LƯỢC
SỬ VỀ ĐỨC LIÊN HOA SANH
NGÀI JAMGON KONGTRUL ĐỆ NHẤT
Tiểu sử vắn tắt về cuộc đời của Đức
Liên Hoa Sanh, cũng được
biết là Guru Rinpoche hay Padmakara, được trích ra từ “vòng hoa lam ngọc quý
báu”, một bộ sưu tập nói về cuộc đời của 108 vị terton chính do Ngài Jamgon
Kongtrul đệ nhất viết và thấy trong quyển 1 thuộc bộ Rinchen Terdzo của
Ngài.
Đức Padmakara đã ảnh hưởng đến vô số chúng sanh qua giáo
huấn Kim Cương Thừa, đặc biệt là qua hoạt
động chôn dấu những kho tàng terma thâm sâu. Bậc Thầy vĩ đại này không phải là
người thường trên con đường cũng không phải là thánh nhân của những địa Bồ Tát
mà là một hóa thân của cả hai Phật A Di Đà và Thích Ca Mâu Ni, xuất hiện để
thuần phục nhân loại và những tinh linh khó thay đổi.
Ngay cả những đại Bồ Tát cũng khó giải nghĩa đầy đủ những
gương mẫu về cuộc đời Ngài, nên tôi xin được tường thuật vắn tắt như sau.
Trong cõi Pháp thân của Tinh túy Kim Cương Quang, Đức Guru
Rinpoche nhờ đạt tự tánh giác ngộ viên mãn từ vô thủy như nền tảng giải thoát
của thanh tịnh nguyên sơ. Ngài nổi tiếng là đấng Thủ Hộ nguyên thủy Bất biến
Quang.
Trong cõi Báo thân tự-hiển lộ của Sấm Trống Viên mãn, Ngài
đồng thời biểu hiện Vô tận Trí của ngũ bộ Vô biên Đại dương Chư Phật đang sở hữu
ngũ trí.
Như hiển lộ bên ngoài của sự phô diễn tự-hiện này, trong
vô số phô diễn tướng thân ở những cõi của năm gia đình Phật bao gồm cõi Hóa thân
tự nhiên cùng hiển lộ của Đại Phạm Thiên, Ngài xuất hiện đến tất cả Bồ Tát ở
mười địa. Vì tất cả những điều này là những đám mây phô diễn trí tuệ của Guru
Rinpoche, “Vô tận Luân Trang nghiêm” nên Ngài được biết là Đấng Trì Thủ Trọn Vẹn
Liên Hoa.
Bằng năng lực của những phô diễn trí tuệ này Ngài xuất
hiện trong vô số thập phương thế giới như sự xuất hiện huyền diệu của Hóa thân,
bậc điều phục chúng sanh. Đặc biệt ở cõi Ta bà này, Ngài soi sáng năm mươi thế
giới với ngọn đèn giáo lý sutra và tantra hiển lộ như tám hóa thân để điều phục
chúng sanh trong những nơi khác nhau trên thế giới.
Dakini Yeshe Tsoygal đã có linh kiến thấy một hóa thân của
Ngài gọi là Vô biên Kim cương Hải ở hướng Đông. Mỗi lỗ chân lông trên thân Ngài
chứa một tỷ cõi và trong mỗi cõi chứa một tỷ hệ thống thế giới. Trong mỗi hệ
thống thế giới này có một tỷ Guru Rinpoche mà mỗi vị lại tạo ra một tỷ hóa thân.
Mỗi hóa thân này thuần phục cho một tỷ đệ tử. Sau đó Bà thấy sự phô diễn tương
tự ở phương trung ương và trong mỗi phương khác.
Trong cõi Diêm Phù Đề này, Guru Rinpoche chỉ là một hóa
thân, bậc điều phục chúng sanh[3] mà tùy theo khả năng, căn cơ của từng người
sẽ cảm nhận Ngài theo nhiều cách. Quyển Lịch Sử Khẩu Truyền Kilaya và hầu hết
nguồn tài liệu Ấn Độ đều giải thích rằng Ngài sinh ra là con vua hay là một bộ
trưởng ở Uddiyana, trái lại phần lớn những kho tàng terma kể lại rằng Ngài sinh
ra một cách kỳ diệu. Trong một số kinh văn nói Ngài xuất hiện từ một tia chớp
trên đỉnh Malaya. Mỗi câu chuyện kỳ diệu đều khác nhau. Thật sự đây là một chủ
đề vượt lên tầm hiểu biết của trí tuệ người thường.
Sự giải thích giới hạn của tôi chỉ là một nguyên nhân,
cuộc đời Ngài Guru Rinpoche sinh ra kỳ diệu ra sao đã được ghi trong giáo huấn
terma.
Trong xứ Uddiyana ở hướng tây Bodhgaya (Bồ Đề Đạo Tràng)
có một hòn đảo trong Hồ Danakosha, nhờ ân phước của chư Phật, trên đó xuất hiện
một hoa sen nhiều màu sắc. Đức Phật A Di Đà gởi từ giữa tâm Ngài một (chày)
Vajra vàng có khắc chữ HRIH vào nụ hoa sen này, và kỳ diệu thay, hoa sen chuyển
thành một đứa trẻ tám tuổi tay cầm một chày và một hoa sen, được trang hoàng
bằng những dấu ấn chính và phụ. Đứa trẻ ngụ ở đó và giảng dạy Giáo Pháp cao sâu
cho chư Thiên và Dakini trên hòn đảo đó.
Vào lúc đó vị vua của xứ này là Indrabodhi, không có con.
Ông đã cúng dường hết kho tàng của mình lên Tam Bảo và bố thí cho người nghèo để
cầu con. Như một phương sách cuối để tìm ngọc như ý, Ông bắt đầu cuộc du hành
đến Hồ lớn Danakosha với vị bộ trưởng Krishnadhara. Trên đường về trước tiên là
Krishnadhara và sau đó Vua Indrabodhi gặp đứa trẻ kỳ diệu. Nhà Vua xem Ngài như
kết quả của việc cầu con và đem Ngài về cung điện, ở đó ông đặt tên Ngài là
Padmakara, Liên Hoa Sanh. Sau đó Ngài
Padmakara được mời ngồi lên ngai bằng những viên ngọc quý và tất cả dân chúng
cúng dường rất nhiều.
Khi lớn lên, vị hoàng tử làm cho nhiều người cùng trưởng
thành qua các môn thể thao và trò chơi thời thanh niên của Ngài. Ngài lập gia
đình với Prabhadhari và cai trị vương quốc Uddiyana theo Giáo Pháp. Vào lúc nhận
ngôi, Ngài thấy không thể đem lại lợi ích lớn lao cho người khác bằng việc làm
cho đất nước phát triển nên Ngài xin Vua Indrabodhi cho phép thoái vị nhưng
không được chấp thuận. Thế nên trong một cuộc chơi, Ngài giả vờ làm ngọn giáo
tuột khỏi tay và giết chết con của một bộ trưởng. Do vậy Ngài bị kết án lưu đày
đến một nghĩa địa. Ngài sống ở Băng Viên, Hoan hỷ Lâm, và Sosaling, thực hiện
giới luận đạo đức của một hành giả yogi. Trong thời gian này Ngài nhận được quán
đảnh và ân phước của hai dakini là Đấng Hàng phục Ma Vương và Bậc Duy trì Cực
Lạc. Khi triệu thỉnh tất cả dakini của nghĩa địa dưới lệnh mình, Ngài được biết
là Shantarakshita.
Padmakara trở về xứ Uddiyana đến hòn đảo trong hồ, ở đó
Ngài thực hành Mật Chú và ngôn ngữ biểu tượng của chư dakini, nhờ vậy, Ngài đem
chư dakini đến hòn đảo dưới mệnh lệnh của mình. Sau đó Ngài tu hành ở Rừng Khổ
Hạnh và được ban phước linh kiến thấy Vajra Yogini. Ngài ràng buộc tất cả loài
Rồng trong những hồ cũng như những tinh linh của hành tinh phát thệ bảo vệ Giáo
Pháp nhờ sự trao quyền với năng lực siêu nhiên của tất cả chư daka và dakini. Vì
vậy Ngài nổi danh là Dorje Drakpo Tsal (Đại lực Phẫn Nộ Kim Cương).
Sau đó Ngài du hành đến kim cương ngai ở Bồ Đề Đạo Tràng,
tại đây Ngài phô diễn nhiều phép lạ. Dân chúng hỏi Ngài là ai, và khi trả lời
Ngài là một vị Phật tự-hiện, họ không tin mà còn phỉ báng. Xét thấy có nhiều lý
do phải có một vị thầy, Ngài đến Sahor, ở đó Ngài thọ giới với Prabhahasti và
được ban pháp danh Shakya Sangye. Ngài nhận giáo huấn về tantra yoga mười tám
lần và có linh kiến của các Bổn Tôn. Sau đó Ngài đến nữ đạo sư Kungamo, là bậc
trí tuệ dakini Guhyasamaya xuất hiện trong thân tướng của một sư ni. Ngài yêu
cầu được quán đảnh và Bà chuyển Ngài thành chủng tự HUM, sau đó Bà nuốt Ngài vào
và nhả ra qua hoa sen của Bà. Bên trong thân Bà, Ngài được ban toàn bộ quán đảnh
bên ngoài, bên trong, bí mật và được tịnh hóa ba che chướng (thân, khẩu, ý).
Sau này Ngài gặp tám vị Đại Trì Minh Vương và thọ tám phần
nghi quỹ. Ngài thọ nhận Maya Jala từ đại sư Buddha Guhya và Dzogchen từ tổ Shri
Singha. Theo cách này, Ngài thọ nhận và học tập tất cả sutra, tantra từ rất
nhiều học giả và những vị tổ đã thành tựu của Ấn Độ. Ngài rất thông tuệ, chỉ cần
nghiên cứu một chủ đề chỉ một lần mà đã có linh kiến của tất cả Bổn Tôn không
cần thực hành. Vào lúc đó, Ngài được biết là Loden Choksey và phô diễn cách thức
viên mãn của bậc vidyadhara đẳng cấp cao tột.
Kế tiếp, Ngài đến vùng ngoại ô của Sahor. Tại đó Ngài lôi
cuốn công chúa Mandarava, con gái của Vua Vihardhara. Ngài nhận Bà như sự hỗ trợ
nghi quỹ của mình, và họ thực hành ba tháng trong Động Maratika, sau này Đức
Phật Vô Lượng Thọ (Amitayus) xuất hiện trong thân người ban quán đảnh trên họ và
ban phước để bất khả phân với Đức Phật. Họ được ban một tỷ tantra về trường thọ
và đạt thành tựu của vidyadhara thuộc đẳng cấp làm chủ cuộc sống. Thành tựu Kim
Cương Thân vượt khỏi sinh tử, các Ngài trở lại vương quốc Sahor để hoằng Pháp.
Khi khất thực, các Ngài bị nhà vua và bộ trưởng bắt và đem thiêu sống, vị Thầy
và consort tạo niềm tin bằng sự phô diễn huyền diệu; chuyển dàn hỏa thiêu thành
hồ nước lạnh giá, các Ngài ngồi trên hoa sen giữa hồ. Các Ngài đã làm tất cả mọi
người thực hành Giáo Pháp miên mật và đã đưa họ vào trạng thái vượt khỏi luân
hồi.
Sau đó, Đức Padmakara trở lại xứ Uddiyana để chuyển hóa
dân chúng. Trong khi trì bình khất thực, Ngài bị nhận diện và đem hỏa thiêu
trong một lò thiêu lớn tại rừng đàn hương. Vị Thầy và phối ngẫu một lần nữa xuất
hiện trên một hoa sen giữa hồ không bị thương tổn, đeo một chuỗi sọ người biểu
tượng cho sự giải thoát tất cả chúng sanh khỏi luân hồi. Vì sự phô diễn phép màu
này Ngài được biết là Padma Thotreng Tsal (Đại Lực Liên Hoa của Chuỗi Sọ). Ngài
lưu lại Uddiyana trong mười ba năm như một vị thầy của nhà Vua và làm cho toàn
vương quốc thực hành Giáo Pháp. Trong thời gian này, Ngài ban quán đảnh và giáo
huấn cho Kadue Chokyi Gyamtso là Biển Pháp Biểu Tượng Cho Mọi Giáo huấn. Nhờ đó
vua và hoàng hậu cùng tất cả những người có căn cơ đã thành tựu đẳng cấp
vidyadhara tối thượng. Do vậy Ngài được biết là Padma Raja (Liên Hoa Vương).
Tương ứng với một tiên tri trong Kinh Tri Kiến Huyền Diệu,
Ngài Padmakara tự biến thành nhà sư Wangpo Dey để chuyển hóa cho vua A Dục
(Asoka). Để xây dựng cho vua A Dục niềm tin bất thoái chuyển, chỉ trong một đêm
Ngài dựng nên trong thế gian này một tỷ bảo tháp chứa những xá lợi của Đấng Như
Lai. Ngài cũng khuất phục một số vị thầy không phải Phật Giáo, Ngài đã bị đầu
độc bởi một vị vua nhưng không bị thương tổn. Sau đó, khi bị ném xuống dòng
sông, Ngài làm nước sông chảy ngược, còn Ngài thì nhảy múa giữa trời. Qua đó,
Ngài được biết là Đại Lực Kim Xí Điểu.
Ngoài ra, Padmakara còn tự hiện thân trong thân tướng
Acharya Padmavajra, vị Thầy đã phát hiện Tantra Hevajra, cũng như Brahmin
Saraha, Dombi Heruka, Virupa, Kalacharya, và nhiều vị thành tựu (siddha) khác.
Ngài tu hành trong những đại mộ địa, ở đó Ngài dạy Kim Cương Thừa cho chư dakini. Ngài hàng
phục những tinh linh thế gian bên ngoài và bên trong, chỉ định cho họ làm những
người bảo vệ Giáo Pháp. Vào lúc đó, Ngài được biết là Nyima Oser.
Khi năm trăm vị thầy ngoại đạo sắp đánh bại Giáo Pháp
trong một cuộc tranh luận tại Bồ Đề Đạo Tràng, Đức Padmakara thách thức họ và
Ngài đã chiến thắng. Một số tà sư phải viện đến tà thuật, nhưng Padmakara đánh
tan họ bằng mantra phẫn nộ mà Ngài đã được dakini Hàng phục Ma Vương ban cho.
Tất cả họ đều chuyển tâm theo Phật Giáo và ngọn cờ Giáo Pháp tung bay trên bầu
trời. Vào lúc đó Ngài được biết là Senge Dradrok. Lúc đó Ngài diệt hết ba nhiễm
ô và an trụ trong đẳng cấp Vidyadhara làm chủ cuộc sống.
Đi đến động Yanglesho ở giữa Ấn Độ và Nepal, Ngài gặp
Shakya Devi con gái vua xứ Nepal, người đã nhận lời hỗ trợ và làm phối ngẫu cho
nghi quỹ của Ngài. Trong khi Ngài thực hành Vishuddha Heruka, ba tinh linh hùng
mạnh đã ngăn không cho mưa trong ba năm tạo ra bệnh tật và đói kém. Đức
Padmakara gởi người đem tin về Ấn Độ cầu những vị thầy của Ngài ban cho một giáo
huấn có thể chống lại những che chướng này. Hai người đã trở về mang theo kinh
văn Kilaya, những che chướng tự nhiên được dẹp tan ngay khi họ vừa đến Nepal.
Sau đó, Padmakara và vị phối ngẫu thành tựu tất địa tối thượng và an trụ trong
đẳng cấp Vidyadhara đại ấn.
Guru Rinpoche nhận thấy việc thực hành nghi quỹ của
Vishuddha Heruka đem lại đại thành tựu. Nhưng thực hành này cũng giống như người
đi buôn gặp nhiều chướng ngại, còn Kilaya giống như sự bảo hộ không thể thiếu.
Vì sự trùng hợp ngẫu nhiên này, Guru Rinpoche đã soạn thảo nhiều nghi quỹ chứa
hai Heruka này. Tại nơi đây Ngài ràng buộc mười sáu vị bảo vệ thế gian phát
nguyện giữ gìn nghi quỹ Kilaya.
Đức Padmasambhva viếng thăm nhiều vương quốc cổ khác và
truyền dạy Giáo Pháp: như Hurmudzu ở gần Uddiyana, Sikojhara, Dharmakosha,
Rugma, Tirahuti, Kamarupa, vàKancha, cũng như nhiều nơi khác. Kinh văn không nói
rõ Ngài có đến xứ Droding hay không, nhưng những giáo huấn tantric Ngài đã ban
về Hevajra, Guhyachandra Bindu, Vishuddha, Hayagriva, Kilaya, và Mamo vẫn còn
truyền đến ngày nay.
Padmakara được xem là sống ở Ấn Độ đến ba ngàn sáu trăm
năm giảng dạy làm lợi ích chúng sanh. Nhưng những học giả chỉ chấp nhận một nửa
số năm; vì đó chỉ là con số tượng trưng.
Để chuyển tâm dân xứ Mông Cổ và Trung Quốc, Đức Padmakara
hóa thân thành Vua Ngonshe Chen và hành giả Tobden. Ngoài ra Ngài còn xuất hiện
như thần đồng ở vùng ngoại ô Shangshung, Ngài đã ban những giáo huấn về dòng
truyền nghe của Đại Viên Mãn (Dzogchen) và dẫn dắt nhiều
đệ tử xứng đáng thành tựu thân cầu vồng.
Bằng nhiều phương tiện, xuất hiện nhiều nơi, trong nhiều
thân tướng khác nhau, nói nhiều thứ tiếng, những hoạt động của Đức Padmakara
thật sự vượt lên mọi suy lường.
Bây giờ, tôi xin mô tả lại việc Ngài Padmakara đến xứ Tây
Tạng ra sao. Khi Vua Trisong Deutsen, một hóa thân của Bồ Tát Văn Thù, được hai
mươi tuổi; trong Ngài hình thành một khao khát mạnh mẽ về Giáo Pháp thiêng liêng
được phổ biến. Ngài mời Bồ Tát Khenpo[4] từ Ấn Độ, bậc đã dạy thập thiện hạnh
và thập nhị nhân duyên. Một năm sau, nền móng của một ngôi Đại Tự đã xong, nhưng
những tinh linh của Tây Tạng tạo chướng ngại và ngăn cản việc xây cất. Phù hợp
với tiên tri của Ngài Khenpo, nhà vua cử năm người nhanh chóng mời thỉnh đại sĩ
Padmakara. Biết trước việc này, Padmakara đã đến Manyul ở giữa Nepal và Tây
Tạng. Trên đường đến miền trung Tây Tạng, Ngài đi qua Ngari, Tsang, và Dokham
dùng thần thông thăm tất cả các khu vực, ở đó Ngài ràng buộc mười hai thiên nữ
Tenma, mười ba Gurlha và hai mươi mốt Genyen phát thệ, cũng như nhiều tinh linh
hùng mạnh khác.
Tại Rừng Tamarisk ở Hồng Thạch, Ngài gặp vua Tây Tạng và
lên đỉnh Hepori thu phục quỷ thần. Ngài đạt nền móng cho tu viện Samye và trông
coi từ đầu đến khi hoàn tất, Ngài giao cho những quỷ thần trước đây gây cản trở
việc xây cất phải làm việc. Trong năm năm đã xây dựng xong một quần thể tự viện
Samye Quang Vinh, Bất Biến và Thành Tựu Tự nhiên Vihara, bao gồm ba tu viện của
hoàng hậu, các quần thể cung điện này đã xây theo biểu tượng Núi Tu Di bao quanh
bởi bốn châu lục, tám châu lục phụ, mặt trời, mặt trăng, và tường thành của núi
sắt. Trong lễ thánh hóa, đã xảy ra năm đấu hiệu kỳ diệu.
Sau đó nhà vua ước muốn phiên dịch kinh điển và thiết lập
Giáo Pháp, nên vua chọn những thiếu niên Tây Tạng thông minh học để thành những
dịch giả. Ngài mời những Pháp sư thông hiểu Kinh, Luật, Luận từ Ấn Độ, nhờ Ngài
Khenpo thọ giới cho bảy vị tu sĩ đầu tiên và dần dần thiết lập một tăng đoàn đã
thọ giới. Bồ Tát Khenpo, Đức Padmakara và các nhà hiền triết khác cùng Ngài
Vairochana, Kawa Paltseg, Chog-ro Lui Gyaltsen và những dịch giả khác đã trao
tất cả Kinh điển Hiển và Mật của Đạo Phật đang tồn tại cũng như những luận thư
giảng nghĩa về chúng cho Tây Tạng.
Vairochana và Namkhai Nyingpo được gởi tới Ấn Độ, Ngài
Vairochana học Dzogchen với Tổ Shri
Singha, trong lúc Namkhai Nyingpo tiếp nhận giảng dạy về Vishuddha Heruka từ đại
sư Hungkara. Cả hai đều thành tựu và về hoằng Pháp ở Tây Tạng.
Sau đó, Vua Trisong Deutsen thỉnh cầu Đức Padmakara quán
đảnh và hướng dẫn. Tại Chimphu, nơi ẩn tu trên Samye, đại sư đã hiển lộ mandala
tám nghi quỹ Heruka, Ngài làm lễ nhập dòng cho nhà vua và tám người khác. Mỗi
một vị được giao phó với một trao truyền đặc biệt, và cả chín người đều thành
tựu nhờ thực hành giáo huấn.
Padmakara đã ban vô số giáo huấn thâm sâu và kỳ diệu khác
liên kết với ba tanra nội cho nhiều đệ tử đã định trước, đứng đầu là nhà vua và
những con trai và hai mươi lăm vị đệ tử ở Lhodrak, Tidro và nhiều nơi khác.
Guru Rinpoche lưu lại Tây Tạng năm mươi lăm năm sáu tháng,
bốn mươi tám năm lúc nhà vua còn sống và và bảy năm sáu tháng sau đó. Ngài đến
Tây Tạng lúc nhà vua được hai mươi mốt tuổi (810 sau Công nguyên). Nhà vua qua
đời vào tuổi sáu mươi chín. Padmakara ở lại vài năm sau đó trước khi rời khỏi xứ
La Sát (Tây Tạng).
Padmakara đi thăm hai mươi ngọn núi tuyết của Ngari, hai
mươi mốt nơi thực hành ở miền trung Tây Tạng và Tsang, hai mươi lăm nơi ở
Dokham, ba thung lũng ẩn khuất và nhiều nơi khác. Mỗi nơi Ngài đều ban phước
thành nơi thiêng liêng để thực hành. Biết trước vị vua sau này sẽ phá hoại Phật
Giáo ở Tây Tạng, Ngài ban nhiều tiên tri cho tương lai. Hội ý với nhà vua và
những đệ tử thân cận, Padmakara chôn dấu vô số giáo huấn terma, chủ yếu tại tám
kho tàng của cá nhân nhà vua, năm kho đại trí, và hai mươi lăm kho vi diệu. Lý
do chôn dấu những terma này là ngăn ngừa sự hủy diệt giáo huấn Kim Cương Thừa, tránh sự thêm thắt hay
làm sai lạc Kim Cương Thừa của giới trí thức sau
này, để bảo tồn ân phước và làm lợi ích cho những đệ tử trong tương lai. Với mỗi
kho tàng chôn dấu này, Đức Padmakara đều tiên tri thời gian phát hiện, người nào
sẽ phát hiện và người gìn giữ giáo huấn đã định trước. Ngài biểu lộ tướng phẫn
nộ khủng khiếp của trí tuệ điên ở mười ba nơi tên là Hang Cọp, ràng buộc tất cả
tinh linh thế gian dưới lời thề phục vụ Giáo Pháp, và giao cho họ canh giữ những
kho tàng terma. Vào lúc đó Ngài có tên là Dorje Drollo.
Để gợi niềm tin cho những thế hệ tương lai, Ngài để lại
dấu ấn thân Ngài tại Bumthang dấu bàn tay Ngài tại Namtso Chugmo, và dấu chân
tại Paro Drakat cũng như vô số dấu ấn ở những chỗ thực hành khác.
Sau cái chết của Vua Trisong Deutsen, Padmakara đưa Mutig
Tsenpo lên ngôi. Ngài thực hiện một drubchen tại Tramdruk, Ngài trao giáo huấn
thâm sâu cho Gyaltse, vị hoàng tử thứ hai và ban tiên tri rằng ông sẽ làm lợi
ích chúng sanh do trở thành một vị khai mật tạng trong mười ba kiếp sau.[5]
Không thể tính đếm được có bao nhiêu đệ tử ở Tây Tạng đã
nhận được quán đảnh từ Đức Padmakara trong thân người, nhưng phần lớn được nổi
tiếng là hai mươi lăm vị đệ tử ban đầu, hai mươi lăm vị ở khoảng giữa, sau này
là mười bảy và hai mươi mốt đệ tử. Có tám mươi đệ tử của Ngài đắc thân cầu vồng
tại Yerpa, và một trăm lẻ tám thiền sư tại Chuwori, ba mươi hành giả tantrika
tại Yangdzong, và năm mươi lăm bậc giác ngộ tại Sheldrag. Về đệ tử nữ có hai
mươi lăm đệ tử dakini, và bảy yogini. Nhiều vị đệ tử thân cận này có dòng truyền
thừa liên tục cho tới ngày nay.
Khi Ngài sắp rời khỏi xứ la sát đến hướng Tây Nam, nhà vua
và bộ trưởng cùng tất cả đệ tử cố gắng can ngăn Ngài Padmakara không đi, nhưng
không hiệu quả. Ngài ban cho mỗi người giáo huấn và khai thị rộng lớn và khởi
hành từ đèo Gunthang, cưỡi trên một con ngựa hay sư tử, chư thiên theo hộ tống
và cúng dường. Tại Đỉnh Núi Màu Đồng Quang Vinh trên châu lục Chamara, Ngài giải
thoát Raksha Thotreng, vua các la sát, và mang hình tướng này. Sau đó, Ngài kiến
tạo một cách phi thường cung điện Liên Hoa Quang với nhiều trang hoàng kỳ diệu
không thể tưởng và Ngài lưu xuất ra tám thân trên tám hòn đảo bao quanh, ở đó
Ngài an trú như nhà vua giảng dạy tám nghi quỹ Heruka.
Hiện tại Ngài an trụ ở đẳng cấp vidyadhara tự-hiện trong
tướng quan nhiếp chính của Vajradhara (Kim Cương Trì), bất biến với
thời gian chừng nào luân hồi còn tồn tại. Tràn đầy lòng bi, Ngài lưu xuất nhiều
hóa thân làm lợi ích chúng sanh. Thậm chí sau khi giáo huấn vinaya (luật tạng)
bị hư hoại, Ngài cũng sẽ xuất hiện với những hành giả tantric. Sẽ có nhiều đệ tử
đã định trước thành tựu thân cầu vồng. Trong tương lai khi Đức Phật Di Lạc xuất
hiện đến thế gian này, Đức Padmakara sẽ hóa thân là một người được biết là Drowa
Kundul và truyền bá giáo huấn của Kim Cương Thừa cho tất cả người xứng
đáng.
Tiểu sử vắn tắt này chỉ là một phần
tường thuật để thích nghi với những gì mà người học bình thường có thể tiếp
nhận[6].
Read more: Lược sử về đức Liên Hoa Sanh | Tham khảo http://tuyenphap.com/Tham-khao/Luoc-su-ve-duc-Lien-Hoa-Sanh#ixzz1sLIcAKgl.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH.( MHDT ).18/4/2012.
No comments:
Post a Comment