta biết được ít nhiều về Huệ Năng. Sư họ Lô, sinh trong một gia đình nghèo, cha mất sớm, lớn lên giúp mẹ bằng cách bán củi. Một hôm, trong lúc bán củi, nghe người ta tụng kinh Kim cương, Sư bỗng nhiên có ngộ nhập. Nghe người đọc kinh nhắc đến Hoằng Nhẫn, Sư liền đến tìm học. Hoằng Nhẫn nhận ra ngay căn cơ của Sư, nhưng không truyền pháp ngay, bắt tiếp tục chẻ củi, nấu cơm. Truyền thuyết nổi tiếng về việc truyền tâm ấn cho Huệ Năng và việc phân đôi hai phái Thiền Nam-Bắc được kể lại như sau:
Hoằng Nhẫn biết tới lúc mình phải tìm người kế thừa nên ra lệnh cho học trò mỗi người viết kệ trình bày kinh nghiệm giác ngộ. Cuối cùng chỉ có Thần Tú, một đệ tử với tri thức xuất sắc mới dám làm. Thần Tú viết bài kệ, so sánh thân người như cây Bồ-đề và tâm như tấm gương sáng và người tu hành phải lo lau chùi, giữ tấm gương luôn luôn được trong sáng. Sư đang làm việc trong bếp, nghe đọc bài kệ biết người làm chưa minh tâm kiến tánh. Sư cũng nhờ người viết bài kệ của mình như sau: Bồ đề bổn vô thọ – Minh cảnh diệc phi đài – Bổn lai vô nhứt vật – Hà xứ nhá trần ai.
Nghe bài kệ, Hoằng Nhẫn biết căn cơ của Sư vượt hẳn Thần Tú, nhưng sợ di hại nên nửa đêm gọi Sư vào thất và thuyết trọn kinh Kim cương cho Sư. Đến câu “Đừng để tâm vướng víu nơi nào” (ưng vô sở trụ nhi sinh kì tâm), Sư hoát nhiên đại ngộ. Ngũ tổ truyền y bát cho Sư và khuyên đi về phương Nam. Khi tiễn Sư xuống thuyền, Tổ muốn tự chèo đưa Sư sang sông, Sư bèn nói: “khi mê thầy độ, ngộ rồi tự độ” và tự chèo qua sông.
Suốt 15 năm sau, Sư ở ẩn, và trong thời gian này vẫn là cư sĩ. Sau đó, Sư đến chùa Pháp Tính ở Quảng Châu. Đó là nơi sản sinh công án nổi tiếng “chẳng phải gió, chẳng phải phướn”. Sau khi Sư chen vào nói “tâm các ông động” thì Ấn Tông, vị sư trụ trì của chùa hỏi Sư “Nghe nói y pháp Hoàng Mai đã truyền về phương Nam, phải chăng là hành giả?” Lúc đó Sư mới nhận mình là truyền nhân của Ngũ tổ Hoằng Nhẫn. Ấn Tông sai người cạo đầu cho Sư, cho Sư gia nhập Tăng-già rồi xin nhận Sư làm thầy.
Sau đó, sư bắt đầu giáo hoá ở chùa Pháp Tính, về sau về Bảo Lâm tự ở Tào Khê và thành lập Nam tông, trong lúc đó Thần Tú và đệ tử thành lập Bắc tông và cũng tự nhận là truyền nhân của Ngũ tổ. Nam tông cho rằng, giác ngộ là một sự nhảy vọt bất ngờ, mang tính trực giác trong lúc Bắc tông chủ trương dùng suy luận, tu tập dần dần theo chỉ dạy của kinh sách mà giác ngộ. Trong cuộc tranh chấp giữa hai phái đốn ngộ (ngộ ngay tức khắc) và tiệm ngộ này, Nam tông đã chứng tỏ sinh lực của mình, sản sinh vô số Đại sư và trở thành truyền phái đích thật của Phật pháp tại Trung Quốc. Phái Thần Tú chỉ vài thế hệ sau là khô kiệt.
Với Huệ Năng, được xem là người “ít học” nhất lại được truyền tâm ấn, Thiền đã qua một bước ngoặt quyết định, trở thành Thiền tông Trung Quốc. Các hiền triết Lão giáo cũng là những người cười nhạo văn tự, họ đã có ảnh hưởng lên cái “bất lập văn tự” của Thiền tông để từ sự dung hợp này, tất cả các tông phái Thiền Trung Quốc ra đời. Với Huệ Năng và các vị Đại sư nối tiếp, Thiền tông Trung Quốc đi vào thời đại hoàng kim trong đời nhà Đường, nhà Tống. Và cho đến ngày nay, Thiền tông vẫn còn là nguồn cảm hứng sâu xa, vẫn là một pháp môn cho nhiều Phật tử.
Ý nghĩa việc truyền y bát trong giới Phật giáo rất cao thượng, thẳm sâu mầu nhiệm giữa tình Thầy Trò “tổ tổ tương truyền, sư sư tương thọ”, Thầy Trò hiểu ý nhau mà giao việc của người trước cho người sau, biết phải làm gì cho đúng ý tưởng của người trước. Hoặc là pháp “truyền đăng tục diệm”, tức là lữa pháp của đèn trước mồi lữa pháp cho đèn sau, đèn sau tiếp lữa pháp của đèn trước, dù có khác nhau về hình thức, nhưng lữa tâm vẫn không khác. Nói thì rất hay như thế, nhưng ngày nay không còn truyền thống nầy nữa, nếu có cũng chỉ là hình thức, không có ấn chứng khả thi như thời Phật, Tổ tương truyền.


HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH.( MHDT ).20/4/2012.

No comments:

Post a Comment