THẾ NÀO LÀ TU TẬP?
Đạo sư Wanko Yeshe
Norbu truyền khẩu Giáo pháp về sự
tu tập
Một bài
pháp thoại cho các rinpoche và các đệ tử khác
Ngày hôm nay con, là một
rinpoche, đã trân trọng thỉnh cầu một bài giảng pháp liên quan đến câu hỏi “Thế
nào là tu tập?” Đây là một bài học rất cơ bản, thực chất là bài học đầu tiên.
Tuy vậy, đây là một vấn đề quan trọng mà nhiều người tu tập, trong đó có những
người đã tu tập nhiều năm, thường không hiểu và nhầm lẫn về nó. Thật khó khi
được sinh ra là một con người. Còn khó hơn nữa nếu sinh ra là một con người với
cơ hội được gặp Phật pháp đích thực. Vì vậy hôm nay ta sẽ làm sáng tỏ cho các
con về giáo pháp liên quan đến câu hỏi “Thế nào là tu tập?”
Điều cốt lõi của học hỏi Phật
giáo nằm ở việc thực hiện những gì ta học được trong quá trình tu tập. Chúng ta
sử dụng nhân duyên tốt và xấu như là các đối tượng của nhận thức. Vì vậy trước
hết ta phải hiểu thế nào là tu tập. Tu tập nghĩa là trau dồi sự tăng trưởng
những nghiệp tốt và trau dồi sự xa lánh những nghiệp xấu. Tu tập là trau dồi
việc làm tăng lên những duyên nghiệp tốt, trồng những nhân tốt và gặt những quả
tốt. Nó có nghĩa là tránh làm tăng lên của những duyên nghiệp xấu, không trồng
những nhân xấu và tránh việc gặt hái những quả xấu. Nhưng chữ tu tập còn có ý nghĩa rộng hơn. Trước tiên, chúng ta
phải hiểu thế nào là tu tập.
Phải có điều gì đó mà người tu
tập có thể dựa vào. Nếu không có cái để dựa vào, việc tu tập của các con rất dễ
trở thành lối tu tập lầm lạc, ngoài Phật giáo, ví như việc tu tập các tín ngưỡng
ma quỉ sẽ trau dồi hành vi của ma quỉ. Sự tu tập các tín ngưỡng Phật giáo sẽ
trau dồi hành vi của các vị Phật. Vì vậy, phải có điều gì đó để người tu tập
trông cậy vào. Phải có các khuôn mẫu để người tu tập có thể dùng để chiêm nghiệm
và dựa vào.
Mọi tôn giáo khác đều tán
thành việc tiêu trừ những điều xấu, phát triển điều tốt, hạn chế ích kỷ và làm
lợi ích cho những người khác. Người tu tập không thể chỉ dựa vào những điều này
trong quá trình tu tập của mình mà không hiểu mục đích của Phật giáo. Chỉ những
điều đó thì không phải sự thực hành của đạo Phật thực sự. Bởi vì, trong sự tu
tập của chúng ta, điều chúng ta dựa vào chính là Đức Phật. Sự giác ngộ hoàn hảo
của Đức Phật là hình mẫu cho sự tu tập của chúng ta. Chúng ta sử dụng ba nghiệp
của thân, khẩu, ý để làm theo tất cả mọi điều giống như Đức Phật. Vì vậy chúng
ta giữ mình tránh xa những nghiệp không trong sạch dựa trên ảo tưởng và những
hành vi xấu ác. Vì vậy chúng ta liên tục giữ mình tránh xa những gì xấu ác. Nhờ
việc không can dự vào những gì xấu ác, ba nghiệp của chúng ta không tạo thêm
những nhân xấu. Thêm vào đó, chúng ta phải thực hiện tất cả những nghiệp tốt.
Ngay cả một suy nghĩ tử tế cũng là một thứ chúng ta cần làm tăng lên và không
bao giờ để giảm đi. Chúng ta cần làm tăng trưởng những mối liên hệ nghiệp tốt,
những nhân tốt, và hành động tốt hàng ngày. Nói đơn giản, chúng ta phải luôn
luôn tránh xa những gì xấu ác và tích lũy những gì tốt đẹp.
Tại sao có thể nói chúng ta
phải tránh xa những nghiệp xấu ác mà không thể nói chúng ta phải tiêu trừ những
nghiệp xấu ác? Trong chân lý của Phật giáo, có nói rằng luật nhân quả không bao
giờ có thể chối từ được. Nhân và quả không thể tiêu diệt được. Nếu nói rằng có
thể tiêu diệt được thì đó là một cái nhìn hạn hẹp. Vì vậy chúng ta chỉ có thể
xây dựng một bức tường của nghiệp tốt, giống như xây dựng một bức tường bảo vệ.
Bức tường của nghiệp tốt này có khả năng ngăn chặn chúng ta khỏi những nghiệp
xấu.
Vì vậy, chỉ bằng việc học hỏi
từ Đức Phật, trau dồi cách hành xử của Đức Phật và cuối cùng trở thành một vị
Phật chúng ta mới có thể thực sự được giải phóng khỏi nghiệp (nhân và quả) đã
trói chúng ta vào vòng luân hồi. Nhân quả vẫn tồn tại khi một người trở thành
một vị Phật. Tuy nhiên, nhân quả không ảnh hưởng tới một vị Phật. Ví dụ, khi vị
Phật thấy những dãy núi gươm và biển lửa ở cõi địa ngục. Núi gươm và biển lửa
vẫn tiếp tục tồn tại như một phương tiện tột cùng đau đớn cho những chúng sinh
chịu sự trừng phạt của nghiệp báo. Khi vị Phật bỗng nhiên nhảy vào những núi
gươm biển lửa này để chịu khổ thay cho những chúng sinh khác, núi gươm và biển
lửa ngay lập tức biến thành ao sen đầy nước cam lồ. Chúng chuyển hóa sang một
trạng thái tuyệt vời. Đối với một vị Phật, tất cả những duyên nghiệp xấu ác trở
thành sự biểu hiện của nghiệp tốt. Không chỉ không còn khổ đau, thay vào đó là
một sự biểu hiện của hạnh phúc lớn lao.
Tu
tập là để thoát khỏi vòng luân hồi, giải phóng các con khỏi tất cả
những đau khổ, trở thành một bậc thánh và kiên trì cho đến khi các con trở thành
một vị Phật. Để thoát khỏi vòng luân hồi, chúng ta cần tạo ra một tâm từ bỏ (một
tâm quyết định rời vòng luân hồi), một tâm xác tín, một tâm với những lời nguyện
không thể lay chuyển, một tâm tinh tấn và một tâm bồ đề của Đại thừa. Tất cả
những trạng thái thực sự xuất phát ra từ những tâm này dựa vào và đặt nền tảng
trên chính kiến. Không có chính kiến, tất cả những trạng thái của tâm sẽ bị đảo
ngược và bối rối. Nói cách khác, các con sẽ không
kinh nghiệm được bất kỳ hiệu quả ích lợi nào từ việc tu tập nếu thiếu chính
kiến.
Ví dụ nếu các con muốn thực
hành bồ đề tâm trước, các con sẽ không thành công. Nó sẽ dẫn đến một bồ đề tâm
trống rỗng và ảo tưởng, một trạng thái bị lừa dối và sai lầm của tâm. Bởi vì tâm
bồ đề phải được đặt nền tảng dựa trên tâm từ bỏ. Nghĩa là các con phải có một
tâm thực sự quyết tâm đạt được sự giải thoát, đạt được sự thành tựu về pháp và
thoát khỏi mọi đau khổ của luân hồi. Các con phải hiểu sâu sắc rằng vòng luân
hồi thực sự đau đớn không thể nào miêu tả hết. Không chỉ các con chịu khổ đau mà
tất cả chúng sinh trong sáu cõi luân hồi, mỗi chúng sinh mà chúng ta coi là cha
và mẹ, đều chịu khổ đau như vậy trong trạng thái đau đớn của vô thường. Chỉ khi
các con muốn giải thoát chính mình ra khỏi đau khổ các con mới thực sự tu tập
cho chính các con. Chỉ khi đó các con mới thực hiện những hạnh Bồ tát để làm lợi
lạc cho các con và người khác. Chỉ khi đó bồ đề tâm mới được phát khởi.
Tuy nhiên, sẽ là một lỗi lầm
nếu các con bắt đầu từ một tâm từ bỏ. Điều đó không tuân theo trình tự đúng đắn
của việc tu tập. Nó sẽ tạo ra một dạng mong muốn lý thuyết, không thiết thực để
thoát khỏi vòng luân hồi và một trạng thái tự lừa dối, tự bối rối của tâm. Trong
trường hợp này, các con không thể tạo nên một trạng thái đích thực của tâm quyết
định thoát khỏi vòng luân hồi.
Vì vậy, nếu các con muốn trạng thái thực này của tâm quyết định rời
luân hồi, đầu tiên các con phải hiểu về vô thường. Bước tiếp theo là có
một tâm xác tín. Các con cần tin chắc vào sự đau khổ của luân hồi, vì nó có
nguồn gốc từ vô thường. Chỉ khi có một tâm xác tín các con mới sợ sự đau khổ gây
ra bởi vô thường và đạt đến một trạng thái tâm thực sự sợ vô thường. Khi đã đạt được trạng thái tâm thực sự sợ vô thường, tâm xác
quyết muốn thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử sẽ phát triển ngày một mạnh mẽ.
Một cách tự nhiên, trạng thái tâm quyết rời bỏ vòng luân hổi sinh tử sẽ
đi vào trạng thái thực sự sợ vô thường. Nếu những chúng sinh không hiểu mọi pháp
có tính điều kiện trong vũ trụ đều vô thường, nếu họ không hiểu sự đau khổ của
vô thường và luân hồi, họ không thể tạo ra một tâm xác quyết để hình thành những
suy nghĩ muốn thoát khỏi vòng luân hồi. Nếu như các con không bao giờ nghĩ về
việc rời khỏi vòng luân hồi, các con sẽ không trau dồi gì cả, các con cũng không
muốn học đạo Phật. Những người không học đạo Phật không hề có mong muốn thoát
khỏi luân hồi. Làm sao một người không học đạo Phật có được tâm xác quyết rời
luân hồi? Vì vậy, các con không thể trau dồi một tâm xác quyết rời khỏi luân
hồi. Cũng như ngay từ bước đầu tiên, các con sẽ không đi vào đạo Phật nếu không
có tâm hiểu vô thường (Thực sự khởi lên cảm giác sợ vô thường và thực sự khởi
lên trạng thái sợ vô thường). Ngay cả nếu các con trở thành Phật tử, các con sẽ
không có được mức độ sâu sắc của việc tu hành đúng đắn.
*
Để hiểu được thế nào là tu
tập, các con phải hiểu tám cái nhìn đúng đắn cơ
bản liên quan đến học đạo Phật và tu tập.
Đầu tiên là ý thức về vô
thường.
Thứ hai là tâm xác tín.
Thứ ba là tâm từ bỏ (tâm quyết
định rời khỏi vòng luân hồi).
Thứ tư là tâm với những lời
nguyện đúng đắn.
Thứ năm là tâm tinh tấn.
Thứ sáu là giới luật.
Thứ bảy là thiền định.
Thứ tám là bồ đề tâm.
Nhận ra tám pháp này và thực hiện chúng với chính kiến là
thực tập Phật pháp đúng đắn. Tám cái nhìn đúng đắn cơ bản này, là điều
không thể thiếu được với người tu tập, và không được làm sai trình tự.
Tất cả quả có được từ tâm ý
thức về vô thường là nhân của tu tập.
Tất cả quả có được từ tâm xác
tín là nhân của sự kiên định không thay đổi.
Tất cả quả của tâm từ bỏ là
nhân của việc giải thoát.
Tất cả quả từ tâm của những
lời nguyện đúng đắn là nhân của sự tiến bộ bền vững liên tục.
Tất cả quả từ tâm tinh tấn là
nhân của những lợi ích gia tăng.
Tất cả quả có được từ việc
tuân theo giới luật là nhân của việc tu tập đúng hướng.
Tất cả quả có từ thiền và
chính định là nhân của trí huệ.
Tất cả quả của bồ đề tâm là
nhân dẫn đến việc trở thành một vị Bồ tát.
Tám cái nhìn đúng đắn căn bản
này là nền tảng của tu tập, giải thoát và thành tựu trong pháp. Nếu như gốc rễ
không đúng, tu tập không thể được thành lập. Vì vậy, tu tập không thể sai trình
tự. Do đó tham gia vào tám bước căn bản của tu tập phải được hướng dẫn bởi các
chính kiến. Nghĩa là được hướng dẫn bởi cách hiểu đúng và cách nhìn đúng, các
con phát triển sự tu tập đúng đắn bằng việc đi qua
tám bước cơ bản này theo đúng thứ tự của nó. Đó chính là tu tập. Trong
sự tu tập của các con, các con phải liên tục đưa bồ đề tâm vào thực hành. Bởi bồ
đề tâm là nền tảng để trở thành một vị Bồ tát.
Theo như sự diễn giảng của đức
Phật về pháp, ý nghĩa thực sự của bồ đề tâm là: đó là nguyên nhân tất yếu dẫn
đến việc ta trở thành một vị bồ tát. Bất cứ ai đi trên các con đường giác ngộ
cuối cùng sẽ gặt quả giác ngộ. Ý nghĩa rộng của bồ đề tâm bao gồm tất cả pháp
đại thừa liên quan đến việc giải cứu chúng sinh bằng tâm từ bi vĩ đại và nguyên
nhân dẫn đến các mức độ giác ngộ của một Bồ tát.
Tuy nhiên, bởi sự không đủ
phước đức của chúng sinh, một số ý nghĩa đầy đủ vốn có của Phật pháp đã bị thất
lạc trong quá trình truyền lại giữa các thế hệ. Đặc biệt trong thời Mạt Pháp
này, nghiệp của chúng sinh trong ba cõi của vũ trụ giống như một đại dương đầy
sóng gió, thật khó cho chúng linh để có thể gặp được Phật pháp đích thực. Điều
này cũng giống như một các con rùa mù bơi trong biển nổi lên và tra cổ đúng vào
một cái vòng trên một tấm gỗ đang trôi nổi. Thực vậy, hiện giờ cực khó để có thể
gặp được Phật pháp hoàn hảo. Kết quả là, ý nghĩa của bồ đề đã bị giảm bớt. Nó đã
bị giảm liên tục từ nghĩa rộng xuống nghĩa hẹp của pháp bồ đề tâm.
Có hai dạng của tâm bồ đề. Bồ
đề tâm với nghĩa cao quý và bồ đề tâm với nghĩa thế tục. Bồ đề tâm với nghĩa
thông thường có thể được chia thành “bồ đề tâm nguyện (lời thề)” và “bồ đề tâm
hạnh (hành động).” Cho dù đó là bồ đề tâm cao quý hay bồ đề tâm thông thường,
nếu như các con được hướng dẫn bởi ‘hai tập hợp’ của bảy nhánh của bồ đề tâm, đó
chính là bồ đề tâm cao nhất, tuyệt vời nhất và đầy đủ nhất.
Mỗi chúng sinh trong sáu cõi
của luân hồi sống trong tam giới của hiện hữu đều có quyền tu dưỡng bồ đề tâm.
Tuy nhiên, phần lớn chúng sinh không có đủ các điều kiện về nghiệp, do đó họ
thực hành một phần nhỏ, rất hạn chế của pháp bồ đề tâm. Và kết quả là, họ thường
dung dưỡng những cách hiểu sai lầm, chẳng hạn như chỉ những ai có tâm giác ngộ
mới có thể thực hành bồ đề tâm và bồ đề tâm chính là trạng thái pháp thân của
giác ngộ. Tất nhiên, chúng ta không từ chối những phần đã tồn tại này của bồ đề
tâm. Tuy nhiên, những nhận thức này hạn chế việc thực hành pháp bồ đề tâm với
những người chưa có tâm giác ngộ. Quan trọng hơn, bồ
đề tâm không phụ thuộc vào tâm giác ngộ hay chưa giác ngộ. Bồ đề tâm là
sức mạnh của những thề nguyện từ lòng đại bi bởi chúng sinh học đạo Phật ở bất
cứ cõi nào trong sáu cõi luân hồi trong tam giới của vũ trụ, cũng như từ sức
mạnh của những lời nguyện từ lòng đại bi của những bậc thánh trong cõi pháp
giới. Bồ đề tâm là các hoạt động thực sự dựa trên lòng đại bi muốn giúp đỡ chúng
sinh để trở thành Phật hoặc Bồ tát. Đó là tâm của tình thương theo nghĩa thiêng
liêng mà cả những sinh linh chưa giác ngộ, đã giác ngộ hoặc những vị thánh hay
người thường đều có.
Với bồ đề tâm, những bậc đã
giác ngộ sử dụng trạng thái giác ngộ của phẩm hạnh và thực chứng, của những thực
hành đúng đắn và sự truyền bá chính pháp để dạy và giác ngộ chúng sinh để họ trở
thành các vị Phật. Với bồ đề tâm, những người chưa giác ngộ thề nguyện với lòng
đại bi rằng chúng sinh và chính họ sẽ cùng nhau thành tựu trong pháp và đạt được
giải thoát. Họ giúp những người khác đi vào các con đường chính pháp của Phật.
Với những người như vậy, pháp bồ đề tâm là đức hạnh của việc giúp đỡ những người
khác thành tựu trong pháp. Bởi vì họ làm lợi cho người khác, họ sẽ nhận được lợi
ích. Vì vậy họ tăng cường những nhân để dẫn dắt họ trở thành Bồ tát.
Sự biểu hiện của bồ đề tâm
được thể hiện qua những thực hành thực tế liên quan đến ba nghiệp, mà sự thực
hành là phản chiếu của lòng đại bi. Bất cứ người tu tập thực sự nào, không kể họ
là người thường hay bậc thánh, đều có quyền phát khởi bồ đề tâm và nên phát khởi
bồ đề tâm. Bởi vì bồ đề tâm không phải là tâm giác ngộ mà chỉ những bậc thánh
mới sở hữu. Thực tế đó chính là những hành động dựa trên lòng đại bi. Đó là sự
gieo những nhân dựa trên lời thề nguyện rằng họ và những người khác trở nên giác
ngộ. Bồ đề tâm không chỉ bao gồm mười phẩm tính tốt, bốn trạng thái tâm vô
lượng, sáu ba la mật (hạnh hoàn hảo), và tứ
nhiếp pháp của Bồ tát (bốn phương
pháp mà bồ tát sử dụng để tiếp cận và cứu giúp chúng sinh). Hơn thế, nó bao gồm
toàn bộ tam tạng kinh điển, toàn bộ giáo huấn bí mật, tất cả các pháp truyền
khẩu, qua tai hoặc qua tâm để đem đến các hành vi từ bi rộng lớn, phù hợp với
pháp, đem lại lợi ích và cứu giúp chúng sinh.
Vì vậy, bồ đề tâm chính là
chân lý tối thượng theo nghĩa rộng. Với một vị Phật, bồ đề tâm là ba thân, là
trí tuệ hoàn hảo được tổng kết trong tứ diệu đế, là tâm của Vô thượng chánh đẳng
chánh giác. Với một vị Bồ tát, bồ đề tâm là lan
truyền pháp và làm lợi cũng như cứu giúp chúng sinh bằng lòng đại bi.
Với một người đã giác ngộ, bồ đề tâm là không bám
chấp vào những thuộc tính hay đặc tính của sự vật và không lạc vào sự phù phiếm
của trí óc hay sự tạo dựng các khái niệm. Đây là bản tính nguyên thủy
của họ. Tính Không đích thực của bản tính nguyên thủy chính là sự hiện hữu tuyệt
vời. Đó là chân lý tuyệt đối của mọi pháp có tính điều kiện. Chân lý này không
sinh ra hay mất đi. Với một người bình thường, bồ đề tâm là sự từ bi giúp đỡ những người khác và thề nguyện rằng họ sẽ
học đạo Phật và đạt được giải thoát.
Các con phải có cái nhìn về vô
thường trước khi các con có thể phát khởi bồ đề tâm. Các con phải hiểu về sự vô
thường và đau khổ liên quan tới chính các con và những chúng sinh khác đang
trong vòng luân hồi và vì vậy tạo ra một cách nhìn của sự tỉnh thức, một tâm ý
thức về vô thường. Sau đó các con sẽ thề để thoát khỏi luân hồi. Kết quả là các
con sẽ tạo ra một tâm xác quyết rời khỏi vòng luân hồi. Các con sẽ nói “Tôi
quyết tâm rời bỏ”. Các con cũng sẽ muốn chúng sinh trong sáu cõi, những người
như cha mẹ các con, rời bỏ nó. Các con hiểu rằng vòng luân hồi như một biển
đắng, rất khó để tồn tại, và cực kỳ đau đớn. Bởi cái nhìn xác quyết này, các con
sẽ tạo ra một nỗi sợ hãi mạnh mẽ và cấp bách. Các con sẽ tìm cách để giải thoát
ngay lúc này.
Nhưng các con hiểu rằng thực
hành những hành động của Bồ tát là cách duy nhất để các con có thể nhanh chóng
đạt được giải thoát khỏi vòng luân hồi. Do đó các con sẽ nguyện trở thành các vị
Bồ tát. Các con sẽ tìm cách để nhanh chóng giác ngộ chính các con và người khác.
Một cách tự nhiên, các con sẽ tạo ra một tâm bi mẫn lớn lao. Kết quả là, hạt
giống của giác ngộ đã được gieo. Sự khởi phát của tâm bồ đề dựa trên một tâm bi
mẫn lớn lao. Như đức Phật nói ”Nước của đại bi tưới hạt giống bồ đề. Kết quả là
cây bồ đề sẽ có cành lá sum suê và sẽ ra rất nhiều quả.” Vì vậy, bồ đề tâm sẽ tự
nhiên được hình thành. Bồ đề tâm là nhân dẫn đến việc trở thành một vị Bồ tát
đại thừa. Các con sẽ có những cái nhìn trong sáng và đúng đắn và hiểu biết về
việc tu tập. Các con sẽ tự nhiên nhận ra tính không như lai tạng, trạng thái của
pháp thân. Với bồ đề tâm, các con tu dưỡng các hành vi của giác ngộ và đi vào
các địa (giai đoạn) của một vị Bồ tát.
Tu dưỡng bồ đề tâm yêu cầu sự
thực hành. Tu tập bồ đề tâm không phải là chỉ tụng niệm nghi lễ, thề nguyện sáo
rỗng, hoặc thực tập quán tưởng. Trong sự tu tập bồ đề tâm, phần quan trọng nhất
là tự mình tra xét sâu sắc điều sau: “Thân thể tôi là vô thường, là thay đổi
từng sát na, và sức lực ngày càng giảm sút, già đi và chết. Tôi so sánh tại sao
mặt tôi đã già đi sau hơn mười năm, sau hơn bốn mươi năm, và sau hơn bảy mươi
năm. Mức độ già lão của tôi đã thay đổi. Tôi sẽ sớm vào tuổi già, ốm yếu và chết
rồi lại tiếp tục lăn lộn trong vòng luân hồi nơi tôi sẽ trải nghiệm khổ đau. Tôi
cũng quán sát niềm vui ngây thơ, mới sinh, tươi tắn và cái hình thức sống động
khi tôi là một đứa trẻ. Tôi quán sát tôi không còn bề ngoài trẻ trung đó nữa.
Mặt và da tôi đã già. Sức lực tôi đã giảm. Tôi hay ốm. Đặc tính của tuổi trẻ đã
biến mất. Sức mạnh của vô thường sẽ kết liễu cuộc đời tôi. Tất cả bà con họ hàng
và bằng hữu của tôi sẽ lần lượt ra đi. Giống như một giấc mơ, nó sẽ sớm kết
thúc. Tâm tôi tràn đầy sợ hãi. Với một tâm dứt khoát, tôi hành động theo các
giới luật, thực hành theo pháp và thâm nhập bồ đề tâm bởi hai tập hợp của bảy nhánh pháp bồ đề tâm: Pháp Bồ đề tâm
Đại bi cho tất cả chúng sinh như mẹ mình và Pháp Bồ đề tâm Bồ tát
hạnh.”
Khi thực hành Bồ đề tâm Đại bi
cho mẹ mình, các con phải khởi lên lòng bi mẫn lớn lao và tu tập như sau: (1)
tri mẫu, (2) tri ân, (3) báo ân, (4) từ ái, (5) từ bi, (6) xả tham, (7) đoạn
chấp. Khi thực hành sự tu tập này, tất cả nên nhớ thực hành những điều sau cho
chính mình:
1.
Tri mẫu (hiểu ai là mẹ mình): Tôi
hiểu sâu sắc rằng tất cả mọi chúng sinh trong sáu cõi của luân hồi trong tam
giới của vũ trụ đều là cha và mẹ của tôi từ vô thủy trôi lăn trong vòng luân hồi
sinh tử.
2.
Tri ân: Tôi nên giữ một cách sâu sắc trong tâm rằng tất cả cha mẹ tôi
(tất cả chúng sinh) đang trong vòng sinh tử đã từ vô thủy đã sinh tôi ra, nuôi
dưỡng, yêu thương và già yếu đi vì tôi. Sự tử tế này của họ dành cho tôi sâu
nặng như núi sông. Tôi nên giữ trong tâm sự tử tế của họ. Tôi sẽ xem những đau
khổ của cha mẹ tôi (chúng sinh) là đau khổ của tôi.
3.
Báo ân: Tôi hiểu rằng cha mẹ tôi
(chúng sinh) đã dành cho tôi mọi thứ. Hiện giờ họ đang trôi lăn và lạc lõng
trong sáu cõi của luân hồi và chịu đựng vô số khổ đau. Tôi quyết tâm hành động
để giác ngộ chính mình và người khác, cứu giúp và giải phóng cho cha mẹ tôi để
báo đáp lại sự tử tế của họ dành cho tôi.
4.
Từ ái: Trong mọi lúc, bằng hành
động của ba nghiệp, tôi yêu thương và tử tế với tất cả chúng sinh, những người
đã từng là cha mẹ của tôi. Tôi cầu cho họ có một cuộc sống dài lâu không bệnh
tật, giàu có, phước đức và hạnh phúc.
5.
Từ bi: Cả ngày lẫn đêm, tôi liên
tục cầu xin tất cả chư Phật và Bồ tát ban phước cho những cha mẹ tôi để họ có
thể giải thoát chính họ khỏi các loại khổ đau, gặp gỡ và thực hành Phật pháp, tự
giải thoát họ khỏi sự đau khổ của vòng luân hồi.
6.
Xả tham (từ bỏ lòng tham): Tôi không giữ một bám luyến nào trong tâm về
mọi thứ tôi làm để lợi ích cho chúng sinh, những người đã từng là cha mẹ tôi.
Tôi tu tập sự không bám chấp vào tất cả những hành động tốt về thân, khẩu, ý của
mình. Vì vậy, tất cả hành động tốt của tôi trở nên tự nhiên và tự phát, vì bản
tính tự nhiên của tôi vốn là tốt đẹp. Tôi không làm điều tốt một cách có chủ ý.
Tôi làm điều tốt và sau đó liền quên chúng đi.
7.
Đoạn chấp (Cắt đứt bám chấp): Trong
sự thực hành của mình, khi tôi trau dồi mọi loại thiện hạnh (hành vi tốt đẹp) và
làm lợi lạc cho những cha mẹ của tôi (tất cả chúng sinh), tôi không nên bám chấp
vào bất cứ pháp nào. Tôi cần cắt đứt mọi bám chấp vào
tự ngã. Nhận ra trạng thái của tính Không, tôi nhận thức và trải nghiệm
niềm hạnh phúc tuyệt vời đến từ chính định. Dù thực
hành pháp, tôi không bám chấp vào pháp. Tôi không chủ định thoát khỏi những suy
nghĩ lầm lạc. Tôi không chủ định đi tìm sự thật. Không đến và không đi, hân
hoan, sáng tỏ, và không suy nghĩ, tôi bình an như nước lặng. Tất cả mọi thứ, kể
cả chính tôi, đều vốn trống rỗng, không có thực.
Các điều kiện hỗ trợ để đem bồ
đề tâm vào thực hành phải dựa trên chính kiến. Chúng ta hỗ trợ cho chúng sinh
khi họ thực hiện những việc làm tốt, nhưng chúng ta không hỗ trợ hoặc giúp chúng
sinh trong việc làm xấu của họ. Chúng ta chỉnh sửa hành vi của họ để họ có thể
làm những việc tốt. Như thế, chúng ta làm tất cả những việc tốt để lợi ích cho
chúng sinh. Chúng ta gieo những hạt giống tốt dẫn đến lợi lạc cho chúng sinh.
Theo đó, chúng ta thực hiện bảy nhánh của Pháp Bồ tát hạnh. Chúng ta giúp chúng
sinh thực hiện những việc tốt và giúp tăng những nhân lành của họ. Chúng ta giúp
chúng sinh giảm việc tích tập những nghiệp xấu và giúp họ tránh xa những nhân
dữ. Bảy nhánh của Pháp Bồ tát hạnh như sau:
Nhánh thứ nhất là bồ đề tâm
“Tôi và người khác bình đẳng”.
Nhánh thứ hai là bồ đề tâm
“Hoán đổi giữa tôi và người khác”.
Nhánh thứ ba là bồ đề tâm “Làm
lợi lạc cho người khác trước khi làm lợi cho tôi”.
Nhánh thứ tư là bồ đề tâm “Hồi
hướng công đức”.
Nhánh thứ năm là bồ đề tâm
“Bảo vệ pháp không sợ hãi”.
Nhánh thứ sáu là bồ đề tâm
“Dẫn dắt hiệu quả mọi người thực hành đúng đắn”.
Nhánh thứ bảy là bồ đề tâm “Từ
bỏ bản thân để giúp người khác tạo nghiệp tốt”.
Khi thực hành sự tu tập này,
mọi người nên thực hiện những điều sau:
1.
Bồ đề tâm “Tôi và người khác bình đẳng”: Khi có sự mâu thuẫn về quyền
lợi giữa tôi và người khác, tôi sẽ tránh không mắc vào thái độ thù ghét, áp bức,
tham lam, kiêu ngạo, chê bai. Tôi không được nhấn mạnh vào lợi ích của chính
mình. Tôi cần đối xử bình đẳng với mình và mọi người.
2.
Bồ đề tâm “Hoán đổi giữa tôi và người khác”: Tôi muốn gánh chịu những
đau khổ của mọi chúng sinh. Tôi cho người khác tất cả niềm vui và phước đức của
tôi để họ thoát khỏi đau khổ và có được hạnh phúc.
3.
Bồ đề tâm “Làm lợi cho người khác trước khi làm lợi cho tôi”: Khi những
chúng sinh khác và tôi chịu đau khổ, tôi muốn giúp họ thoát khổ trước khi tôi
thoát. Khi những chúng sinh khác và tôi được hạnh phúc. Tôi muốn mọi người hạnh
phúc hơn tôi.
4.
Bồ đề tâm “Hồi hướng công đức”: Tôi hồi hướng tới tất cả chúng sinh mọi
công đức và thành tựu tôi tu tập được với hi vọng họ sẽ thoát khỏi khổ đau và
đạt được giải thoát.
5.
Bồ đề tâm “Bảo vệ pháp không sợ hãi”: Khi những tinh linh ma quỷ muốn
hại Phật pháp, dẫn chúng sinh phá giới và làm hại những chúng sinh dẫn đến sự
đau khổ của chúng sinh, tôi sẽ giữ chính kiến, không sợ hãi sức mạnh ma quỉ của
những tinh linh này, và sẽ tiến lên phía trước để bảo vệ Phật pháp và trí tuệ mà
từ đó chúng sinh sẽ đạt được giải thoát.
6.
Bồ đề tâm “Dẫn dắt hiệu quả mọi người thực hành đúng đắn”: Bởi chúng
sinh mang nặng những nghiệp chướng từ vô thủy, bởi họ vô minh và tạo ra nhiều
nghiệp tiêu cực, sẽ có lúc họ không ăn năn hoặc thay đổi cách hành xử cho dù tôi
đã động viên họ tích cực. Trong trường hợp này, tôi sẽ sử dụng những pháp đối
trị uy lực để dẫn dắt những người này đến các con đường đúng đắn của pháp và
những hành động tốt đẹp, lợi ích.
7.
Bồ đề tâm “Từ bỏ bản thân để giúp người khác tạo nghiệp tốt”: Khi sự
chứng ngộ của người khác cao hơn của tôi hoặc khả năng cứu giúp chúng sinh tốt
hơn tôi, tôi sẽ nhường cho họ để những chúng sinh có thể có lợi nhiều hơn. Khi
đó, không một chút lưỡng lự, tôi nhường cho họ. Điều này làm tăng cường cho
những điều tốt xảy ra.
Bồ đề tâm, một phần của sự tu
tập, là nguồn gốc của sự thành tựu trong thực hành pháp và vô cùng quan trọng.
Ta sẽ đưa một ví dụ liên quan đến một vị rinpoche và một vị thầy giảng pháp. Vị
rinpoche này đã tu tập hơn 30 năm. Ông đã nhận hơn một nghìn lễ quán đảnh bí
mật. Ông ta chủ yếu thực hành pháp Đại Toàn Thiện (Dzogchen) của dòng Ninh Mã
(Nyingma). Ông có thể giảng
Phật pháp trong tam tạng kinh điển rất giỏi. Tuy nhiên, ông ta không có một pháp
lực thực sự nào. Một người khác, một vị thầy giảng pháp,đã là một tu sĩ trong
hơn 20 năm. Ông ta tuân thủ nghiêm ngặt các giới luật. Ông ta có thể giảng giải
giỏi theo kinh (những bài thuyết pháp của đức Phật), luật (các giới luật) và
luận (những lời luận giảng về lời dạy của đức Phật). Ông ta thực hành những pháp
quan trọng và to lớn của Mật tông Phật giáo Tây
Tạng và là tu viện trưởng của một tu viện nổi tiếng. Giống như vị rinpoche, ông
nổi tiếng trong việc giảng giải pháp. Tuy nhiên, ông ta cũng không có khả năng
thể hiện một sự chứng ngộ thực sự nào.
Ta nói với họ rằng cho dù họ
thực hành bất cứ một pháp môn to lớn nào của Mật tông thì vẫn giống như
xây lâu đài trên cát. Một lâu đài như vậy không thể xây lên được. Ta nói với họ
rằng cho dù họ có được một vài thành công tạm thời trong thực hành, nhưng nó sẽ
nhanh chóng biến mất. Ta yêu cầu họ thực hành xả bỏ những kiến thức và cách hiểu
biết theo thói quen bởi đó là những chướng ngại. Ta yêu cầu họ thực hành “Thế
nào là tu tập?”
Sau khi họ thực hành pháp này
trong tám tháng, ta yêu cầu họ thêm vào thực hành pháp Đại Toàn Thiện (Dzogchen) và những pháp
khác. Một điều kỳ diệu đã xảy ra sau đó. Trong cuộc kiểm nghiệm sự tiến bộ, vị
rinpoche đã sử dụng Ấn Kim Cương Mãnh Lôi Thủ Chân Pháp và thể hiện năng lực vĩ
đại. Sự thực chứng thực sự đã được thể hiện. Tuy nhiên, vị thầy giảng pháp vẫn
chưa thể hiện được bất kỳ năng lực nào. Ông ta tiếp tục pháp tu tập này. Dưới sự
chỉ dẫn cẩn thận của ta về những điểm còn yếu kém, cuối cùng ông ta đã hiểu ra
tầm quan trọng của việc tu tập đích thực và bằng cách nào việc tu tập đích thực
đòi hỏi sự cống hiến thời gian và sức lực trong việc thực hành ba nghiệp. Cuối
cùng ông ta hiểu rằng không có chỗ cho sự trượt lui và thỏa hiệp. Ông ta tiếp
tục thực hành ba tháng. Trong một lần thử để đo khả năng thể hiện sự thực chứng,
năng lực của ông ta đã thể hiện một cách rõ rệt.
Như vậy, bất kỳ ai cũng có thể
tu tập theo cách này và thực hiện những thực hành theo đúng pháp sẽ có khả năng
có được Phật pháp đúng đắn. Một cách tự nhiên, họ sẽ phát triển trí tuệ. Họ sẽ
không tham gia vào những lý thuyết trống rỗng về Ngũ Minh. Thay vào đó, họ sẽ thể hiện trạng thái thực sự
của kết quả trong Ngũ Minh. Một người như vậy sẽ thực chứng “sự thể hiện của
hiện thực hoàn hảo (năng lực siêu nhiên)”, sẽ đạt quả bồ đề và đi vào địa của
một vị Bồ tát.
Những hành giả của mọi trường
phái Phật giáo nên tuân thủ các quy tắc này của tu tập và nên thực hành bồ đề
tâm. Nếu các con không tuân theo pháp của sự tu tập này theo đúng trình tự, các
con sẽ dễ dàng bị bối rối và lạc đường. Một pháp như vậy là chìa khóa cho những
cách thực hành tu tập.
Học hỏi những phương pháp thực
hành pháp là một vấn đề khác. Tất cả những kết quả ích lợi có được từ học pháp
đều dựa trên tu tập. Khi các con thực hiện nghiêm ngặt y theo đúng pháp, các con
sẽ tự nhiên thực chứng những phẩm hạnh và sẽ đạt đến trạng thái đích thực. Nếu
các con không có những quy tắc đúng để tu tập, pháp mà các con học sẽ trở thành
pháp dựa trên cái thấy sai lầm hoặc thậm chí pháp xấu xa của ma quỷ. Nếu các con
thực hiện đúng với pháp của sự tu tập như đã nói trong bài này, pháp các con học
sẽ là pháp tốt, các con đang tham gia thực hành Phật pháp. Tu tập cũng liên quan
đến mười phẩm tính tốt, bốn trạng thái không giới hạn của tâm (tứ vô lượng tâm),
sáu ba la mật (hạnh hoàn hảo), tứ nhiếp pháp của bồ tát (bốn cách các bậc Bồ tát
sử dụng để tiếp cận và cứu giúp chúng sinh), v.v…
Một vài đệ tử nghĩ rằng họ
biết tất cả những pháp quan trọng ta đã giảng giải hôm nay về tu tập. Họ sẽ
không nghiên cứu cẩn thận và thấm nhuần trọn vẹn vào cách nghĩ của họ sự tu tập
mà ta đã nói. Thế mà, cái mong ước họ chứa chấp trong tâm vẫn là học được pháp
vĩ đại để họ trở thành Phật trong chính đời này!
Với những ai có cách nghĩ như
vậy sẽ chỉ có những kiến thức hời hợt, sẽ rơi vào bối rối và sẽ lạc đường. Một
người như vậy sẽ không học được Phật pháp đích thực. Cho dù học thực hành pháp
vĩ đại, ví dụ như Đại Toàn Thiện (Dzogchen) của dòng Ninh Mã
(Nyingma), Tâm trong Tâm
của dòng Cát Cử (Kagyu), Đại Hoàn Hảo của Trí tuệ Tuyệt
Diệu của dòng Tát Ca (Sakya), Thời Luân Kim Cương của dòng Cách Lỗ (Geluk), tham thiền của
dòng Tổ sư thiền Phật giáo hiển thừa, tụng hồng danh đức Phật của dòng Tịnh độ,
pháp của dòng Duy thức, hoặc thiền chỉ và thiền quán của
Phật giáo nguyên thủy, họ sẽ không có được kết quả từ thực hành và sẽ không
thể chuyển hóa nhận thức của họ thành trí tuệ. Như thế, họ sẽ chỉ đi loanh quanh
trong trạng thái của một người bình thường. Họ sẽ không thể thể hiện một sự thực
chứng nào, mà nguồn gốc của nó là trí huệ của Mật thừa hay Hiển thừa Phật giáo.
Họ sẽ không thể thể hiện bất kỳ sự thành tựu nào trong Ngũ Minh. Họ sẽ chỉ có thể thể hiện như một người bình
thường thể hiện. Thậm chí họ có thể ngu ngốc tới mức chỉ nhớ được những lý
thuyết trong sách và nói về những lý thuyết trống rỗng, không có khả năng đem
những lý thuyết này vào thực hành. Một người như vậy không thể thực sự làm được
một điều gì. Cho dù họ có thể làm được một ít việc gì đó, họ cũng không thể vượt
qua những người là chuyên gia về những việc đó trong thế giới này
Hãy nghĩ về điều đó. Một người
như vậy có là hiện thân của Phật pháp? Lẽ nào trí huệ đến từ Phật pháp lại thấp
kém như vậy? Làm thế nào một người chưa phát triển trí huệ cao quý và vẫn còn
nhận thức của một người bình thường có thể sở hữu pháp thực sự để giác ngộ người
đó và những người khác? Tuy nhiên, nếu các con tham gia thực hành pháp theo đúng
những quy tắc của sự tu tập, các con sẽ nhận được Phật pháp đích thực, sẽ trở
nên thực sự giỏi giang trong hiển thừa và mật thừa Phật giáo, và có thể thể hiện
sự hoàn hảo trong Ngũ Minh. Như vậy chúng ta phải hiểu việc tu dưỡng chính là
nền tảng để học pháp, là nhân của giải thoát, là nguồn gốc của việc thực chứng
trạng thái linh thánh.
Hôm nay ta nói một cách ngắn
gọn về chủ đề thế nào là tu tập. Ta đã giảng giải về chủ đề thực hành đúng đắn
của bồ đề tâm, là một phần của tu tập. Ta không nói về những pháp khác. Có rất
nhiều điều khác để ta dạy các con. Tuy nhiên nếu ta nói về những giáo lý khác
trong cuốn sách này, nó sẽ không theo đúng giới luật và có thể dễ dàng tạo ra
những nghiệp xấu do hành động thiếu tôn trọng giới luật này. Vì vậy, ta hy vọng
tất cả những người học Phật giáo sẽ miệt mài nghiên cứu Tam tạng kinh điển và các giáo lý mật thừa hoặc nghe
những bài giảng đã được ghi lại của ta về pháp. Nếu như các con chăm chú lắng
nghe những bài giảng pháp này bằng cả trái tim, trong vòng mười ngày các con sẽ
đạt được một mức độ an lạc hoặc sự an lạc tuyệt diệu của giác ngộ vĩ đại. Nếu
các nhân duyên đã đầy đủ, các con sẽ trải nghiệm những kết quả ích lợi trong
toàn bộ đời sống hoặc thậm chí đạt được thành tựu lớn, giải thoát, và Phật
quả.
Bây giờ khi các con đã học về
pháp của sự tu tập này, các con có muốn thực hành nó? Bất kỳ ai khi tham gia vào
tu tập thực sự đều có thể trở nên hoàn hảo trong pháp và đạt được sự giải thoát
khỏi vòng luân hồi sinh tử. Tuy nhiên, chúng ta phải hiểu một cách rõ ràng điều
này. Cho dù các con đã đọc “Thế nào là tu tập?” và cho dù các con đã đọc tám
điều cơ bản của tu tập và hai tập hợp của bảy nhánh dựa trên cái thấy đúng đắn,
đó gọi là “đọc những sách vở liên quan đến thực hành”. Đó
không phải là tu tập. Nếu các con hiểu những nguyên tắc liên quan đến tu
tập, đó gọi là “hiểu lý thuyết về thực hành”. Đó cũng
không phải là tu tập. Nếu các con bắt đầu thực hiện pháp tu tập này theo
như đúng nội dung của nó, đó vẫn chưa phải là tu
tập. Đó gọi là “bước vào quá trình của tu tập”. Nếu các con cố gắng hết khả năng để áp dụng lòng bi mẫn lớn
lao tương ứng với pháp tu tập này, đó gọi là “tu tập thô”. Nó vẫn chưa phải là
tu tập đúng cách và đúng đắn. Nếu như các con không cần phải cố gắng
hết sức trong việc áp dụng lòng bi mẫn lớn lao, nếu như các con thực hiện hoàn
hảo một cách tự nhiên, không cố gắng tám
điều căn bản của tu tập và hai tập hợp của bảy nhánh theo như đúng pháp, thì đó
gọi là “tu tập”.
Tại sao ngay cả khi đã cố gắng hết sức để tu tập vẫn không
gọi là “tu tập” mà chỉ được gọi là “tu tập thô”? Bởi vì từ vô thủy tới nay, sức
mạnh của nghiệp và những chướng ngại của vô minh (thiếu hiểu biết) đã cản trở
người tu tập. Vì vậy, họ không thể từ bỏ được lòng tham (mong muốn ích kỷ), sân
(tức giận hay ác cảm), và si (bị đánh lừa). Họ không
thể từ bỏ sự bám chấp vào bản ngã. Điều này tạo ra sự chướng ngại dựa
trên các phiền não. Điều này cũng tạo ra sự chướng ngại bắt nguồn từ chính kiến
thức và thói quen hiểu biết của họ. Những chướng ngại về nghiệp này trùm lên hết
tất cả các chính niệm (suy nghĩ đúng đắn) của những hành giả này. Kết quả là,
quá trình áp dụng mỗi một điều trong những luật lệ tu tập này thật khó khăn cho
những hành giả này. Chính bởi vì những khó khăn này, họ chọn phương pháp sử dụng
sự cố gắng cao nhất để thực hiện việc tu tập. Sử dụng sự cố gắng hết sức theo
cách này giống như một hòn sỏi thô ráp từ trong ra ngoài chứ không phải một viên
đá quý đã được mài giũa và đánh bóng. Thực hiện một phần trong tám điều cơ bản
của sự tu tập và hai tập hợp của bảy nhánh mà không thực hiện những phần khác
cũng không được gọi là tu tập đúng đắn. Đó là lý do tại sao nó được gọi là “tu
tập thô” hay “tu tập không đầy đủ”.
Hiểu cặn kẽ các qui luật của
tu tập, không thực hiện chúng một cách ép buộc, và thực hiện tự nhiên tám điều
cơ bản của tu tập và hai tập hợp của bảy nhánh theo đúng như pháp chính là tu
tập đúng đắn, nó không bị bám chấp vào cái tôi và nó vượt qua các chướng ngại.
Đó là con đường Bồ đề (giác ngộ). Như vậy, mỗi ngày hành giả nên tự xem xét Bồ
đề tâm Lòng bi mẫn lớn lao cho tất cả chúng sinh như mẹ của tôi và Bồ đề tâm Bồ
tát hạnh. Họ nên chiêm nghiệm dựa trên hai tập hợp của bảy nhánh, tự hỏi mình
liệu họ đã thực hiện đúng với pháp hay chưa? Nếu như các con không thể thực hiện
những quy định theo đúng với pháp được giảng ở đây, nó thể hiện các con đã đi
vào trạng thái “tu tập thô”. Nếu như các con không thực hiện đầy đủ các quy định
này thì sự tu tập của các con là tu tập không đầy đủ. Các con sẽ không thể thành tựu trong pháp và được giải thoát
khỏi vòng luân hồi với sự tu tập không đầy đủ như vậy. Cho dù các con
có được một số thành tựu nhỏ, các con cũng không thể có được phước đức và trí
tuệ lớn, sức mạnh siêu nhiên và thực chứng Ngũ Minh.
Nếu như các con tự xem xét mỗi
ngày về hai tập hợp của bảy nhánh, và không thực hiện chúng một cách ép buộc, có
một lòng bi mẫn lớn lao, theo những điều tốt một cách tự nhiên, và thực hiện hai
tập hợp của bảy nhánh một cách tự nhiên và đúng với pháp, thì đó chính là tu tập
thực sự và thực hành đầy đủ. Các con sẽ dễ dàng có được sự giải thoát, trở thành
một bậc thánh và có được phước đức và trí tuệ. Theo đó các con sẽ có thể thực
chứng Ngũ Minh. Các con sẽ chắc
chắn đến địa của một vị Bồ tát. Thêm nữa, các con nên biết “đọc những sách vở
liên quan đến thực hành”, “hiểu lý thuyết của thực hành”, “bắt đầu thực hành” và
“thực hành thô” thì dễ. Thực hành hai tập hợp của bảy nhánh một cách hoàn hảo và
không bám chấp thì khó. Thực ra, khi các con bỏ được
sự bám chấp vào cái tôi, các con ngay lập tức đi vào sự tu tập đúng đắn đích
thực. Làm sao điều đó có thể khó được? Mọi người đều có thể làm được
nó!
Khi các con tự xem xét hàng
ngày, các con có thể sử dụng những bạn đồng tu mà các con quen biết, những người
các con chơi cùng, những người không tốt với các con, những duyên nghiệp tiêu
cực, bất cứ duyên hay người nào làm các con không hạnh phúc, hoặc những người
các con thấy khó có thể chơi cùng, những người không nói chuyện với các con hoặc
các con không nói chuyện cùng… như là đối tượng để tự xem xét. Các con phải dùng
họ như những đối tượng của sự thực hành, tự hỏi mình: ”Ngày hôm nay tôi đã hành
xử theo đúng với hai tập hợp của bảy nhánh và trong việc tôi chủ động thể hiện
thiện ý của tôi với những người này? Khi tôi chủ động đến gần người đó và họ tấn
công tôi bằng những lời gây phiền lòng, tôi có kiên nhẫn chịu đựng những sự xúc
phạm này và tấp tục tiếp cận họ để thể hiện thiện ý hay không?” Các con không
được giữ bất kỳ mối ác cảm nào do những lời nói và hành động gây phiền lòng, xúc
phạm gây ra. Nếu mỗi ngày các con thực hiện bồ đề tâm mà không nhụt chí, thực
hiện hai tập hợp của bảy nhánh qua ba nghiệp về hành động, lời nói, và suy nghĩ,
và thực sự tu dưỡng chính các con theo đúng như pháp theo một cách thực sự và cụ
thể, thì các con sẽ rất dễ học Phật pháp tối cao. Trong trường hợp như vậy, bồ
đề tâm và địa của một vị Bồ tát tự nhiên sẽ trở thành của các con. Đó chính là
tu tập.
*
Ta đã kết thúc bài thuyết pháp
về sự tu tập để lợi lạc cho mọi chúng sinh. Tuy nhiên, có một loại vấn đề sẽ gây
hại cho chúng sinh thường hay xảy ra. Ta đang nói đến vấn đề sử dụng danh của ta
để làm hại đến quyền lợi của chúng sinh. Ta muốn kêu gọi sự chú ý một lần nữa
tới vấn đề đặc biệt quan trọng này mà mọi người phải xem xét nghiêm túc.
Trên thế giới này, hiện có một
số vị pháp vương, những tôn giả, những rinpoche, những thầy giảng pháp và ngay
cả những cư sĩ đã tuyên bố họ là những người đi theo ta và được ta tin tưởng. Họ
có thể tuyên bố họ đại diện cho ta để xử lý một vấn đề nào đó. Họ có thể tuyên
bố họ mang theo một thông điệp nào đó từ ta. Hoặc họ có thể tuyên bố họ nói lại
lời ta. Trên thực tế, ta có những đệ tử trong cả hiển thừa và mật thừa Phật giáo
ở trong mỗi một dòng chính yếu. Cho dù địa vị của người tuyên bố những điều này
có cao quý và phẩm hạnh của họ có lớn lao thế nào đi nữa, không ai có thể đại
diện cho ta. Điều này áp dụng cho cả những vấn đề nhỏ nhặt!
Chỉ khi một người có một tài
liệu có mục đích cụ thể mà ta đưa cho họ trong đó nói rõ rằng họ đại diện cho ta
để xử lý một vấn đề nào đó, tài liệu đó có chữ ký và dấu vân tay của ta, và tài
liệu đó đi kèm với một băng video thì họ mới có thể đại diện cho ta trong việc
giải quyết vấn đề cụ thể ghi trong tài liệu đó. Nếu không như vậy, cho dù địa vị
của một pháp vương, tôn giả, rinpoche hoặc thầy giảng pháp có cao thế nào đi
nữa, sự giảng giải về pháp của họ không đại diện cho cái nhìn của ta và không
được coi như là tiêu chuẩn của cái hiểu đúng và nhìn đúng. Ta biết một cách
không định kiến rằng những bài giảng hoặc bài viết của ta là pháp đích thực. Bởi
vì những bài giảng và bài viết của ta thực sự đem lợi ích và giải thoát cho
chúng sinh. Thêm nữa, bất kỳ ai cũng không được sử dụng bất kỳ phương pháp nào
để thêm, bớt hoặc chỉnh sửa bài viết hoặc bài giảng của ta. Bất kỳ ai vi phạm
điều được nói trên đây chắc chắn là người với cái thấy sai lạc và là người đã
rơi vào các con đường xấu, cho dù địa vị người đó cao thế nào đi nữa.
Vì vậy, một người có thể đại
diện ta chỉ khi tất cả mọi người tự nhìn thấy một tài liệu có dấu tay và có
những bằng chứng rõ ràng dưới dạng một bản ghi âm hay băng video có ghi lời của
ta liên quan tới tài liệu đó. Nếu không, cho dù người đệ tử đó là ai, kể cả
những đệ tử có phẩm hạnh cao quý đã ở bên ta một thời gian dài, tất cả mọi điều
họ nghĩ, nói, làm, hoặc viết thì chỉ là hành động riêng của họ và hoàn toàn
không đại diện cho ta!
Read more: Thế nào là tu tập? | Phật pháp http://tuyenphap.com/Phat-phap/The-nao-la-tu-tap#ixzz1sLT1TGCE.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH.( MHDT ).18/4/2012.
No comments:
Post a Comment