Lịch sử Phật Giáo
Tây Tạng
Pháp sư
Thánh Nghiêm
Thích Tâm Trí
dịch
---o0o---
CHƯƠNG
II. PHẬT GIÁO THỜI TIỀN TRUYỀN
Phật Học Ấn Độ Thời Vãn
Kỳ.
Lịch sử Phật giáo Tây Tạng được phân định rất rõ, và được
các nhà viết sử đồng ý lấy Pháp nạn do Tạng vương Lãng Đạt
Ma gây ra làm giới tuyến; Phật giáo trước Pháp nạn gọi là Phật
giáo Tiền truyền và sau Pháp nạn gọi là Phật giáo Hậu truyền.
Trong thời kỳ đầu Phật giáo được truyền vào Tây Tạng tuy có hai
hệ, một đến từ Ấn Độ, một đến từ Trung Quốc, nhưng không lâu sau
hệ đến từ Trung Quốc bị thoái xuất, chỉ có hệ đến từ Ấn Độ là
phát triển rực rỡ.
Phật giáo tại Ấn Độ cũng được chia làm ba giai đoạn: Nguyên
thủy, Tiểu thừa và Đại thừa. Riêng Đại thừa Phật giáo Ấn Độ lại
cũng chia thành ba kỳ la: Sơ kỳ, Trung kỳ và Vãn kỳ. Ở đây xin
giới thiệu về Phật giáo Trung kỳ tại Ấn Độ. Hệ được truyền vào
Trung Quốc lấy Đại thừa hiển giáo của thời Trung kỳ làm chính,
trong khi hệ được truyền vào Tây Tạng lại lấy Đại thừa Mật giáo
của thời Vãn kỳ làm nòng cốt. Vào thời Trung kỳ của Đại thừa
hiển giáo tại Ấn Độ, thì Mật giáo chưa được khai triển. Sự long
thịnh của Mật giáo chủ yếu là tại Ba La, thời đại của vương
triều Thiên An (600-1139); nguyên lưu của Mật giáo được khởi đầu
là từ Bồ Tát Thế Thân trở về sau. Niên đại của Thế Thân là vào
khoảng đời Đông Tấn, thời vua Nguyên Đế, năm Đại Hưng thứ ba đến
thời vua An Đế cũng đời Đông Tấn niên hiệu Long An thứ tư
(320-400 Tây lịch) Niên đại nầy được liệt vào thời Vãn kỳ Đại
thừa, và tương đương với thời đại nhà Đông Tấn cho mãi đến thời
đại nhà Nam Tống của Trung Quốc kéo dài được tám trăm năm. Trong
thời gian đó Phật giáo tại Ấn Độ cũng trãi qua nhiều biến đổi
trước sau không giống nhau. Trong hơn hai trăm năm đầu của thời
kỳ nầy, các học phái chưa rõ ràng, Hiển-Mật tuy khác hướng và
học phong có khác, nhưng vẫn nhất quán giữ lấy nếp xưa. Năm trăm
năm kế tiếp, chỉ có Mật giáo là được xiển dương và cho mãi đến
lúc bị diệt vong. Do đó, hơn hai trăm năm của thời kỳ đầu được
gọi là “Phân hóa kỳ” và năm trăm năm của thời kỳ sau được
gọi là “Suy đồi kỳ”. Trong thời kỳ nầy chỉ có Đại thừa
Mật giáo là đóng vai trò chủ yếu, tuy là vậy nhưng không phải
Mật giáo không cần đến cơ sở của Đại thừa Hiển giáo. Cho nên
muốn giới thiệu Mật giáo Tây Tạng tất nhiên phải khởi đầu từ các
truyền nhân của Bồ Tát Thế Thân.
Phần tự thuật này, tôi (tức Pháp sư Thánh Nghiêm) xin y cứ vào
tác phẩm “Tây Tạng Phật giáo Nguyên Luận” của Lữ Trừng
làm tư liệu chủ yếu để tham khảo. Tư liệu mà họ Lữ sử dụng được
trích dẫn từ cuốn “Ấn Độ Phật giáo sử” của Đa La Na
Tha(Tàranàtha) người Tây Tạng. Đây là tác phẩm được hoàn thành
vào đời vua Minh Thành Tông, niên hiệu Vạn Lịch ba mươi sáu
(1608), vì ngại có người ngờ rằng tôi chỉ sử dụng các điều tốt,
lược bỏ các điều không tốt, nên trước tiên xin được nói rõ.
Đứng trên phương diện lịch sử tư tưởng của Phật giáo Ấn Độ, thì
Thế Thân quả là một vị Bồ Tát “Không Tiền Tuyệt Hậu”. Chỉ
riêng bản thân ông, cũng đã tập thành được Đại thừa Phật Pháp.
Ông là bậc “bác đại uyên thâm”! Thậm chí các học giả về sau nầy
không ai có thể xứng tầm để kế thừa sự nghiệp của ông. Ông có
bốn vị đại đệ tử, mà mỗi vị đều có hệ truyền thừa riêng .
- Một là An Huệ – người truyền thừa Tỳ Đàm học: An Huệ người Nam
Ấn, có thuyết nói ông đã từng viết sách ngay khi còn đang theo
học với Thế Thân, ông cũng là người mà không kinh sách nào ông
không đọc tới. Tuy nhiên, ông đặc biệt tinh chuyên về Tỳ Đàm
học. Luận Cu Xá do ông tường thích được truyền vào Tây Tạng.
Trong khi đó người Hán thì nói ông là người pha trộn “Tạp
Tập”. Đệ tử của An Huệ là Nguyệt Quang, ông nầy người đông
Aán. đối với tất cả Thanh minh, Kinh, Chú. không môn nào ông
không biết đến. Sau ông về trú tại chùa Na Lan Đà, ông là người
biên tạo các luận về Ngũ Minh và rộng truyền “Thập địa Luận”
“Nguyệt Đăng Tam Muội Kinh”, “Tứ Thập Hoa Nghiêm Kinh”,
“Lăng Già Kinh”, “Bát Nhã Kinh”, ông viết cả ngàn bộ chú
giải, thích nghĩa. An Huệ truyền xuống Bảo Xứng, ngoài ra môn hạ
của An Huệ còn có Mãn Tăng, người rộng giải thích Cu Xá luận,
Mãn Tăng truyền xuống Thắng Hữu. Về sau Thắng Hữu vào Tây Tạng
hóa đạo.
- Hai là Trần Na, người truyền thừa Duy Thức và Nhân Minh học:
Trần Na người Nam Ấn, ông từng trú tại chùa Na Lan Đà và tịnh xá
Aâu Đề Tỳ. Tương truyền ông thuộc lòng năm trăm thứ kinh và
không có kinh nào ông không thấu tỏ. Ông trước thuật rất nhiều
và không dưới trăm bộ. Đời sau đem những trước thuật của ông về
Duy Thức và Nhân Minh biên tập lại thành bộ “Tập Lượng Luận”.
Nhân đấy mới tập đại thành cái học về Nhân Minh. Đệ tử thân
truyền của ông là Hộ Pháp. Hộ Pháp người Nam Ấn, ông thông hiểu
cả nội ngoại tông nghĩa của các Kinh, Luận. Đồng thời ông cũng
là người biện giải tự tại, tung hoành vô ngại, giảng giải chú sớ
rất nhiều Kinh, Luận. Ông dựa vào tông nghĩa Duy Thức để giải
thích Trung Quán qua bộ “Tứ Bách Luận”; đây là một trước
tác nổi tiếng nhất của ông. Đệ tử thế độ của Hộ Pháp là Pháp
Xứng, Pháp Xứng là người khéo giải thích tam tạng Kinh, Luật,
Luận; ông tụng thuộc lòng Kinh, Chú có đến năm trăm bộ; về sau
ông theo một đệ tử của Trần Na là Tự Tại Quân để học “Tập
Lượng Luận”, do đó ông cũng là người viết lời giải của bộ “Tập
Lượng Luận”, sự lược giải của ông rất tường tận, rõ ràng và
có đến bảy mươi bộ. Ông lại sai đệ tử là Đế Thích Huệ hãy vì
thích luận của ông mà viết lời chú thích. Cũng từ đó cái học về
Duy thức và Nhân Minh mới đạt đến điểm cực cao.
- Ba là Đức Quang, người truyền thừa Luật học:
Đức Quang vốn là người dòng dõi Bà La Môn, ông sinh ở Ma Khâu
La, ông liễu triệt Tam Tạng, tuy nhiên thành tựu lớn nhất của
ông lại ở các bộ Luật, Luận. Khi còn ở tại Gia lam A Già La Phất
Lợi thuộc Ma Thâu La, lúc ấy cùng ở với ông có cả ngàn vị Tỳ
kheo, nhưng không vị nào là Luật nghi không thanh tịnh. Ông
trước tác bộ “Luật Kinh” nhằm mục đích giải thông yếu
nghĩa Tỳ Ni. Những nhà Luật nghi hậu học đều lấy ông làm chuẩn
mực.
- Bốn là Giải Thóat Quân, người truyền thừa Bát Nhã học: Giải
Thóat Quân (Aryavimutisena) sinh ở trung nam Ấn Độ, kế cận nước
Nhật Ba La, ông thọ học Bát Nhã với Thế Thân và từng vấn nghĩa
với Tăng Hộ, nhân đó ông tu theo pháp môn Bát Nhã Quán Hạnh, ông
nhận thấy kinh văn của Bát Nhã có quá nhiều điều không phù hợp
với “Hiện Quán Trang Nghiêm Luận”
(AbhisamaýalamKyra-Nàma-pra) của Từ Thị. Đêm đến ông mộng thấy
đức Từ Thị và tuân theo sự dặn dò của Từ Thị đi về phương Nam,
tại đây ông tìm thấy hai vạn bài tụng gốc của kinh Bát Nhã. Hai
vạn bài tụng nầy hoàn toàn tương ứng với “Hiện Quán Trang
Nghiêm Luận”. Bấy giờ ông mới diễn bày “Vô tự tánh nghĩa”
để nhằm chú giải Hiện Quán Trang Nghiêm Luận. Vô tự tánh
nghĩa là cái học về tư tưởng của Long Thọ vàTăng Hộ, nhưng Giải
Thóat Quân là người xiển dương Hiện Quán Trang Nghiêm Luận, ông
cũng xiển dương Du Già học do tổ sư Từ Thị trước tác. Vì vậy ông
cũng là người của học phái Trung Quán Du Già Hạnh
(Yogàcàra-madhyamika).
Trên đây là trình bày manh mối của các hệ truyền thừa mà về sau
Phật giáo Tây Tạng đều có hấp thụ, đó là Cu Xá học của An Huệ;
Trần Na, đặc biệt là Duy Thức và Nhân Minh học của Pháp Xứng.
Đức Quang thì có Hữu Bộ Luật học, Du Già của Giải Thóat Quân mà
tâm điểm là Bát Nhã học. Bốn học hệ vừa nêu là một đại bộ phận
cấu thành cơ sở lý luận trọng yếu của Đại thừa hiển giáo tại Tây
Tạng. Nếu đem bốn học hệ trên đối chiếu với giáo điển Đại thừa
của Trung Quốc, thì bấy giờ luận Cu Xá ở Trung Quốc tuy đã được
phiên dịch nhưng không được phổ biến một cách trọng thị. Về Nhân
Minh học, chính xác chỉ có lược dịch để giới thiệu, còn về “Tập
Lượng Luận” và “Thất Luận” của Pháp Xứng thì Trung
Quốc hãy còn thiếu rất nhiều. Về “Hữu Bộ Luật” tuy sau
nầy được ngài Tam Tạng pháp sư Nghĩa Tịnh phiên dịch nhưng vẫn
chưa có người hoằng dương, nhân vì trước đó tại Trung Quốc đã có
“Tứ Phần Luật”; riêng về “Hiện Quán Trang Nghiêm Luận”,
và “Vô Tự Tánh nghĩa” của Giải Thoát Quân thì tại Trung
Quốc một quyển cũng chưa được phiên dịch.
Phái Trung-Quán và Hệ
Thứ Ba
Trong cuốn “Ấn Độ Phật Giáo Sử’” có nói đến cuộc đời của
Long Thọ (Nàgàrjuna) và Đề Bà, bấy giờ học phái Trung Quán chưa
thành lập, mãi đến khi Đề Bà truyền cho Long Hữu, Long Hữu
truyền xuống Tăng Hộ, về sau môn sinh của Tăng Hộ xuất hiện hai
vị đại đệ tử mà mỗi vị thiên về một thuyết, nhân đó mới có sự ra
đời của học phái Trung Quán.
- Phật Hộ, ông là người Đát Bà La thuộc vùng Nam Ấn, là môn hạ
của Tăng Hộ nhưng lại thông đạt tông nghĩa của Long Thọ. Ông
tinh chuyên tu tập mà có được thắng trí. Do đó, đối với các sách
của Long Thọ và Đề Bà đều được ông chú thích. Tác phẩm nổi tiếng
nhất của ông là cuốn “Vô Uý Luận”, nhưng được viết lại
thành “Trung Quán Luận Thích”
Đệ tử ông là Liên Hoa Giác, Liên Hoa Giác lại truyền xuống
Nguyệt Xứng (Candrakirti), Luận sư Nguyệt Xứng là người nhận
được sự tôn sùng cực kỳ lớn của Phật giáo Tây Tạng. Những trước
tác của Nguyệt-Xứng gồm có: “Nhập Trung Luận”
(Madhyamakaavatàravà)” và Nhập-Trung- Quán Luận.
Thanh Biện, ông cũng là người Nam Ấn. Ông xuất thân từ vương tộc
Ma Lai Da La và đồng môn với Phật Hộ. Sau khi Phật Hộ mất, ông
ra sức triển khai và đả kích các luận điểm của Phật Hộ. Tác phẩm
cuối của ông là bộ “Bát Nhã Đăng Luận”, nhờ tác phẩm nầy
mà ông trở thành “Thái Sơn Bắc Đẩu” của học phái Trung
Quán, ông có ảnh hưởng cực kỳ to lớn đối với Phật giáo Tây Tạng
về các đời sau nầy.
Giờ xin giới thiệu thế hệ thứ ba, tức ngoài Du Già và Trung
Quán, nay lại đặc biệt xuất hiện một thế hệ thứ ba. Bấy giờ nhân
lúc Thanh Biện đã phá Phật Hộ, đấy chỉ là cuộc tranh luận giữa
hai người đồng môn. Phái Du Già của An Huệ vì “Trung Luận”
mà làm thích nghĩa, trong khi đó đệ tử của Thanh Biện lại
một lần nữa khởi tranh, nhưng không gây sóng gió gì, ít lâu sau
lại có đệ tử của An Huệ là Nguyệt Quang, ông nầy lại viết thêm
vào những biện luận của Nguyệt Xứng về phái Trung Quán; ngoài đệ
tử của An Huệ, còn có đệ tử của Đức Quang là Đức Huệ, ông nầy
cũng đứng trên lập trường của An Huệ mà công kích Thanh Biện; do
đó cho nên đệ tử của Thanh Biện là Tam Bát La Đỗ Đà mới khởi lên
cuộc tranh luận với Đức Huệ. Ngoài ra còn có đệ tử của Hộ Pháp
là Đề Bà Tư La Ma chú giải Trung Luận để đả phá Nguyệt Xứng. Do
đó, cuộc tranh luận giữa hai phái Du Già và Trung Quán, mà tiêu
điểm là do lập trường bất đồng về việc giải thích “Trung
Luận” của Long Thọ mà ra. Sau nầy đệ tử của Tam Bát La Đỗ Đà
là Thất Lợi Quật Đa cũng thuộc phái Trung Quán của Thanh Biện,
Thất Lợi Quật Đa lại truyền xuống cho Trí Tạng và Tịch Hộ
(Santa-rakrita), Tịch Hộ là vị đại sư đệ nhất của Phật giáo Tây
Tạng thời Tiền truyền. Hệ Du Già của Nguyệt Quang và thuyết của
Pháp Xứng được truyền xuống cho Luật Thiên và Vô Tánh, hai nhà
nầy cũng lại tương trang như nước với lửa bất khả tương dung!
Điều đáng lưu ý là cạnh đó còn có một vị luận sư tên là Tịch
Thiên, ông là người tham cứu cả hai cái học của Long Thọ và Vô
Trước, và không tự nhận mình thuộc về học hệ nào cả. Tịch Thiên,
ông vốn là vương tử của nước Tô La Tất Đà, ông từ bỏ ngôi báu để
đến Trung Ấn theo thượng tọa Thắng Thiên xuất gia tại chùa Na
Lan Đà. Tịch Thiên thọ học với Thắng Thiên mà tự chứng đắc tam
muội. Những trước tác của ông gồm có: “Tập Bồ Tát Luận”,
ông lại dùng bộ “Nhập Bồ Tát Hạnh Luận”để viết thành bộ “Nhập
Bồ Tát Hạnh” và “Bồ Đề Hạnh kinh”. Những bộ nầy được
lưu truyền hết sức sâu rộng. Khảo sát tư tưởng của Tịch Thiên
thì thấy ông lấy Trung Quán làm chủ, nhưng để quyết đoán thì ông
là học giả của Du Già. Tịch Thiên là người gây ảnh hưởng cực
lớn đối với Phật giáo Tây Tạng thời Hậu truyền, chẳng hạn trong
tư tưởng của A Đề Hạp, khi ông nầy đề cập đến “Giới Tăng
Thượng Học” của giới Bồ Tát, ngoài việc A Đề Hạp dựa vào “Bồ
Tát Địa Giới Phẩm” của “Du Già Sư Địa Luận”, phần
còn lại ông sử dụng “Nhập Bồ Tát Hạnh Luận” của Tịch
Thiên.
Đến đây chúng ta có thể
lấy các nhân vật có quan hệ đến sự truyền thừa của ba hệ phái
của Phật giáo Ấn Độ làm đầu mối cho Phật giáo Tây Tạng qua biểu
đồ sau :
Phật Giáo Ấn Độ Thời
Suy đồi.
Phật giáo Ấn Độ sau Thế
Thân.
Do hai phái Du Già và Trung Quán tranh luận nhau tự làm suy yếu
năng lực nhiếp hóa ngoại đạo, trong khi đó ngoại đạo ngày càng
hưng thịnh. Bất đắc dĩ Phật giáo phải vay mượn “Các Vật”
của ngoại giáo để hình thành nên Mật thừa Phật pháp. Quan niệm
của Mật thừa vượt quá những điều cao đẹp của đạo Phật, sinh hoạt
của Mật thừa vượt quá tầm với của đời thường, về nội bộ thì chủ
trương hàng phục ngoại đạo một cách quá ư cường điệu, trong khi
trên thực tế ngày qua ngày Phật giáo Ấn Độ bị ngoại giáo nuốt
chửng.
Theo “Ấn Độ Phật Giáo sử” của Đa La Na Tha, thì đang lúc
Long Thọ, Đề Bà, Vô Trước, Thế Thân, Trần Na, Pháp Xứng còn sinh
tiền, thì các Đại thừa sư ai cũng lo củng cố phần thắng, trong
khi tăng chúng của chư sư chỉ được liệt vào hàng Thanh văn mà
thôi, còn sức mạnh của Tiểu thừa Phật giáo tại Ấn Độ ở thời kỳ
nầy đã suy kiệt đi rất nhiều, trong mười tám bộ phái Tiểu thừa,
chỉ có một vài bộ phái là được truyền thông. Đến thời của Nguyệt
Xứng thì tại đông và nam Ấn Độ ngoại đaọ ngày càng trở nên bướng
bỉnh ương ngạnh, vì vậy nên Phật pháp lại thêm suy yếu; do e
ngại ngoại đạo bức hại, nên ở địa vị của Nguyệt Xứng ông không
làm được gì khác hơn. Có một thời những vị giảng dạy tại chùa
Na-Lan-Đa không dám công khai đối đầu với ngoại đạo mà chỉ lo
giảng dạy trong phạm vi nội tự. Điều đó cho thấy hơn hai trăm
năm sau Thế Thân là khoảng thời gian mà Phật pháp ngày như tiến
gần đến suy sụp. Sau thời kỳ nầy, các luận sư Hiển giáo đều đi
vào Mật thừa, và lấy chùa Siêu Nham ở Thiên An làm địa bàn cơ sở
trong suốt năm trăm năm. Trong thời kỳ đó chỉ có Du Già Mật và
Vô Thượng Du Già Mật là phát triển mà thôi. Đất nước Tây Tạng
tiếp giáp Ấn Độ, do đó trong lúc Phật giáo Ấn Độ đang bên bờ vực
huỷ diệt, thì những vị đại sư từ nước Ni Bạc Nhĩ và Ca Tư Di La
vào Tây Tạng rất đông, vì thế mà hêï thống Phật giáo Tây Tạng
thuộc về Đại thừa Mật giáo thời Vãn kỳ của Ấn Độ. Có điều là Mật
giáo rất được dân tộc Tây Tạng đặc biệt hoan nghênh. Được vậy là
vì ở Tây Tạng đã ngầm có Bổng giáo làm cơ sở. Mật giáo đã có khả
năng nhiếp hóa và kết nạp ngoại đạo Ấn Độ, thì nay sau khi du
nhập vào Tây Tạng, tự nhiên Mật giáo cũng khiến Bổng giáo quy
hướng về Phật giáo.
Thời gian tuy không đồng nhất, nhưng vào lúc nầy tại Ấn Độ cơ sở
Thần học đang hồi lên cao, Thần học cậy vào địa vị và thế lực
truyền thống mà tiến nhanh vào Phật giáo, chung cuộc nhân khi
Hồi giáo xâm nhập Ấn Độ và rồi đẩy Phật giáo ra khỏi Ấn Độ. Bổng
giáo ở Tây Tạng cũng vậy, từng đã một lần cậy vào thế lực truyền
thống của mình để huỷ diệt Phật giáo, nhưng vì bản thân Bổng
giáo không có cơ sở lý luận đủ để giữ vững vị trí của mình, nên
kết cục bị Phật giáo đồng hóa.
Truyền Thuyết Phật Giáo
Sớm Nhất.
Theo truyền thuyết thì đạo Phật đã có mặt tại Tây Tạng từ rất
sớm. Đó là vào năm thứ ba đời Chu Noãn Vương (313 trước công
nguyên) của Trung Quốc, chuyện kể rằng:
“Thời ấy có vị vương tử ở miền Trung Ấn Độ tên là Khiếu Xuất Sĩ
Phu Địa, nhân vì ông bị lân quốc đánh bại bèn chạy đến phía đông
núi Tuyết Sơn giáp vùng biên cảnh Tây Tạng, tại đây ông gặp mười
hai nhân sĩ người Tạng, họ hỏi ông từ đâu tới, vì không hiểu
ngôn ngữ ông lấy tay chỉ lên trời, họ lại thấy ông cử chỉ, tướng
mạo có vẻ khác thường, bèn nghĩ ông là người từ trên trời xuống,
nên cùng nhau đốn cây làm cán khiêng ông về với bộ tộc của họ,
và tôn ông lên làm vua hiệu là NIẾP XÍCH TÁN PHỔ. Đây là vị Tây
Tạng Vương Thống đầu tiên của Tây Tạng. Đồng thời vị vua nầy
cũng là người đầu tiên kiến lập chùa thờ Phật ở dưới chân núi
Khải Y Lan (Kailàsa-Võng Tư Đê). Từ đó giáo nghĩa Phật Đà được
xiển dương tại Tây Tạng. Đấy là chuyện khởi đầu của Phật giáo du
nhập Tây Tạng. Vương triều nầy kéo dài được mười hai đời. Vào
đời vua Đà Hóa Phiêu Tư Nhan Tán (Thothori Nyantsan) tương đương
thời Đông Tấn của Trung Quốc (371 sau Công nguyên).Lại nữa, bấy
giờ đột nhiên từ trên trời rơi xuống đỉnh cung điện của vua bốn
cái hòm; trong lúc mọi người chưa rõ là vật gì, thì vừa may có
năm vị tăng người Ấn Độ đi ngang qua, nhà vua bèn nhờ năm vị
tăng mở hộ năm cái hòm, thì thấy bên trong có “Bảo Khiếp
Trang Nghiêm Kinh” “Bách Bái Sám Hối Kinh” “Lục Tự Đại
Minh” (tức Úm-Ma-Ni-Bát-Di-Hồng-Om mani Padme hùm), có Bảo
tháp bằng vàng cùng với Đà Ma Ni hương.v.v.. cùng lúc lại nghe
trên không trung có tiếng nói “Hãy đợi đến năm đời sau sẽ
biết được việc nầy.” Quốc vương và quần thần không hiểu ý
câu nói trên, nhưng tất cả đều biết đây là bảo vật từ trời rơi
xuống nên rước vào cung điện để thờ cúng và lưu giữ ở cung khố.
Nhờ có được phước nghiệp và công đức nầy mà vương triều hưởng
quốc thái dân an trong thời gian một trăm hai mươi năm.
Lại nữa, năm trăm năm sau Tây Tạng xuất hiện một vị quân vương
tên là Khí Tông Lộng Tán, vị vua nầy lên ngôi kế vị lúc vừa tròn
mười ba tuổi, tương đương với thời vua Dương Đế nhà Tùy, niên
hiệu Đại Nghiệp thứ mười một (615), hoặc giả là sớm hơn bốn mươi
năm. Theo truyền thuyết vua Khí Tông Lộng Tán là người có thân
hình đẹp như ngọc, và dung mạo tuyệt trần, trên trán hiện bốn
chữ A Di Đà Phật. Sau khi lên ngôi, nhà vua liền nghĩ phải làm
những gì để đem lại lợi ích cho dân chúng được nhờ, rồi vua lại
nghĩ muốn có được tượng Phật để lễ bái; ngay lúc vua đang chính
niệm như vậy, bỗng nhiên trong tâm nhà vua hóa hiện ra một vị
Tăng, vị Tăng vì đức vua mà cầu được một tượng Quan Âm Thập Nhất
Diện, nhà vua lại nghĩ, nên xuất hiện một vị Đại Quán Đảnh, khi
vua chánh niệm tư thâm thì liền được Bồ Tát Phổ Hiền khải thỉnh
đức Phật A Di Đề Bà (A Di Đà Phật?) xoa lên đỉnh đầu của vua mà
làm phép Quán Đảnh, do sự kiện nầy mà hiện ra thần biến bất khả
tư nghì, lại hiện ra những tướng đầy đủ uy lực bất khả tư nghì
làm chấn Động bốn phương.
Ba mẫu chuyện vừa nêu tuy là truyền thuyết, nhưng đến thời đại
vua Khí Tông Lộng Tán thì “Uy lực của vua đầy đủ làm cho bốn
phương phải chẤn Động” đấy là sự xác thực có tính lịch sử
hẳn hoi; cũng vào thời của vị vua nầy, Phật giáo được du nhập
vào Tây Tạng là việc hoàn toàn chính xác. Do đó, tuy là truyền
thuyết nhưng bên trong là cả một sự tiềm ẩn biết bao là sự kiện
lịch sử có thực.
Phật Giáo Thời Vua
Khí Tông Lộng Tán.
Sau khi Nhân Dân Giải Phóng Quân tiến vào Tây Tạng, có một người
Tây phương tên là Ninh Khang Đức (Amaury de Riencourt), và ông
là người sau cùng rời khỏi Lạp Tát, đồng thời ông cũng là người
Tây phương đầu tiên viết cuốn “Tây Tạng Kiến Văn Lục”,
trong đó có đoạn viết: “So sánh với các dân tộc trên thế giới
thì người Tây Tạng vốn là một dân tộc hung hãn, mạnh bạo và giỏi
chiến đấu, nếu họ không kiên cường giữ lấy tín ngưỡng Phật giáo
để tự chế bản tính hung tợn nguyên thuỷ của mình, có thể nói một
ngày nào đó từ trên nóc nhà thế giới, họ sẽ khiến cho cả châu Á
và toàn cầu phải kinh hồn bạc vía với họ”.
Do đâu ông Amaury de Riencourt nói như vậy? Vì trước khi Phật
giáo chưa du nhập và nhiếp hóa dân tộc Tây Tạng, thì dân tộc
Tạng đã sản sinh ra vua Khí Tông Lộng Tán, đây là một vì vua
hùng tài đại lươc nổi tiếng khắp nơi! Trên phương diện lịch sử,
có người đem vua Khí Tông Lộng Tán của Tây Tạng sánh ngang với
Tra Lý Tư đại đế của châu Âu. Tôi thì cho rằng vua Khí Tông Lộng
Tán của Tây Tạng không khác với A Dục Vương trong lịch sử Ấn Độ.
Ngay khi lên ngôi chẳng bao lâu, việc đầu tiên ông làm là chinh
phục toàn bộ các tù trưởng lân cận. Kế đó ông xuất quân đi viễn
chinh, ông từng đánh chiếm nam bộ Mông Cổ, nhưng lại hướng về
Trung Quốc để bang giao. Thời vua Đường Thái Tông, vua hai nước
Đột Quyết và Thổ Cốc Hồn đều cưới công chúa nhà Đường. Do đó,
vua Khí Tông Lộng Tán cũng có yêu cầu được như vậy, vua Thái
Tông nhà Đường không thuận, ông bèn cử binh đánh chiếm Thổ Cốc
Hồn. Theo “Cựu Đường Thư” quyển chín mươi sáu ở phần “Thổ
Phồn liệt truyện” chép: “Thổ Cốc Hồn không thể giữ được,
vua quan đều chạy đến Thanh Hải để tránh mũi tấn công cực mạnh
của quân Thổ Phồn, đành để người và gia súc cho quân Thổ Phồn
cướp sạch, tiện thể, vua Thổ Phồn tiến quân công phá các tộc
Khương ở Đảng Hạng và Bạch Lan, khiến Đảng Hạng và Bạch Lan phải
điều động đến hai mươi vạn người mới có thể chận được quân Thổ
Phồn tại Tùng Châu, Tây Cảnh”. Cuối cùng tuy Thổ Phồn bị
quân nhà Đường đánh bại nhưng vua Khí Tông Lộng Tán vẫn giữ ý
định cầu hôn. Trinh Quán năm thứ mười lăm, vua Đường Thái Tông
đem công chúa Văn Thành gả cho vua Thổ Phồn. Những nhà sử học
Trung Quốc gọi cuộc hôn nhân nầy là “Thổ Phồn cướp hôn”.
Thời ấy các dân tộc man khai sống giữa biên giới hai nước Trung
Quốc-Thổ Phồn đều bị vua Khí Tông Lộng Tán chinh phục. Cạnh đó
vào năm Trinh Quán hai mươi hai (648), vua Khí Tông Lộng Tán lại
xuất quân hiệp trợ sứ nhà Đường là Vương Huyền Sách thảo phạt
vùng trung Thiên Trúc. Trước đó, vua Khí Tông Lộng Tán cũng đã
chinh phục xong nước Ni Bạc Nhĩ ở phía Nam và cưới công chúa của
nước nầy là Ba Lợi Khố Cơ. Nhân đà thắng lợi, ông tiến đánh
xuống Miến Điện buộc nước nầy phải thần phục Thổ Phồn. Về mặt
lịch sử, nếu Tây Tạng xuất hiện nhiều vị vua như Khí Tông Lộng
Tán, ắt lịch sử châu Á đã thay đổi rất nhiều. May là từ đó trở
lui, Tây Tạng tiếp nhận và hun đúc tinh thần từ bi của Phật
giáo.
Sau khi vua Khí Tông Lộng Tán thông hôn với Đường thất và Ni Bạc
Nhĩ, và lại tiếp xúc với Ấn Độ. Hai nước Ấn-Trung đều là những
nước đề cao sự tôn trọng tôn giáo và văn hóa; nhất là Phật giáo
có sức cảm hóa ông cực mạnh. Do đó, ông căn cứ vào tư tưởng Phật
giáo mà ban hành mười điều Hiền thiện và mười sáu Yếu luật để
dân chúng chấp hành.
Mười điều Hiền thiện: Một là không được sát sanh, Hai là không
được trộm cướp, Ba là không được tà tâm, Bốn là không được vọng
ngữ, Năm là không được lưỡng thiệt, Sáu là không được ác khẩu,
Bảy là không được ỷ ngữ, Tám là không được tham dục, chín là
không dược sân hận, Mười là không được tà kiến.
Mười sáu Yếu luật gồm có: Nhất yếu thành kính tin Phật, Nhị yếu
hiếu thuận cha mẹ, Tam yếu tôn kính các bậc cao đức, Tứ yếu hoà
mục thân tộc, Ngũ yếu giúp đỡ xóm giềng, Lục yếu xuất ngôn trung
tín, Thất yếu làm việc phải cẩn thận, Bát yếu chăm chỉ làm việc,
Cửu yếu tiền tài tri túc, Thập yếu phải biết báo đáp thù ân,
Thập nhứt yếu phải trả nợ đúng ước hẹn, Thập nhị yếu cân, đấu,
đong đo phải công bằng, Thập tam yếu không sanh lòng đố kỵ, Thập
tứ yếu không nghe lời sàm ngôn, Thập ngũ yếu phải xét nét ngôn
ngữ trước khi nói, Thập lục yếu phải xử sự khoan hậu.
Có người cho rằng mười điều Hiền thiện và mười sáu Yếu nghĩa là
do: “Tùng Tán Cang Bố dùng yếu nghiã của Phật giáo mà phô
diễn thành tiêu chuẩn đạo đức để toàn xã hội tuân thủ và thực
hành, rồi theo đó mà đưa ra những phán đoán về thiện ác, đúng
sai của dân chúng, việc thưởng phạt cũng y cứ vào đấy. Có thể
nói vua là người lấy tinh nghĩa của Phật giáo để đề xướng người
dân lấy đó mà tu sửa thân tâm cũng như chế định thể chế chính
trị” (Nghiên Cứu Biên Cương Chính Giáo–trang 74), lại có
người cho rằng sau khi Phật giáo được du nhập vào Tây Tạng, dân
tộc này mới thóat khỏi tình trạng dã man để tiến vào lĩnh vực
văn minh
Thời Khai Phá Văn Minh.
Từ lúc vua Khí Tông Lộng Tán tiếp xúc với văn hóa Phật giáo,
ông lại nhớ đến sự kiện kinh Phật từ trời truyền xuống vào thời
vua Đà Đoá Phiêu Tư Nhan Tán, khi ấy Tây Tạng không ai có thể
hiểu và giảng giải gì được; do đó, nhà vua phái bảy người trong
giới quý tộc đi Ấn Độ để nghiên cứu và học tập kinh Phật, nhưng
họ đều thất bại và quay trở về. Lần thứ hai ông sai quan đại
thần là Đoan Mỹ Tam Bồ Đề cùng mười bảy thanh niên lên đường
sang Ấn Độ cầu học Phật kinh và nghiên cứu về âm vận, v.v… với
chủ tâm chuẩn bị cho việc sáng chế Tạng văn. Phái đoàn do Đoan
Mỹ lãnh đạo học tập thành công và về lại Tây Tạng, tiếp đó họ
phỏng theo Phạn văn đã được cách tân dưới thời vương triều Cấp
Đa, họ điều hòa lại tiếng Tạng rồi sáng chế ra mẫu tự Tạng văn.
Về sau Đoan Mỹ còn dùng Tạng văn để viết thành tám loại Văn
Pháp. Hiện nay còn lưu giữ được hai loại Văn Pháp của ông. Đồng
thời Đoan Mỹ Tam Bồ Đề còn đem “Đại Thừa Bảo Khiếp Trang
Nghiêm kinh”, “Bách Sám Hối kinh”, “Bảo Vân Kinh”
v.v.. dịch ra Tạng văn. Đây là thời Tây-Tạng dịch kinh có
tính “đột phá”.
Lại nữa, theo “Đông Á Phật Giáo Sử” của Nhật Bảo Kim Sơn
Chính Hảo( trang 180-181)cho rằng: Bấy giờ tại Tây Tạng, người
vâng mệnh vua đứng ra dịch kinh ngoài Đoan Mỹ còn có học giả
người Ấn Độ là Câu Tát La (Kusara) cùng với Bà la môn là Tang
Ca La (Samkara), Ni Bạc Nhĩ thì có học giả Tức Tát Mông Khải
(Silamanyu), Trung Quốc thì có Thiên Thọ đại hoà thượng, cùng
với hai người đệ tử của Đoan Mỹ là Đạt Ma Cổ Tát (Dharmakosa) và
Đạo Khưu Ba Nhĩ (Rdo-rje-dpal). Điều nầy cho thấy những công
thần có công khai phá nền văn minh Tây Tạng ở thời kỳ đầu không
chỉ có một mình Đoan Mỹ Tam Bồ Đề.
Chúng ta cũng thấy khi công chúa Văn Thành còn sinh tiền, sử
ghi là có ba vị Đường tăng đã từng đi ngang qua Tây Tạng, thời
gian thuộc niên hiệu Trinh Quán có sư Huyền Chiếu đi ngang qua
Tây Tạng để vào bắc Ấn Độ, lại có sư Đạo Sanh cũng từ Tây Tạng
đi vào Ấn Độ, thời gian thuộc niên hiệu Vĩnh Huy có sư Huyền
Thái mượn đường Tây Tạng để đi đến Ni Bạc Nhĩ.
Có thuyết nói, sau khi Đoan Mỹ Tam Bồ Đề từ Ấn Độ về lại Tây
Tạng nghiên cứu sáng tạo ra Tạng văn, bấy giờ vua Khí Tông Lộng
Tán ẩn cư, ngày đêm miệt mài học tập cách sử dụng tân Tạng văn,
và không cho ai vấn chính trong suốt thời gian bốn năm. Nhờ đó
nhà vua dùng Tạng văn để sáng tác thi ca.
Trên ban hành dưới tuân theo. Có một thời toàn quốc Tây-Tạng ai
ai cũng chăm chỉ học tập văn tự mới bằng tiếng Tạng, mười điều
Hiền thiện và mười sáu Yếu luật nhằm làm thanh tịnh thế tục như
trước đã giới thiệu đều dùng Tạng văn tân tạo để viết và phổ
biến trên khắp lãnh thổ. Do đó, các học giả hậu sinh không có gì
phải thẹn khi ca tụng văn hóa Tây Tạng của thời kỳ nầy là “Văn
hóa cha”. Cũng cần nói thêm, nhờ có hai vị công chúa người
nước ngoài được gả về cho Tạng vương, mỗi vị đều mang Pháp tượng
và Văn vật của tổ quốc mình vào Tây-Tạng, trong đó có tượng A
Xúc Kim Cang, tượng Di Lặc, tượng Đa La (Quán Âm), tượng thái tử
Tất Đạt Đa và tượng đức Thích Ca Mâu Ni Phật, cùng nhiều kinh
luận và Pháp vật khác, mỗi vị công chúa đều có một số ít Tăng,
Ni tháp tùng đến Tây Tạng. Nhân có hai vị công chúa người nước
ngoài trợ duyên dân Tây Tạng được thấu hiểu Phật pháp. Do đó, về
phương diện lịch sử, người dân Tây Tạng luôn coi hai bà là Bồ
Tát Quan Âm hóa thân. Họ sùng bái hai bà như Đa La Thiên Nữ
(Tarà-là vị nữ tôn của Mật bộ). Họ tôn công chúa Văn Thành là
Thanh (Doljang) Đa La, công chúa Ba Lợi Khố Cơ là Bạch (Dolkar)
Đa La. Sau khi vua Khí Tông Lộng Tán băng hà, người Tây Tạng thờ
kính ông như Bồ Tát Quan Âm của họ, có người coi ông là hóa thân
của Phật A Di Đà.
Để có nơi thờ cúng và lễ kính Tam Bảo, nhà vua cần đến rất nhiều
thợ giỏi, và ông đã kiến lập mười ngôi đại tự, trước tiên vua
lấy Lạp Tát (Lasha) làm trung tâm để kiến tạo cung Bố Đạt Lạp.
Để có sự phân biệt giữa hai bà Phi, vua Khí Tông Lộng Tán cho
dựng ngôi Đại Chiêu tự và Tiểu Chiêu tự. Đại Chiêu tự dành cho
công chúa Văn Thành thờ tượng Thích Ca Mâu Ni Phật, Tiểu Chiêu
tự dành cho công chúa Ba Lợi Khố Cơ (dân Tây Tạng gọi bà là Vạn
Diệu Thiên Thần) thờ đức Phật A Xúc.
Có thuyết nói vua Khí Tông Lộng Tán hưởng thọ 82 tuổi (ông chết
vào khoảng đời vua Đường Cao Tông, năm Vĩnh Huy nguyên
niên-650), ba mươi hai năm sau Văn Thành công chúa mới tạ thế.
Nhà vua cùng hai bà phi sau khi chết đều được người dân Tây Tạng
đắp tượng để thờ. Tượng của công chúa Văn Thành thời gian gần
đây vẫn còn thờ tại chùa Đại Chiêu.
Công Cuộc Hoằng Pháp Gặp Trở Lực Thời Sơ Kỳ.
Tuy lúc về già vua Khí Tông Lộng
Tán vẫn cực lực hoằng dương Phật pháp, nhưng theo các nhà nghiên
cứu xã hội học, thì thời ấy dân Tây Tạng vẫn còn trong tình
trạng bán khai nên những triết lý cao thâm của Phật giáo vẫn còn
rất nhiều người không thể tiếp thọ và thấu hiểu. Hơn nữa, những
cận thần của vua Khí Tông Lộng Tán, quá nữa họ biểu thị sự sùng
kính Phật pháp là vì ý của vua muốn thế. Kỳ thực trong họ vẫn
còn tiềm tàng đức tin Bổng giáo một cách thâm căn cố đế. Do đó,
sau khi vua băng hà, Phật giáo Tây Tạng không những không phát
triển được mà còn gặp phải nghịch lưu.
Vị vương tử lên nối ngôi tuổi còn ấu niên, hoàng tộc phải cử
người nhiếp chính. Những người trong giới quí tộc trước đây vì
vâng mệnh vua mà tín ngưỡng Phật giáo, nay vua đã băng hà, đối
với các vị Tăng có địa vị cao quí được vua sủng mộ nên họ không
thể không kính, nay vua không còn, họ coi các vị Tăng ấy như kẻ
đối địch chẳng khác. Do đó, công cuộc truyền bá Phật pháp không
thể kế tục. Mặt khác, trong nhiều năm liền Tây-Tạng liên tiếp
khởi binh chinh phạt các lân bang nhằm khuếch trương cơ đồ, đấy
cũng là lý do khiến việc hoằng đạo gặp phải trở lực.
Vua Khí Tông Lộng Tán chết đi mà không có con nối nghiệp, cháu
ông là Mãn Tư Tát Mãn Tán lên kế vị xưng là Cống Tư Tát Vương,
và người nhiếp chính là Lộc Đông Tán. Ít lâu sau Lộc Đông Tán
lại chết, hai người con của Lộc Đông Tán là Khâm và Lăng thay
cha nắm quyền nhiếp chính. Đây là thời mà Thổ Phồn xuất quân đi
xâm lược và thôn tính các tộc người Khương. Họ đánh bại Thổ Cốc
Hồn, họ cũng đánh thắng luôn cả Hành Doanh Đại Tổng Quản của
Đường triều là Tiết Nhơn Quí. “Tân Đường Thư-Thổ Phồn Truyện”
đánh giá: “ Từ Hán, Ngụy đến nay đây là thời Tây Nhung thịnh
chưa từng thấy”.
Cống Tư Tát Vương tại vị được
mười bốn năm thì chết, con là Đức Tư Tát Mãn Cách Pha lên kế vị,
đấy cũng là lúc mà anh em nhà Khâm, Lăng trở nên chuyên quyền
hơn bao giờ hết, nhưng đồng thời quốc thế của Tây Tạng lúc này
cũng đang hồi cường thịnh như mặt trời mới rực sáng ở phương
đông.
Con của Đức Tư Tát Mãn Cách Pha là Khí Lệ Súc Tán vương lên kế
vị cha, ông này lại phái sứ thần đến Đường triều để xin cầu hôn.
Vua Đường Trung Tông đem con gái của Ung Vương Thủ Lể là công
chúa Kim Thành gả cho. Kim Thành công chúa là một đệ tử thành
kính qui ngưỡng Tam Bảo. Bà vào Tây Tạng với rất nhiều Phật điển
và một số vị Sa môn đi theo. Thời vua Khí Lệ Súc Tán trị vì
người ta thấy Kinh Bách Nghiệp, Kinh Kim Quang Minh, Dược học và
Số học của Trung Quốc cũng được dịch ra Tạng văn.
Công chúa Kim Thành sinh hạ được
một vị vương tử mà sau này trở thành người làm hưng vượng Phật
pháp tại Tây Tạng, đó là vua Cật Phiêu Song Đề Tán (
Khri-Sron-Ide-Btsan), còn có tên là Xích Tùng Đức Tán Vương. Ông
sinh vào năm Khai Nguyên thứ mười sáu (728), đời vua Đường Huyền
Tông.Đến đời Đường Đức Tông, năm Trinh Nguyên thứ hai (786) thì
băng hà. Vua tuổi còn niên thiếu đã lên ngôi, hoàn cảnh Tây Tạng
bấy giờ bị rơi vào tình huống các phe phái tranh dành ảnh hưởng
một cách kịch liệt. Những thủ lĩnh chuyên quyền lại là những
người bài xích Phật giáo, vua tuy sùng tín Tam Bảo nhưng còn
niên thiếu nên không thể ngăn chận được những quyền thần phá
Phật, thậm chí pháp luật do chính phủ ban hành cũng châm chọc
đến tín ngưỡng đạo Phật, đến độ họ tịch thu hết kinh sách, phong
toả cả điện Phật và tượng Phật. Tồi tệ hơn, họ còn biến các ngôi
đại tự thành lò giết mổ gia súc, bởi vậy nên vị thế Phật giáo ở
giai đoạn nầy hầu như đi vào suy vong. Kịp đến khi vua trưởng
thành, biết vận dụng trí tuệ trừ khử tất cả các đại thần chuyên
quyền, để nắm lấy thực quyền, đấy cũng là lúc mở ra thời kỳ huy
hoàng của Phật giáo Tây Tạng.
Tịch Hộ vào Tây Tạng.
Kịp đến khi vua Cật Phiêu Song Đề Tán trưởng thành và đích thân
điều hành việc nước, bấy giờ quốc thế của Tây Tạng rất mạnh và
luôn có khuynh hướng bành trướng ra các lân bang. Đây cũng là
thời mà sức mạnh quân sự của Tây Tạng còn mạnh hơn cả thời vua
Khí Tông Lộng Tán. Cũng vào thời nầy Tây Tạng thường mang quân
đánh xuống mạn phía đông như Thanh Hải, Kim Tích, Tứ Xuyên của
Trung Quốc. Tây Tạng cũng thường xuyên quấy nhiễu vùng biên
cảnh, thậm chí có lần họ vây hảm luôn cả Trường An. Về mạn nam,
họ chinh phục Mạnh Gia Lạp Ô của Ấn Độ.
Tuy hùng cứ như thế, nhưng tinh thần chủ yếu của vua Cật Phiêu
Song Đề Tán là gắng sức chấn hưng Phật giáo. Do đó, ông hướng về
Ấn Độ và Trung Quốc để cầu thỉnh Tăng lữ. Do nhân duyên nầy mà
kinh Phật được đưa vào Tây Tạng rất nhiều và một số được dịch ra
Tạng văn. Đầu tiên họ thỉnh được hai vị hòa thượng người Trung
Quốc, và ngài A Nan Đà (Ananta) của xứ Ca Tư Di La đến Tây Tạng
để phiên dịch kinh Phật. Tạng vương lại sai Ba Sa (Pah-sa) đến
nước Ni Bạc Nhĩ, tại đây vào năm Thiên Bảo thứ sáu (747), đời
Đường Huyền Tông, Ba Sa gặp được thiện hải đại sư Tịch Hộ, tức
thì Ba Sa cung thỉnh Tịch Hộ vào Tây Tạng. Bấy giờ Phật giáo Tây
Tạng còn ở giai đoạn ban đầu và tín ngưỡng Bổng giáo hãy còn rất
thịnh, trong khi Tăng chúng vẫn chưa được quy định phải theo một
khuôn phép nào. Do đó, Tịch Hộ cảm thấy rất khó hoằng hóa nên
ông trở về lại Ấn Độ. Chẳng bao lâu sau Tịch Hộ được Tạng vương
mời thỉnh lần nữa, lần này ông đến Tây Tạng và ở lại đây mười
lăm năm. Thầy của Tịch Hộ là người kế thừa học phái Trung Quán
thuộc một hệ riêng của Thanh Biện. Tịch Hộ rất uyên thâm về học
phái Duy Thức, nhưng ông chỉ mang đến Tây Tạng những luận thư
của Trung Quán.
Khảo sát về mặt lịch sử cho thấy Tịch Hộ là một học giả đúng hơn
là một nhà Tôn giáo. Vì lúc Tịch Hộ vào Tây Tạng cũng là lúc ác
ma hoành hành rất khủng khiếp, chúng tạo ra sấm sét làm chấn
động đất trời, chúng gây ra mưa đá làm hư hại mùa màng khiến
phát sinh đói khát, và dịch bệnh thì xảy ra khắp nơi. Tạng Vương
nhờ ông đứng ra trừ ma, ông đáp : “Tôi một đời chuyên tâm gắn
sức lo cứu độ chúng sanh, nên không có diệu lực để hàng ma phục
quỷ. Nhưng nếu không trừ được u ma yêu quỷ quấy phá, thì làm sao
có thể xây dựng Phật điện? Muốn trừ u ma lệ quỷ xin hãy sai
người đến Ô Kỳ Diên Na (Ô Trượng Na-Udỳana) tìm thỉnh cho kỳ
được thượng sư Liên Hoa Sanh. Vị Thượng sư nầy không những đẩy
lùi được tất cả linh ma, la sát và tám thứ yêu quỷ trong biển
lớn sinh tử, mà ngài còn là người thông đạt tất cả các Mật pháp
Đà La Ni (Dharni). Nếu thỉnh được vị thiện tri thức nầy vào Tây
Tạng, thì tất cả u ma lệ quỷ có thể thóai trị”
Nghe vậy Tạng vương liền phái hai
người đến Ô Kỳ Diên thuộc tây bắc Ấn Độ, tìm và thỉnh được
thượng sư Liên Hoa Sanh vào Tây Tạng, cùng lúc tại Lạp Tát, Tạng
vương chuẩn bị hậu lễ để nghinh đón.
Đại Sư Liên Hoa Sanh.
Tại Tây Tạng vốn đã có Bổng giáo, đây là tôn giáo sùng bái thần
quỷ và phù chú Vu Thuật. Do đó, đối với lý luận thực tiễn của
Phật giáo do Tịch Hộ giảng giải không dễ gì ai cũng tiếp thu
được. Trong khi đó đại sư Liên Hoa Sanh lại là người đại thành
tưụ về Mật giáo, ông mang đến Tây Tạng những Đà La Ni và Nghi
Quỷ Chơn Ngôn. Ông dùng thần chú để hàng phục ác ma, yêu mị, ông
cũng là vị đại sư đạt được thần thông quảng đại, khiến ai gặp
cũng sinh lòng kính phục. Cùng đến Tây Tạng với ông còn có hai
mươi lăm vị đệ tử, tất cả họ đều có khả năng hàng ma phục quỷ,
và họ được phân ra mỗi người hóa đạo một phương. Việc dùng Mật
chú để hàng ma phục quỷ là rất hợp với “khẩu vị” tín ngưỡng
nguyên thủy của người Tây Tạng. Mật giáo không phản đối Bổng
giáo mà chỉ vì tật khổ của dân gian nên phải dùng thần thông
giải cứu, cứ sau mỗi lần ra sức giải cứu, các Mật sư không tự
mình khoe khoang tài đức mà chỉ ước mong dân chúng ai cũng phát
tâm tín ngưỡng Tam Bảo một cách tự nhiên. Vì không cưỡng bách,
dụ dỗ ai ai cũng phải tin Phật, do vậy mà người dân Tây Tạng tự
tìm đến quy y Tam Bảo.
Với người Tây Tạng, Mật giáo luôn ra sức thi ân, đối với quỷ
linh gây ác trong nội cảnh Tây Tạng, Mật giáo càng ra sức trấn
áp, khử trừ, vì thế cho nên việc dùng thần thông uy lực để tồi
phục ngoại đạo và hộ trì Phật pháp, công đức ấy thực là kỳ vĩ!.
Người ta không rõ lắm về học phái và hệ truyền thừa của đại sư
Liên-Hoa-Sanh. Gần đây theo suy đoán của Lữ Trừng: “Người đời
sau khi nói về Liên Hoa Sanh họ toàn dựa vào sử truyện, nhân đó
mà thêm lời, không biết đâu là thực”. Bởi học thuyết và hệ
truyền thừa của ông truy tìm không thấy có sách sử nào ghi chép
cả. Hơn nữa, bản thân Liên Hoa Sanh cũng không có sáng tác,
trước thuật gì để biểu thị kiến giải của chính ông. Nay xin viện
dẫn một quan điểm có liên hệ giữa ông với Tịch Hộ, đó là học
thuyết được Liên Hoa Sanh tiếp thụ, học thuyết Trung Quán kiêm
Mật thừa. Học phái nầy đời sau gọi là Trung Quán Tự Lập phái
(thuộc hệ Thanh Biện) cũng được. (Tây Tạng Phật Giáo Nguyên
Luận-trang 23). Theo các nhà sử học Phật Giáo Tây Tạng, thì đa
số cho rằng đại sư Liên Hoa Sanh là sơ tổ của Cổ phái Mật giáo
Tây Tạng, sở dĩ gọi là Cổ Phái vì đây chính là phái Ninh Mã
(Rnĩn-ma-pa) của Hồng giáo Tây Tạng. Nhân vì Liên Hoa Sanh có
dịch cuốn “Kim Cang Khẩn Hành Căn Bản Chú” và đệ tử ông
là Ba Nhĩ Kiệt Tang Cổ vì thầy mình mà giảng bộ “Không Hành
Mẫu Hoả Diệm Xí Thạnh Chú” (Tham khảo Phật Giáo Đại Từ Điển
của Vọng Nguyệt Thị-từ trang 3613 trở lui).
Nhưng theo khảo sát của Lữ Trừng thì không thể như thế. Theo họ
Lữ : “Thuyết vừa nêu không đủ để tin” bởi vì Mật thừa ở
Tây Tạng từ khi được lưu bố cho đến sau này đều là bắt đầu từ
các học giả Ấn Độ như: Pháp xứng, Tịnh Hữu, Giác Tịnh, Giác Mật
v.v… các vị này kế tiếp đến Tây Tạng và dịch rất nhiều kinh điển
Mật giáo, đồng thời các vị ấy cũng truyền sở học của mình tại
Tây Tạng… Kỳ thực, Mật học của Cựu phái là xuất phát từ đây”
(Tây Tạng Phật giáo Nguyên Luận trang 23).
Những Sự Tích Thần Dị.
Liên Hoa Sanh được coi là một vị đại sư có thần dị trác tuyệt,
vì vậy nên có rất nhiều ghi chép liên quan đến việc ông hiển thị
thần thông, nay xin sao lục lại như sau:
1- Lúc Liên Hoa Sanh vừa đến Tạng thổ, được các quan đại thần và
rất đông dân chúng nghinh đón và bái yết ông tại địa phương Đội
Long Cốc, khi ấy địa phương nầy bị thiếu nước, biết được sự
việc, đại sư bèn dùng thiền trượng dộng xuống đất một cái, tức
thì dưới đất phun lên một dòng suối mát.
2- Một hôm đại sư Liên Hoa Sanh đang đi lại trong khuôn viên nơi
ông đang ở, bổng gặp một con lệ quỷ vô cùng hung tợn, quỷ ta
trông thấy Liên Hoa Sanh liền bay lên cao dùng hai ngọn núi làm
bàn tọa nhằm ép đại sư bị kẹt vào giữa để hại chết. Đại sư thấy
vậy, vội dùng thần thông bay lên cao hơn hai ngọn núi, miệng
tụng chơn ngôn chế phục được lệ quỷ và không cho nó tiếp tục gây
hoạ.
3- Lại có một hôm, nơi địa phương Đại sư đang ở đột nhiên có một
con Xích Long từ trên trời đáp xuống, hóa hiện thành một thân
hình cực kỳ to lớn, rồi biến ra tuyết và mưa đá nhắm Đại sư mà
tấn công. Đại sư một mặt thì miệng tụng chơn ngôn ( Lục Tự Đại
Minh Chú), một mặt đưa tay hứng lấy tuyết và mưa đá, bỗng nhiên
Xích Long với thân hình to lớn bị co rút nhỏ lại và rơi vào lòng
bàn tay Đại sư, nó run rẫy hồi lâu và biết là không thể thóat
khỏi liền tuân mệnh Đại sư và cầu xin qui y Tam Bảo. Đại sư chú
nguyện hồi lâu Xích Long hiện lại nguyên hình vái chào Đại sư bỏ
rồi đi. Từ đó về sau dân cư trong vùng không còn bị nạn tuyết và
mưa đá làm hư hại mùa màng.
4- Lại có một lần đại sư Liên Hoa
Sanh gặp một con quỷ, quỷ bèn biến hóa ra nhiều thứ chày và bày
ra thế trận bằng tuyết rồi nhắm vào Đại sư tấn công. Đại sư liền
dùng Pháp thuật gom tất cả tuyết vào một cái hồ và quỷ ta bị
trợt chân té nhào xuống hồ. Hồi lâu tự nghĩ không còn đủ sức để
đào thóat khỏi hồ, Đại sư lại khiến nước hồ sôi lên làm cho
xương thịt của quỷ không cách nào chịu đựng được nữa, nhưng quỷ
ta vẫn nuôi ý định đào thóat, do đó Đại Sư dùng chày Kim Cang
làm tổn thương hai mắt của quỷ. Không còn cách để thóat, Quỷ
khẩn thiết xin Đại sư tha mạng. Đại sư thuyết pháp cho nghe sau
đó phóng thích, quỷ bái chào rồi bay lên hư không biến mất.
5- Ngoài ra, còn có chuyện có một U-Linh muốn hãm hại Đại sư,
bèn hóa thành con bò trắng lông dài, ngầm ý dụ Đại Sư cỡi lên,
Đại sư hiểu dụng ý của quái ngưu, tuy cỡi thì cứ cỡi nhưng ngay
khi quái ngưu khởi niệm muốn hại, Đại sư liền khiến cả người và
trâu bay lên, quái ngưu thấy thân mình bị trói và treo lơ lững
giữa hư không, ít lâu sau nó lại hóa ra một thiếu niên mặc áo
trắng, khẩn cầu Đại Sư xin qui y. Đại Sư dùng phạm âm thuyết
pháp cho nghe, nghe xong bạch y thiếu niên rất hoan hỷ vái chào
Đại sư mà ra đi.
Đại loại những truyền thuyết kiểu thế này, đứng về phương diện
kinh nghiệm tôn giáo thì có rất nhiều những hiện tượng truyền
thuyết kiểu như vậy mà không cần phải đặt nghi vấn. Bởi nó muốn
nói lên lập trường của Tôn giáo đó, và cũng không nên coi truyền
thuyết là lối nói vô bổ.
Chùa Tang-Diên Và
Tăng-Chế Đầu Tiên
Sau thời gian tiếp nhận sự chỉ
đạo của Tịch Hộ và Liên Hoa Sanh, Thiên Bảo năm thứ tám (749),
đời vua Đường Huyền Tông, Tạng vương Cật Phiêu Song Đề Tán phỏng
theo chùa Âu Đan Phú Lê của Ấn Độ để kiến tạo chùa Tang Diên.
Chùa tọa lạc về phía đông, cách Lạp Tát khoảng ba mươi dặm Anh.
(chùa Tang Diên-Bsam-yas còn dịch là chùa Tang-Na), nhưng tên
Tang Diên được dùng phổ thông hơn. Lại nữa, theo “Lạt Ma Giáo
Sử Lược” của Trần Thiên Âu trang 13 chép: “Cách cấu tạo
điện Phật của chùa Tang Diên được chia thành ba tầng, tầng dưới
cùng được kết cấu theo kiểu kiến trúc của Thổ Bá Đặt (Tây Tạng),
tầng thứ hai được kiến trúc giống kiểu kiến trúc nhà Đường, và
tầng thứ ba được cấu trúc theo Trung Ấn Độ. Nơi chánh điện thờ
ba vị Phật, bốn góc thờ tượng Tứ Đại Bộ Châu và Tiểu Bộ Châu,
thần chú xua đuổi tà ma và tượng Nhật Nguyệt”. Cũng theo
Trần Thiên Aâu “ Chùa Tang Na được khởi công xây dựng lúc
Tạng vương vừa tròn hai mươi tuổi, đến năm Tạng vương được ba
mươi tư tuổi mới hoàn thành”.
Có thuyết nói: “Nghệ thuật kiến trúc chùa Tang Diên là viên
Hiệp Bích được kết hợp từ ba nền văn hóa là Tây Tạng, Ấn Độ và
Trung Quốc. Công trình được xây dựng trong ngót mười hai năm
liên tục đủ nói lên sự hùng vĩ của nó”. Lại có thuyết cho
rằng, thời vua Cật Phiêu Song Đề Tán chỉ mới kiến tạo được phần
móng nền mà thôi. Hiện nay những thuyết như vừa nêu có vẻ mơ hồ
không thể xác quyết được.
Sau khi chùa Tang Diên được lạc
thành, Tạng vương nghe theo chỉ dẫn của đại sư Tịch Hộ, cử người
đi Ấn Độ tìm thỉnh được hai mươi vị Trì Luật Tỳ Kheo về Tây
Tạng, hai mươi vị này y theo Luật mà kiến lập Tăng già, kế đó
tuyển chọn lấy bảy người Tây Tạng ưu tú cho theo học với hai
mươi vị Tăng già nầy, và cầu thọ cụ túc giới. Thọ cụ túc giới
xong, Tạng vương lại gởi bảy vị tân Tỳ kheo nầy sang Ấn Độ cầu
học Phật pháp, để chuẩn bị có người kế hậu. Trước đó, Phật giáo
Tây Tạng chưa có chế định giới luật của Tăng già; do đó, giờ đây
kiến lập Tăng-chế có phần nào đi quá giới luật cho phép. Ngài
Tịch Hộ và hai mươi vị Trì Luật Tỳ kheo được thỉnh từ Ấn Độ đến,
họ là những người xuất gia và luật nghi căn bản được họ truyền
thừa là của Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ, vì thế luật Tỳ kheo ở Tây
Tạng ngày nay vẫn là Luật tạng của Tiểu thừa.
Theo Vọng Nguyệt Thị (Phật giáo
đại Từ Điển trang 3613-3614)thì trong thời kỳ nầy còn có các đệ
tử của Tịch Hộ là Ca La Ma Thập La (Liên Hoa Giới-Kamalasìa) và
Tỳ Lô Giá Na Khiếp Đát (Vairocana-raksita)v.v.. cũng được mời
đến Tây Tạng để phiên dịch kinh Phật, và tuyên dương giáo pháp,
trong số những đệ tử của Tịch Hộ đến Tây Tạng đặc biệt có Ca La
Ma Thập La trước tác “Trung Đạo Trang Nghiêm Thích” cả
thảy sáu bộ. Nhằm mục đích cổ xuý tư tưởng Trung Quán, và chính
ông là người luận biện với Đại thừa Hoà Thượng người Trung Quốc
và ông được toàn thắng. Trong khi đó Tỳ-Lô-Giá-Na-Khiếp Đát thì
viết bộ “Bát Khổ Phần Kệ” và “Phát Tín Minh Đăng” v.v…Ngoài
ra ông còn dịch “Hoa Nghiêm Kinh”chung với Tư Liên Đát La
Bồ Đề (Surê-nđrabohi) để xiển dương Hiển giáo. Những dịch phẩm
nầy hiện vẫn còn trong tạng kinh Tạng văn, chúng thuộc về luận
bộ Đan Châu Nhĩ của Giác Mật, thuộc vào thời vua Cật Phiêu Song
Đề Tán cùng với Thần Giả Lỗ Bạn Trung. Điều nầy cho thấy thời ấy
anh tài từ Ấn Độ được thỉnh mời đến Tây Tạng còn có: Biến Chiêu
(Vairocana), Long Tràng (Khu-yi-rgyal-mtshan), Trí Quân v.v…
được vậy là nhờ sự trọng thị của Tạng vương.
Lại nữa theo Kim Sơn Chánh Hảo
trong “Đông Á Phật Giáo Sử” trang 18, thì thời nầy còn có
học giả người Ấn Độ như Tỳ Ma La Di Đa La (Vimalamitra), học giả
người Tây Tạng là Khúc Kỳ Nam Ba (Chos-Kyi-Snan-ba) và Ba Nhĩ
Khưu Câu (Dpal-brtregs)v.v… tuyển dịch mục lục của các Kinh,
Luận. Trong khi đó Na Di Đa La của nước Ca Tư Di La thì hoàn
thành việc quy định Tăng chế cho Tây Tạng. Nhờ những nổ lực trợ
giúp của các vị vừa nêu mà Phật giáo Tây Tạng tiến đến hưng
thịnh.
Cuộc Tranh Luận Lạp
Tát.
Đây là thời kỳ mà Hán tăng và
Phạn tăng hội tụ rất đông tại Tây Tạng, nguồn gốc và sở học giữa
Hán và Phạn tăng có nhiều điều không tương đồng, vì vậy mà giữa
hai bên có phát sinh va chạm. Về mặt thời gian, thì Hán tăng đã
ở Tây Tạng giảng dạy cho học chúng khá lâu, nên bấy giờ thế lực
của Hán tăng tại Tây Tạng thịnh hơn Phạn tăng, và vị lãnh tụ Hán
tăng ở Tây Tạng được tôn xưng là Đại Thừa Hòa Thượng (Mahàyanà
Hoa San), theo “Tây Tạng Phật Giáo Nguyên Luận” thì
thuyết của Hán tăng tại Tây Tạng gần giống với Thiền tông,
lấy”trực chỉ nhân tâm khai thị Phật tánh” làm chính, lại còn cho
rằng việc y giáo tu hành chỉ lao nhọc mà thôi chẳng có ích gì;
vì dễ sa vào phóng dật và hoàn toàn không thể giữ gìn được. Luận
điểm nầy trái ngược với luật nghi tôn giáo vừa do Tịch Hộ thiết
lập, do đó mới xảy ra tranh luận giữa Hán và Phạn tăng. Cuộc
tranh luận cứ kéo dài mà chưa có hồi kết, ngay vào thời điểm ấy
có đệ tử của Tịch Hộ là Liên Hoa Giới vào Tây Tạng. Liên Hoa
Giới là người tinh thông Trung Quán, khéo dụng Nhân Minh.
Đứng trước tình hình như vậy,
Tạng vương cho triệu tập tăng chúng và đề nghị Hán và Phạn tăng
nghị luận để đi đến quyết định đúng sai. Liên Hoa Giới được cử
đại diện cho Phạn tăng để trần thuyết, ông phá ngay vấn nạn bấy
lâu cứ tồn tại. Đại Thừa Hoà Thượng không sao ứng đáp nổi, nên
sau đó lui về lại Hán thổ. Từ đó cái học Trung Quán tại Tạng thổ
thế chỗ của Thiền giáo mà hưng thịnh.
Lịch sử Phật giáo Tây Tạng gọi đó
là “cuộc tranh luận Lạp Tát”, cuộc tranh luận được diễn
ra vào năm Trinh Nguyên thứ tám (792), đời Đường-Đức Tông. Trong
cuộc tranh luận nầy, Đại-Thừa Hòa Thượng cứ nhất mực tuân theo
truyền thống Thiền Trung Quốc, tức chủ trương lấy “đốn ngộ
trực chỉ” làm chính mà không chịu suy nghĩ và phân biệt cách
diễn dịch giáo nghĩa. Bởi pháp môn” đốn ngộ trực chỉ” chỉ
hợp với tâm cảnh của Thần Hội là “điểm chiếu điểm phá”.
Nếu đem chuyện “điểm chiếu điểm phá” ra luận trường để
tranh cao thấp ắt nhiên là không thể chạm đến được “dụng xứ”
của Thiền. Trong khi đó Liên Hoa Giới, đệ tử của Tịch Hộ lại
là người trưởng thành trong hoàn cảnh luôn có nhiều luận trường
biện luận ở xứ Ấn Độ bấy giờ. Thời ấy sau Thế Thân, Tăng Hộ trở
lui, các học phái Phật giáo ở Ấn Độ không học phái nào lại không
chú trọng đến kỷ xảo biện luận. Bản thân Liên Hoa Giới vốn đã
tinh thông phương pháp luận Nhân Minh, vì thế khi ra luận trường
ông là người sử dụng phương pháp luâïn của mình một cách đắc ý:
Phán đoán đúng sai, khéo công khéo thủ, và lý luận có tổ chức
chặt chẽ, khó ai có thể đánh ngã nổi. Kết quả, Đại Thừa Hoà
Thượng bị thủ bại, và tất nhiên phải rút lui khỏi luận trường.
Căn cứ những nghiên cứu của các
học giả cận đại, thì bấy giờ tuy Đại Thừa Hòa Thượng bị thủ bại
nơi luận trường nhưng không vì thế mà ảnh hưởng Thiền tông tại
Tây Tạng bị tiêu vong. Vì là trong các sách sử của Phật giáo Tây
Tạng đều có ghi chép về Thiền học, và người Tây Tạng biết rất rõ
Thiền của Tổ sư Đạt Ma được bắt nguồn từ tôn giả Ma Ha Ca Diếp;
tính từ Tổ sư Đạt-Ma đến Đại Thừa Hòa Thượng là vị Tổ thứ bảy
(xem “phương pháp tư duy của người Tây Tạng” của Trung
Thôn Nguyên trang 102).
Được biết sau cuộc tranh luận Lạp
Tát, Phật giáo Tây Tạng lấy Phật giáo Ấn Độ thời Vãn kỳ làm chủ
lưu. Đây là thời mà tính luận lý rất được coi trọng, do đó cho
nên các luận thư Nhân Minh được phiên dịch ra Tạng văn rất
nhiều, có đến sáu mươi sáu thứ loại. Trong khi các luận thư về
Nhân Minh được dịch ra Hán văn chỉ có ba thứ loại. Điều đó cho
thấy Phật giáo Hán, Tạng mỗi bên có sự khinh, trọng khác nhau.
Vua Lại Ba Thiệm Với
Bia Cậu Cháu
(Sanh Cửu Bi)
Thời đại của Tạng vương Cật Phiêu
Song Đề Tán, Phật giáo Tây Tạng tuy có hưng thịnh, nhưng đó là
sự hưng thịnh của giai đoạn đầu du nhập. Chẳng hạn chuyện truyền
tụng về việc dịch Phật điển ra Tạng văn chỉ là chuyện truyền
khẩu, kỳ thực chẳng thấy có bản kinh nào được viết thành văn,
chưa nói là qua thời gian dài lâu khó tránh khỏi thất lạc, còn
nếu có thì cũng được cải đính rất nhiều; vã lại thời ấy các vị
sư Ấn Độ đến Tây Tạng phần nhiều tuổi tác đã cao không thể chịu
nổi khí hậu khắc nghiệt. Tạng vương đời ba mươi lăm, đây là vị
Tạng vương có nhiều cống hiến lớn đối với Phật giáo Tây Tạng, và
đây cũng là thời mà sức mạnh quân sự của Tây Tạng đến hồi cực
thịnh; thịnh hơn cả các đời Tạng vương trước. Người dân Tây Tạng
tôn ông là Chuyển Luân Thánh Vương, họ còn nói ông là hóa thân
của Văn Thù Bồ Tát. Đến Tạng vương đời ba mươi tám (tức sau ba
đời), Phật giáo Tây Tạng thời Tiền Truyền mới đạt đến cực thịnh.
Tạng vương đời ba mươi tám có tên
là Cật Phiêu Lại Ba Thiệm (Khri-ral-pa-Can). Niên đại trị vì của
vua Cật Phiêu Lại Ba Thiệm vào khoảng đời Đường Ý Tông, Nguyên
Hoà năm thứ mười một (hoặc năm thứ mười hai), đến đời vua Đường
Võ Đế, năm Hội Xương nguyên niên (816 hoặc 817–trị vì được 41
năm).
Những năm mới lên ngôi. Tạng vương Lại Ba Thiệm thường mang quân
đánh phá vùng biên cảnh nhà Đường, lần nào ông cũng thắng, khiến
nhà Đường phải thương thuyết với ông để kiến tạo hoà bình cho
vùng biên cảnh. Qua hai lần thương nghị, hai bên Hán-Tạng đều có
lập bia minh thệ. Lần lập bia thứ hai được gọi là “Sanh Cửu
Liên Minh Bi”. Bia nầy lập vào đời vua Đường Mục Tông, năm
Trường Khánh nguyên niên (821), có thuyết nói là năm Trường
Khánh thứ hai (822). Bia hiện còn ở Lạp Tát (Lasha), nhưng trải
qua nhiều niên đại nên chữ khắc trong bia hiện nay phần lớn
không còn nhận ra. Nay xin lấy một trong hai bản sao văn bia cổ
được lưu giữ tại Bác Vật Quán của hoàng gia Anh Quốc ở Luân Đôn
do Thiên Trúc Quân sao lục, xin chép ra đây để tiện tham khảo:
“Đại Đường Văn Võ Hiếu Đức Hoàng Đế, Đại Phồn Thần Thánh Tán
Phổ, quốc chủ hai nước là cậu cháu của nhau cùng thương nghị,
vì xã tắc bên nào cũng trọng, kết cục lập Khế ước đại hòa muốn
mãi mãi không bị thất tán. Thần nhân chứng biết, nay hai bên lấy
đại tiết mà thề, truyền đến đời sau, để kiếp kiếp đời đời cháu
con xưng tụng. Văn Võ Hiếu Đức Hoàng Đế cùng Thần Tán Phổ Đức,
hai thánh duệ triết, đầy đủ sáng suốt được muôn dân xưng tụng,
nay vì thương dân lấy giáo hóa làm vận hành, nên dùng ân mà che
cả trong ngoài; Do đó kế thương nghị tương đồng, muốn muôn dân
an thái; do suy nghĩ nhất như, lâu thành đại trị. Đồng lòng xét
nét, lấy nghĩa lân bang mà giao hảo để cùng nên tốt đẹp, muốn bờ
cõi Hán-Phồn hai nước được yên, lấy phía đông Thao Dân làm quốc
giới của Đại Đường, phía Tây Thao Dân là Đại Phồn lãnh địa. Hai
nước không coi nhau là thù địch, không động binh gây hấn, không
nuôi ý xâm lăng. Nếu có ai gây cản trở nơi biên địa, thì bắt tra
cho biết rồi cấp cho áo quần lương thảo mà thả về. Để xã tắc sơn
xuyên vô nhiễu, mỗi bên phải kính thần nhân. Nghĩa cậu cháu
tương hảo, có bên nào gặp nạn thì thông truyền cho nhau ứng cứu.
Hai nước nương nhau thường xuyên qua lại. Giữa đôi bên nếu có
sai phạm, hễ Đường sai thì Phồn sữa và ngược lại, ngay như quân
tướng gặp cùng, hãy giúp cho ngựa tốt. Quân tướng đóng ở phía
đông Thao Dân do Đại Đường cung cấp, đóng ở phía tây Thanh Thủy
thì do Đại Phồn tài trợ. Để hai nước không lo khói bụi, cậu cháu
lấy lễ mà thân cận. Dương cao thịnh đức làm danh, khiến thứ dân
không còn kinh khiếp. Người đi đường không sợ, dân trong xóm an
vui, chuộng điều nghĩa mà không gây biến loạn, để ân đức trải
khắp muôn đời, được vậy thì tiếng tốt như nhật nguyệt chiếu soi
chẳng khác. Dân Phồn thọ an nơi Phồn thổ, Hán tộc trọn vui nơi
Đường quốc, ấy là nghiệp lớn của vua hai nước. Đôi bên giữ gìn
minh thệ, vĩnh viễn không đổi dời. Cúi xin Tam Bảo cùng chư
Thánh và nhật nguyệt tinh thần hạ cố. Nay Hán Phồn chí thành bày
tỏ, lấy đó làm minh, lập nên thệ ước, như bên nào không tuân thệ
ước, hoặc Hán hoặc Phồn phá minh bội ước, ắt gặp họa ương khó
tránh. Phỏng có bên nào nghiêng ngã, làm càn gây loạn, ấy là hạn
định của lời minh bị phá. Vua tôi hai nước Hán Phồn dập đầu lập
thệ, kính cẩn làm văn. Đức của hai vua chiếu khắp trong ngoài,
nhân dân tán tụng”. (Trích tạp chí Tinh – Kỳ số 75, xuất bản
1965)
Trong văn bia có ghi “Đối trước Tam Bảo mã lập thệ,” cho thấy
Tạng Vương là người chí thành tin Phật. Có thuyết nói Tạng vương
Lại Ba Thiệm cung kính Tam Bảo đến độ ông tự cắt tóc làm tọa cụ
để cúng dường Tăng Bảo, nhân đó mà ông có được danh hiệu Lại Ba
Thiệm. Chữ Lại Ba Thiệm hàm nghĩa là “Hữu Phát”. Do Tạng vương
Lại Ba Thiệm chí thành đề xướng mà Phật giáo Tây Tạng mới có sự
nghiệp dịch kinh Phật, từ đó Phật giáo Tây Tạng tiến vào “con
đường mới”.
Sự nghiệp dịch kinh
Tạng vương Lại Ba Thiệm đọc những kinh Phật đã được dịch xong
của thời trước và thấy không hoàn mỹ. Do đó, ông sai sứ đi Ấn Độ
dong ruỗi khắp nơi lễ thỉnh cho kỳ được những Tăng nhơn anh tuấn
và mời đến Tây Tạng trợ giúp công cuộc phiên dịch kinh Phật. Nhờ
nhân duyên này mà Tây Tạng đón tiếp được các hiền nhân đến từ Ấn
Độ gồm các học giả như: Thắng Hữu (Jina-mitra), Giới Đế Giác
(Surendra-bodhi) Thi-Giới(Dána–sila), Giác-Hữu (Bodhi– mitra),
Cát Tường Đế Giác (Silendra–Bohdi), Hỷ Khánh Giới (Ananta–Sika),
Kim Cang Giới (Vijaya Sila)… không dưới hai mươi vị, và đó là
những học giả hữu danh ở đất Ấn có thể tra khảo được. Về phía
Tây Tạng có các học giả như: Bảo Hộ, Pháp Tánh Giới, Trí Quân…
học giả Ấn-Tạng trên ba mươi vị, họ đều là những người nổi
tiếng, thành danh.
Những học giả vừa nêu thiết lập một chế độ dịch trường hết sức
nghiêm cách. Trước khi bắt tay vào việc dịch thuật, việc đầu
tiên họ làm là chỉnh đốn lại dịch ngữ. Phàm những kinh nào đời
trước chưa dịch xong hoặc đã dịch xong nhưng không được nhã huấn
thì đều được bổ đính (bất luận đó là kinh thuộc Tiểu hay Đại
thừa). Khi gặp những chữ hoặc tên gọi khó hiểu trong các kinh
Tiểu thừa hay Đại thừa thì thẩm định lại kết cấu của dịch ngữ để
sao cho phù hợp với phép hành văn. Trường hợp nan giải, thì dùng
phương pháp Nhân minh để phân tích cách dùng chữ, sau đó có sự
giải thích và làm ra bản ghi chép riêng. Trường hợp không thể
thuyết minh, thì tùy theo ngữ tính thích hợp mà dùng ý để dịch,
sau đó chỉnh lại cho hợp với cách sử dụng của Tạng Văn. Trường
hợp đã thích hợp với ý gốc, rồi mới tiến tới định danh thì cần
phải tinh luyện về mặt văn tự. cần chỉnh sửa và thẩm định chữ
dùng và tên gọi rồi mới biên tập thành sách, nhờ vậy mà có bộ
Phạn-Tạng Đối Chiếu Đại Từ Vựng rất nổi tiếng, hay còn có tên
gọi “Phiên Dịch Danh Nghĩa Đại Tập” (Tên tiếng Phạn là
Mahàvyutpaatti)
Sau khi những vị như Thắng Hữu đã hoàn thành bộ “Phiên Dịch Danh
Nghĩa Đại Tập”, mới tấu thỉnh Tạng Vương ban hành, từ đó dùng bộ
sách nầy để hiệu bổ tất cả các bộû kinh được dịch từ các đời
trước. Như phần đầu của Kinh Đại Bát Nhã cho đến phần thứ ba,
thứ tư… cứ theo đó mà hiệu bổ và dịch xuất được rất nhiều bộ
kinh. Về Luận bộ, thì họ ra sức dịch những bộ luận chủ yếu của
Đại thừa. Thường là các bộ Luận nổi tiếng của Long-Thọ, Đề Bà,
Mã Minh, Di Lặc, Vô Trước, Thế Thân, những bộ Luận mà đa số đại
chúng đã biết rất rõ. Nhân đó mà tại lãnh thổ Tây Tạng người ta
bắt gặp những luận thư của các vị vừa nêu. Những bộ luận quan
trọng nầy hiện vẫn còn trong “Đại Tạng Kinh Tây Tạng” và thuộc
về Đại thừa Hiển giáo. Trong số đó quá nữa được phiên dịch vào
thời gian nầy, những bản do cựu dịch cũng chịu sự hiệu đính của
thời kỳ nầy.
Thời kỳ nầy Phật giáo tuy vẫn luôn được đề xướng, nhưng thế lực
của Bổng giáo hãy còn rất mạnh, và ảnh hưởng của Bổng giáo chi
phối Phật giáo là rất lớn. Từ khi ngài Tịch Hộ lập ra Tăng chế
cho mãi thời kỳ nầy, nó không những không được phổ cập rộng rãi,
ngược lại nó còn bị nhiễm ô bởi các tập tục thế gian, vì thế
giới luật gần như bị bỏ rơi. Tuy nhiên đây cũng là thời kỳ nuôi
mưu đồ cải cách hết sức căn bản, như một mặt thì hạn chế hoặc
cấm dịch và truyền bá các kinh sách Mật giáo, vì rằng tín ngưỡng
Thần giáo có tính truyền thống có thể tin vào kinh sách Mật giáo
mà làm cho Phật giáo trở thành hủ bại, một mặt gắng sức dịch
xong bộ Luật tạng của Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ, Bộ Luật nầy bấy
giờ đang lưu hành tại Ấn Độ. Dịch toàn bộ giới bổn Tỳ Nại Da
Thập Thất Sự cũng như tất cả luật, luận của Thuyết Nhất Thiết
Hữu Bộ, và lấy đó làm chuẩn quy để chỉnh đốn Tăng chế.
Kinh Đại thừa được dịch vào thời kỳ nầy gồm có: Kinh Pháp-Hoa,
Kinh A Di Đà, Kinh Hoa-Nghiêm, Kinh Duy-Ma, Kinh Đại Nhật… và
các bộ Luận hiện vẫn còn một số trong Tạng văn đại tạng kinh. Xin sao chép và
đưa ra bản đối chiếu của Lữ Trừng, bản đối chiếu nầy trích từ
“Tây-Tạng Phật Học Nguyên Luận” trang 25 với biểu đồ:
Lạt Ma Và Sự Cúng Dường
Nồng Hậu.
Khi vua Lại Ba Thiệm còn sinh thời, do việc chỉnh đốn Tăng chế
được tiến triển tốt đẹp, từ đó dẫn đến việc xác lập trật tự của
Tăng giai. Vương thất lấy Tăng vị phân ra thành Sư-Đệ Tam Đẳng,
với thứ tự từ trên xuống là: Lạt Ma, Thiền Tu, Đệ Tử. Ý ban đầu
của chữ Lạt Ma là Thượng sư hoặc Trưởng lão. Điều nầy sẽ giải
thích ở Chương sáu(06) của sách này. Sư, Đệ, Tam Đẳng là do
chính phủ cúng dường; lại quy định cho dân gian: “Cứ mỗi năm hộ
là một tổ, mỗi tổ một năm cung cấp để nuôi một vị Tăng nhằm giúp
vị Tăng ấy an tâm tu hành mà không phải nhọc sức làm việc gì
khác. Nhờ đó mà luật nghi Tăng già tự hướng đến chỉnh túc”.
(Trích: Tây Tạng Phật Giáo Nguyên Luận – trang 26). Có thuyết
lại nói: “Thường dân trong bảy hộ chịu trách nhiệm cúng dường y
thực và vật dụng cá nhân cho một vị Tăng” (trích: Tây Tạng Phật
Giáo Sử Lược – của Chương Gia). Đặt ra quy định cúng dường như
trên, đủ thấy Tạng Vương là người hết mực kính trọng Tăng Bảo.
Tiếc rằng đưa ra quy định như thế nhưng bản thân nhà vua không
thấy những việc khó khăn mà dân tình phải gánh chịu
Nhân sự kiện nầy, sách sử ghi là “Nhờ đó mà toàn cảnh Tây Tạngõ
được hưởng lợi lạc, an khương” (Tây Tạng Phật Sử Lược – Chương
Gia). Nhưng về mặt dân gian, quy định trên khó tránh khỏi lời
oán thán của bá tánh! Cũng xuất phát từ lòng kính mộ Tăng Bảo mà
vua Lại Ba Thiệm ban chiếu thư với nội dung: “Nghiêm cấm người
dân không được miệt thị Thánh Tăng, hoặc chỉ trích, diễu cợt và
cười nhạo chư Tăng. Từ nay về sau hễ ai phạm điều cấm này thì bị
móc mắt hoặc chặt các ngón tay” (Trích: Lạt Ma Giáo Sử Lược –
của Trần Thiên Âu – trang 17). Kỳ thực, là dùng hình phạt nầy để
nghiêm cấm người dân không được nhục mạ Tăng chúng. Bản thân
biện pháp nầy cũng cần được kiểm thảo. Do nghiêm cấm gay gắt như
thế mới đưa đến sự bất bình của quốc dân, và đào sâu thêm lòng
thù ghét của những người thuộc truyền thống Bổng giáo. Kết cục
là diễn ra đại bi kịch “Thí vương diệt Phật”.
Mặt khác, phải nói là Lại Ba Thiệm vị quân vương hộ pháp, là
người thực hiện đường lối chính trị của một chuyển Luân Thánh
Vương: dùng đạo đức để giáo hóa và cai trị muôn dân. Dùng mười
điều Hiền thiện để dạy dân, và luôn lấy bản thân mình làm chuẩn
mực phép tắc, Ông nghĩ, một khi người dân đã chịu ân vua ắt họ
sẽ tôn trọng lẽ phải và sự thực. Hơn thế, vua Lại Ba Thiệm còn
là người Tây Tạng đầu tiên dùng Đại điển lịch pháp của nhà Đường
để ghi chép sử ký. Tóm lại ông là vị vua làm nên công trình vĩ
đại cho Tây Tạng.Đồng thời sở học của các vị đại sư dịch thuật
thời ấy có nguồn gốc từ thời Vãn kỳ của Phật giáo Ấn Độ, thời
nầy sư pháp rất tinh nghiêm, do bởi thất chúng luật nghi đều
tuân theo đại giới Du Già Bồ Tát, tiếp đó là Ngũ Minh mà tập
thành Đại thừa. Thứ lớp rành mạch rõ ràng đạt đến trình độ “Bác
đại cao minh”. Do đó, tuyệt nhiên đây không phải là điều mà
chúng dân bình thường có khả năng tiếp thọ. Huống nữa thời ấy
lại cấm không cho dịch và truyền bá Kinh điển Mật giáo, vì vậy
tín ngưỡng Bổng giáo có tính truyền thống không có cách nào để
thâm nhập vào Phật giáo. Từ những nhân tố trên dẫn đến cuộc vận
động hủy diệt Phật giáo của Tạng Vương Lãnh Đạt Ma.
Tạng vương Lãng Đạt Ma
phá diệt Phật giáo
Tạng vương Cật Phiêu Lại Ba Thiệm dùng chế độ mới để dưỡng Tăng,
điều đó kích thích sự gia tăng Tăng số, và khiến người dân không
ai là không khổ vì sưu cao thuế nặng, ảnh hưởng đến sinh kế của
họ. Hệ lụy của tân chế độ dưỡng Tăng là làm cho lòng dân oán
thán, bất bình, nên dối với Phật giáo họ đều có cảm tưởng không
thân thiện; trong khi đó những kẻ tả hữu của vua có lòng tin
Phật đã lần lượt chết vì tuổi già, số còn lại thì yêu cầu quốc
vương Lại Ba Thiệm đình chỉ chế độ dưỡng Tăng, đồng thời cũng
gây cản trở cho công cuộc hoằng pháp, khiến Tạng vương uất ức mà
chết. Có thuyết nới, cái chết của Tạng vương Lại Ba Thiệm có
liên quan đến người em trai của vua là Lãng Đạt Ma. Ông nầy câu
kết với bè đảng của mình để hãm hại vua.
Sau khi Tạng Vương Lại Ba Thiệm băng hà, người lên kế ngôi là
Lãng Đạt Ma, ông nầy là tín đồ của Bổng giáo, Lãng Đạt Ma vừa
lên ngôi thì Tây Tạng phát sinh nạn đói, các giống thú bị ôn
dịch, còn người thì bị thiên tai cứ liên tiếp xảy ra. Tạng Vương
Lãng Đạt Ma nhân việc xảy ra thiên tai dịch họa, và lợi dụng tâm
lý dân gian đang oán hận Tăng lữ, bèn trút hết tất cả tai họa
nguyên nhân là do Tăng lữ gây ra, đồng thời quy hết mọi sai trái
về cho Phật giáo. Do đó, đối với Phật giáo ông triển khai một
cuộc bức hại vô cùng tàn khốc. Ông cấm chỉ việc dịch kinh và cho
đốt hết kinh điển, đập phá chùa chiền, Phật tượng, ra lệnh Tăng
lữ phải hoàn tục, cưỡng bức họ trở thành thợ săn hoặc đồ tể.
Phàm vị tăng nào dám bất tuân lệnh vua thì bị xử trảm. Quả là sự
bạo ngược chưa từng thấy.
Việc làm nầy của Tạng vương Lãng Đạt Ma khiến hàng trăm năm tài
bồi đại nghiệp của vua Cật Phiêu Song đề Tán, và thịnh nghiệp mà
Vua Lại Ba Thiệm gầy dựng chỉ trong nhất đán biến thành mây
khói!
Thời ấy Tăng lữ hễ nghe đến vua quan là chạy trốn, họ đào tỵ
sang các lân quốc làm kẻ tha hương, bất luận là vị Tăng ấy thân
phận thế nào. Tựu trung những vị danh tăng có nhiều vị chạy đến
pháp thành Đôn Hoàng (Cho- grub). Tại đây các vị tiếp tục làm
công việc của mình, ấy là dịch kinh. Và tại Đôn Hoàng các vị đã
dịch được các kinh từ Phạn văn ra Tạng văn như: “Chư Tinh Mẫu Đà
La Ni Kinh”, “Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh”; và các Kinh từ Hán văn
ra Tặng văn như: “Lăng Già A Nậu Đa La Bảo Kinh”, “Kinh Quang
Minh Tối Thắng Vương Kinh”, “Hiền Ngu Kinh”, “Thiên Thủ Thiên
Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát Quãng Đại Viên Mãn Vô Ngại Bi Tâm Đà La
Ni”…
Lại nữa, còn có các vị như Đàm Tấn, Phước Huệ rộng giảng về luận
Du–Già. Lại có đại sư Pháp Thành trước tác bộ “Thích Ca Mâu Ni
Như Lai Tượng Pháp Diệt Tận Chư Ký”, và ông gọi Tây Tạng là
“Xích Diện Quốc”. Bộ sách trên có lược ghi những hưng suy trong
lịch sử Phật giáo Tây Tạng.
Lại nói về cuộc vận động phá Phật của Tạng vương Lãng Đạt Ma,
cuộc tàn diệt Phật giáo kéo dài trong năm năm, đến năm Hội Xương
thứ hai (842) đời vua Đường Võ Đế, thì Lãng Đạt Ma bị một vị
Lạt-ma tên là Kiết Tường Kim Cang (Dpal-gyi rdo-rje) giết chết.
Cái chết của ác vương
Liên quan đến cái chết của ác vương, có một thiên đoản văn miêu
tả lại sự việc nầy vô cùng sinh động: “Bấy giờ Kiết Tường Kim
Cang đang ẩn tu tại một hang động trong núi sâu, Ngài tu hạnh
Tam muội, bỗng nhiên có một vị Không Hành Mẫu xuất hiện và nói
với Kiết Tường Kim Cang: “Trong giới Phật giáo Tây Tạng, Ngài là
người có khả năng biểu hiện công đức cho đất nước nầy, ngoài
Ngài ra không còn ai khác. Hiện nay Lãng Đạt Ma–vị ác vương–đang
dùng thủ đoạn thâm độc để tiêu diệt Phật giáo. Giờ đây cơ hội đã
đến, Ngài hãy giết ông vua phi pháp ấy đi. Ta với Ngài cùng đến
đó chớ nên khiếp sợ”, vị Không Hành Mẫu nói dứt lời liền ẩn mất
dạng. Nghe xong, Kiết Tường Kim Cang liền nghĩ vua Lãng Đạt Ma
phá diệt Phật giáo ắt sẽ bị tội hành. Nghĩ vậy, ông khởi tâm đại
bi thương cảm cho Lãng Đạt Ma; ông lại nghĩ nếu không giết thì
ác vương sẽ vẫn tiếp tục tạo trọng tội, tương lai sẽ thọ khổ báo
cực nặng nơi địa ngục. Không thể để ác vương tiếp tục phá Phật,
hãy dùng tâm bi mẫn mà phương tiện giết bỏ ác vương.
Sau đó Kiết Tường Kim Cang tìm được một con ngựa trắng, ông dùng
hồ sơn đen toàn thân con ngựa và bôi đen một nữa mặt của ông,
dấu cung tên vào người rồi cỡi ngựa đi tới trước cung Bố Đạt Lạp
biểu diễn một điệu múa kỳ diệu xem rất vui mắt, vừa lúc Tạng
vương Lãng Đạt Ma đang đứng trước cung để duyệt lãm văn tự trên
bia “Sinh cửu liên minh bi”, bấy giờ Kiết Tường Kim Cang vừa đi
qua vừa múa và cúi đầu chào nhà vua, lúc tiến đến gần quốc
vương, ông cúi đầu ba lần. Lần thứ nhất ông tra tên vào cung,
lần thứ hai ông dương cung sẵn sàng bắn, lần thứ ba lúc vừa cúi
đầu thì miệng ông đọc to “phong hoàn địa, địa hoàn thủy, thủy
diệt hỏa, Kim Xí Điểu thắng Thủy Long, Kim Cang Thạch xuyên Bảo
Thạch, Thiên thần Chế A Tu La, Phật Đà thắng sư tử vương, ta nay
cũng như vậy mà giết bỏ ác vương”. Dứt lời ông nhắm thẳng vào
ngực nhà vua mà bắn, nhà vua thét lên rất to, đưa hai tay nắm
lấy tên rồi lảo đảo ngã nhào xuống đất mà chết. Lập tức Kiết
Tường Kim Cang cởi bỏ lớp áo bộc bên ngoài, thừa lúc mọi người
đang còn hổn loạn, ông thúc ngựa chạy mất dạng, chạy được hồi
lâu gặp một hồ nước, ông dắt ngựa xuống hồ rửa sạch hồ đen trên
thân ngựa và trên một phần mặt của mình, rồi tiếp tục cỡi ngựa
chạy đến một khu an toàn và biết không ai có thể truy đuổi mới
thôi”.
Sau khi Tạng vương Lãng Đạt Ma bị sát hại, Phật giáo Tây Tạng
cũng không vì thế mà phục hưng; ngược lại nhân việc nhà vua bị
sát hại bởi vị Lạt-ma, do đó những kẻ thân tín của vua trút hết
sự phẫn nộ của họ lên giới Tăng lữ, họ bắt được vị Tăng nào là
giết ngay vị Tăng ấy, có rất nhiều Tăng nhân phải bỏ nước chạy
trốn. Bởi lúc nầy Tăng nhân tại Tây Tạng không có cơ hội sống
sót. Trước tình thế như vậy, văn hóa Phật giáo tại Tây Tạng hầu
như bị diệt sạch, đồng thời một phần văn hóa bản địa của Tây
Tạng cũng gặp vận nguy. Cạnh đó, các vị vương tử của Lãng Đạt Ma
thi nhau tranh dành ngôi vua, cuộc tranh dành dẫn đến việc đánh
giết nhau kéo dài trong nhiều năm. Khiến cục diện Tây Tạng từ
chỗ thống nhất trở thành tình trạng quần hùng phân manh cát cứ,
các phe đảng sát phạt nhau. Đây là thời mà đất nước Tây Tạng bị
hãm trong trạng thái hắc ám và kéo dài ước khoảng trăm năm.
Trong suốt thời kỳ nầy, tuy bị nội loạn, nhưng chắc chắn là có
người mưu đồ phục hưng Phật giáo, dù trong dân gianTây Tạng cơ
hồ như không còn ai biết gì đến Phật pháp.
Cuộc vận động phá diệt Phật giáo tại Tây Tạng xẩy ra gần như
tương đương với thời Pháp nạn ở Trung Quốc do vua Võ Đế nhà
Đường gây tạo. Các yếu tố khiến hai nước Hán-Tạng hủy diệt Phật
giáo giống nhau như một vết xe. Tuy Phật giáo được truyền vào
Tây Tạng thời gian chưa đủ lâu để gốc rễ bám sâu, thốt nhiên gặp
phải sự đã kích không chút tình người, làm đau lòng người sáng
lập, nhưng đau xót hơn cả vẫn là cuộc pháp nạn Hội Xương đời
Đường Võ-Đế. HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH.( MHDT ).18/4/2012.
No comments:
Post a Comment