Wednesday, 11 April 2012

THÁCH THỨC CỦA NHÂN LOẠI: PHÁT BIỂU VỀ CÁC TÔN GIÁO – Đức Đạt Lai Lạt Ma

THÁCH  THỨC CỦA NHÂN LOẠI: PHÁT BIỂU VỀ CÁC TÔN GIÁO
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch: Geshe Thupten Jinpa
 
đưc Đạt Lai Lạt Ma và Mạn Đà La
Chúng ta đã và đang thấy trong kỷ nguyên hiện đại những sự phát triển vượt bậc trong lĩnh vực phát triển vật chất.  Như một kết quả, có một sự cải thiện đáng kể trong đời sống của con người.  Tuy thế, cùng lúc ấy, chúng ta cũng cảnh giác rằng sự phát triển vật chất đơn thuần không thể trả lời cho tất cả những ước mơ của nhân loại.  Hơn thế nữa, khi sự phát triển vật chất đạt đến một giai đoạn cao và cao hơn nữa, đôi khi chúng ta thấy rằng nó mang theo một sự phức tạp nào đấy, kể cả gia tăng những rắc rối và thử thách cho chúng ta.  Do bởi sự kiện này, tôi nghĩ rằng tất cả những truyền thống tôn giáo trên thế giới có khả năng để cống hiến đến lợi ích và cát tường của nhân loại, và các tôn giáo cũng duy trì sự liên hệ của họ trong thế giới hiện đại.
Tuy nhiên, vì nhiều tôn giáo quan trọng của thế giới tiến triển theo lịch sử của loài người một thời gian dài, tôi hoàn toàn chắc chắn rằng nhiều phương diện giáo huấn của tôn giáo và các truyền thống phản chiếu những nhu cầu và quan tâm trong những thời gian và các nền văn hóa khác nhau.  Do vậy, tôi nghĩ thật quan trọng để có thể thực hiện một sự phân biệt giữa những gì tôi gọi là “cốt tủy” hay “căn bản” của giáo huấn các tôn giáo và những phương diện văn hóa của một truyền thống đặc thù.  Những gì tôi muốn gọi là “căn bản” hay “cốt tủy” của các truyền thống tôn giáo là những thông điệp tôn giáo nền tảng, chẳng hạn nguyên tắc từ ái, bi mẫn, v.v…, là những điều luôn luôn duy trì sự liên hệ và tầm quan trọng của chúng, bất chấp thời gian hay hoàn cảnh.  Nhưng khi thời gian thay đổi, phạm vi văn hóa thay đổi, và tôi nghĩ rằng thật quan trọng cho những tín đồ của các tôn giáo có thể thực hiện những sự thay đổi cần thiết có thể phản chiếu những quan tâm đặc thù về thời đại và văn hóa của họ.
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói, và suy tư của họ và hành động phù hợp với giáo huấn và những nguyên tắc của truyền thống tôn giáo mà họ đang tôn thờ.  Điều này rất quan trọng.  Trái lại, nếu niểm tin hay sự thực hành tôn giáo của mỗi cá nhân chỉ duy trì trong cấp độ vận dụng về tri thức, chẳng hạn như quen thuộc với những giáo thuyết nào đấy mà không chuyển dịch chúng vào trong thái độ hay hạnh kiểm đạo đức của chúng ta, thế thì tôi nghĩ đấy là một lỗi lầm nghiêm trọng.  Trong thực tế, nếu ai đấy sở hữu một kiến thức trí óc giáo điều của những truyền thống hay giáo lý tôn giáo, tuy thế tâm thức hay sự tương tục tinh thần của người ấy vẫn hoàn toàn không có ảnh hưởng gì với giáo lý, thế thì điều này có thể hầu như là phá hoại.  Nó có thể đưa đến một hoàn cảnh trong ấy con người, do bởi có kiến thức về niềm tin tôn giáo, có thể sử dụng tôn giáo cho những mục tiêu khai thác hay lợi dụng.  Thế nên, tôi nghĩ, như một hành giả, trách nhiệm trước nhất của chúng ta là quán xét chính chúng ta.
Hoàn cảnh thế giới ngày nay là hoàn toàn khác biệt với quá khứ.  Vào thời xưa, những cộng đồng và xã hội loài người hiện hữu ít nhiều độc lập hơn với nhau.  Dưới những hoàn cảnh như vậy, những ý tưởng của một tôn giáo duy nhất, một nền văn hóa đơn điệu khổng lồ, v.v… hợp lý và có một vị trí trong phạm vi văn hóa.  Nhưng tình thế này bây giờ đã hoàn toàn thay đổi như một kết quả của những nhân tố đa dạng: dễ dàng thâm nhập giữa những quốc gia khác nhau, một cuộc cách mạng thông tin, đễ dàng chuyền vận, v.v…  Thế nên, xã hội loài người có thể không còn hoạt động trong kiểu thức ấy nữa.
Chúng ta hãy lấy một thí dụ về thủ đô Anh Quốc.  Luân Đôn là một thành phố đa văn hóa và đa tôn giáo.  Do vậy, nếu chúng ta không hành xử một cách cẩn trọng và sử dụng trí thông minh của chúng ta, thì sẽ có thể có nguy cơ xung đột căn cứ trên sự khác biệt niềm tin tôn giáo và văn hóa.  Vì thế, rất quan trọng để có một quan điểm suy nghĩ đến sự hiện hữu của những tôn giáo phức tạp, sự đa nguyên tôn giáo.  Phương cách tốt nhất để đối diện với thử thách này là không chỉ nghiên cứu các truyền thống tôn giáo khác qua sách vở, mà quan trọng hơn là việc gặp gở với những người thuộc những truyền thống tôn giáo khác vì thế chúng ta có thể chia sẻ những kinh nghiệm của mình với họ và học hỏi từ những kinh nghiệm của họ.  Qua những cuộc gặp gở cá  nhân, chúng ta sẽ có thể thật sự đánh giá đúng giá trị của những truyền thống tôn giáo khác.
Từ một viễn kiến rộng rãi hơn, có những nền tảng mạnh mẽ rõ ràng cho việc đánh giá đúng đa nguyên trong tôn giáo và văn hóa, đặc biệt trong tôn giáo.  Một sự thật trong loài người là có nhiều loại thiên hướng tinh thần, những sự hấp dẫn, các nhu cầu, v.v…  Thế nên, càng có nhiều tôn giáo khác nhau hiện diện, khả năng của tôn giáo gặp gở các nhu cầu của những con người khác nhau càng lớn hơn.
Trong lịch sử của nhân loại, đã từng có những sự kiện rất thảm thương đã xảy ra do bởi tôn giáo.  Ngay cả ngày nay, chúng ta thấy rằng những vụ xung đột sinh khởi nhân danh tôn giáo và cộng đồng loài người  càng bị phân chia sâu xa hơn.  Nếu chúng ta đáp ứng được thử thách này, thế thì tôi bảo đảm rằng chúng ta sẽ thấy rằng có đầy đủ những nền tảng mà trên ấy chúng ta có thể xây dựng sự hòa hiệp giữa những tôn giáo khác nhau và phát triển một sự tôn trọng chân thành đối với nhau.
Một thử thách quan trọng khác đối diện với loài người bây giờ là vấn đề bảo vệ môi trường.  Trong thực tế, nhiều nhà môi trường nổi tiếng đã tuyên bố mong ước của họ được thấy những sáng kiến năng động từ những truyền thống tôn giáo khác nhau và đặc biệt là bởi những lĩnh tụ của các tôn giáo.  Tôi nghĩ đây là một ước vọng rất có giá trị.  Một cách cá nhân, tôi cảm thấy rằng  nhiều vấn nạn môi trường thật sự xuất phát từ những khát vọng vô độ không thể ngăn cản của chúng ta, thiếu sự toại nguyện, và tham lam.  Chính trong giáo huấn tín ngưỡng, chúng ta tìm thấy những chỉ dẫn phong phú có thể cho chúng ta khả năng kiểm soát sự thèm muốn và tham lam của chúng ta và chuyển hóa hữu hiệu thái độ và hạnh kiểm của chúng ta.  Do vậy, tôi nghĩ các truyền thống tôn giáo không chỉ có năng lực mà cũng có trách nhiệm để thực hiện một sự đóng góp trong chiểu hướng này.
Một vấn đề khác mà tôi xem là rất quan trọng, và đấy là một trách nhiệm mà các truyền thống tôn giáo phải tự lãnh lấy, là đưa ra một mặt trận thống nhất chống lại chiến tranh và xung đột.  Tôi biết rằng trong lịch sử loài người đã từng có một ít trường hợp, qua chiến tranh, tự do chiến thắng và những mục tiêu nào đấy đã được đạt đến.  Nhưng cá nhân tôi tin rằng chiến tranh không bao giờ đưa đến một giải pháp tối hậu cho một vấn đề.  Thế nên, tôi nghĩ điều quan trọng cho tất cả mọi truyền thống tôn giáo hãy nhất tề đứng lên và bày tỏ ý kiến đối kháng của họ đến chính ý tưởng về chiến tranh.  Nhưng việc bày tỏ ý kiến đối kháng chiến tranh mà thôi thì chưa đủ.  Chúng ta phải làm việc gì đó để đem đến việc chấm dứt chiến tranh và xung đột, và một trong những vấn đề ấy là chúng ta phải nghĩ một cách nghiêm túc về vấn đề giải trừ quân bị.  Tôi biết rằng nhân tố động cơ tạo ra nhu cầu cho  vũ khí là cảm xúc con người – thù oán và sân hận.  Nhưng không có cách nào mà chúng ta có thể hoàn toàn loại trừ sân hận và thù oán khỏi tâm thức của loài người.  Chúng ta có thể giảm thiểu sức công phá của chúng một cách rõ rệt và làm dịu chúng đi, nhưng không thể loại trừ chúng một cách hoàn toàn.  Điều ấy có nghĩa là chúng ta phải thực hiện những nổ lực để đạt đến sự giải trử vũ khí.
Một thử thách khác mà chúng ta đối diện là vấn đề dân số.  Tôi biết rằng từ quan điểm của tất cả mọi truyền thống tôn giáo, đời sống, sự sống của con người nói riêng là quan trọng một cách đặc biệt.  Theo nhận thức của loài người cá thể, càng nhiều người càng tốt, bởi vì sau đó chúng ta có cơ hội cho nhiều đời sống con người được hình thành.  Tuy nhiên, nếu chúng ta nhìn vào vấn đề này từ viễn tượng toàn cầu, thế thì tôi nghĩ rằng có một nhu cầu rõ ràng cho tất cả mọi truyền thống tôn giáo đặt vấn đề dân số một suy tư vô cùng nghiêm trọng, bởi vì tài nguyên thế giới thì giới hạn.  Chỉ có một mức độ nào đấy mà tài nguyên thế giới có thể cung ứng cho nhân loại trên hành tinh này.
Nguyên tác:  The Challenge for Humanity: An Interfaith Address trích từ quyển The Art of Living
Ẩn Tâm Lộ ngày 23/09/2011
Bài liên hệ
1- Sống Vui, Sống Khỏe và Toại Nguyện
2- Đối Diện với Cái Chết và Chết An Lành
3- Đối Phó với Sân Hận và Cảm Xúc
4- Cho và Nhận
5- Tương Thuộc, Tương Liên, và Bản Chất của Thực Tại
6- Thử Thách của Nhân Loại:  Phát Biểu về Liên Tôn
http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-85_4-14029_5-50_6-2_17-72_14-1_15-1/

NGÀY CUỐI LỄ KALACHAKRA TẠI HOA KỲ – Minh Mẫn

NGÀY CUỐI LỄ KALACHAKRA TẠI HOA KỲ


Lễ cầu nguyện hòa bình thế giới của Đức Đạt Lai Lạt Ma tổ chức tại Washington DC đã chấm dứt sau 11 ngày. Đây là cuộc lễ kéo dài nhiều ngày nhất và quan trọng nhất, vì, ngoài lễ cầu hòa bình, còn kèm chúc mừng sinh nhật và truyền quán đỉnh đặc biệt.
Những ngày trước, ngoài cuộc lễ trang nghiêm và chí thành ra, Ngài luôn có buồi thuyết giảng cho quần chúng.
Đối với Ngài, thuyết giảng quan trọng hơn lễ Quán đỉnh Kalachakra.
Qua những buổi giảng, Ngài hy vọng thính chúng sẽ chuyển hóa nội tâm, tự thân có an ổn thì xã hội mới có hòa bình.
Thời gian lưu lại Hoa Kỳ, Ngài đã gặp Quốc hội, chiều thứ bảy, lúc 2 giờ, được Tổng Thống Mỹ, Obama tiếp đón.
Đây là điểm mà Obama xác định thái độ dứt khoát với Trung Quốc.
Ngày mãn đàn, sau thời kinh chung kết, hồi hướng cho nền hòa bình nhân loại, Ngài tiếp tục giảng pháp cho đại chúng.
Về ngoại giao, các đoàn thể tôn giáo và chính trị, đều có người đến chúc mừng, trong đó một vị Hồng y của Vatican, có Martin Luther King III, cháu nội Thánh Gandhi.
Nhật, Nam Triều Tiên, và một số văn nhân trí thức, nghệ sĩ, diễn viên…cũng cử đại diện đến tham dự.
Washington DC tuy là một bang của Mỹ, nhưng là thủ phủ Hoa Kỳ, tổ chức lễ Kalachakra tại đó mang tầm quốc tế.
Về mặt tổng thể, khá chu tất và thành công tốt đẹp, ngoại trừ khâu làm thẻ và lúc phát thẻ, nếu không có cộng đồng Phật tử Việt Nam hỗ trợ, chắc chắn họ sẽ gặp nhiều lúng túng.
Theo báo cáo của ban tổ chức, chi phí hết 4 triệu USD, thu nhập 5.9 triệu, số thặng dư chia làm nhiều phần để ủng hộ Tsunami Nhật,  cư dân homeless tại Washington DC, cộng đồng Tây Tạng Canada, Châu Phi…
Họ đã công khai tài chính ngay ngày cuối.
Về nhân cách của Đức Đạt Lai Lạt Ma, tướng mạo của gấu và âm giọng của sư tử nói lên tính đặc thù của một chính vị vương.
Ngài vẫn chưa phai nhòa cách đi đứng của một tộc Tạng sống vùng cao nguyên và phong cách bình dị của một nông dân. Tính bình đẳng thể hiện qua cách tiếp xúc với một Tổng thống cũng như lúc trò chuyện với một người thường dân.
Trong khi làm lễ, một người quá ái mộ Ngài, họ tiến lên lễ đài để cúng dường Ngài chiếc mũ, dĩ nhiên bị bảo vệ ngăn, Ngài vẫy tay bảo họ tiến đến, nhưng bảo vệ nhận chiếc mũ trao lại Ngài, lật qua lật lại xem xét, Ngài đội lên đầu giữa tiếng vỗ tay hoan nghinh của đại chúng, rồi trả lại cho thiện chủ. Thể hiện tính bình đẳng và khiêm tốn trong mọi lúc mọi nơi.
Từ trên Pháp tòa cao, Ngài nhoài người về phía trước thật sát để choàng khăn cho các sư , các tình nguyện viên và những thành phần đặc cử.
 
(Ảnh: http://www.dalailama.com/)
Trên lễ đài, bên trái từ ngoài nhìn vào, các Lạt Ma kinh sư trưởng thượng trì tụng, Ngài Đạt Lai Lạt Ma ngồi giữa, phía tay mặt là vị sư  và vài ni cô Việt Nam.
Chẳng hiểu sự hiện diện của các tu sĩ Việt Nam  trên lễ đài là do ban tổ chức mời hay họ tự động chen lên. Nếu ban tổ chức sắp xếp thì chỉ dành riêng cho đoàn Phật giáo người Việt thôi sao? Đạo tràng do chư Tăng Tây Tạng hành lễ theo nghi Mật thừa Kim Cang tạng thì Tăng Ni Việt Nam lên ngồi đó để làm gì?
Phật giáo Việt Nam tại Mỹ không có ai đủ tầm vóc đạo đức và tuổi tác để đại diện lên dự lễ, những vị vô danh tiểu tốt lên lễ đài ngồi như pho tượng phỗng làm giảm uy tín của một đại lễ?
Phải chăng nhân sự người Việt trong ban tổ chức không thỉnh các thượng thủ Tăng già tại Mỹ hoặc tại Washington DC? Điều làm cho những ai hiểu giáo luật Phật giáo Bắc truyền đều ngỡ ngàng: Trong Pháp hội, duy nhất Đức Đạt Lai Lạt Ma đắp y 25 điều, các Lạt Ma  khác đắp y 5 hoặc 7 điều. Nhưng một tu sĩ Việt Nam hơn 40 tuổi đời đã thượng lên chiếc y 25 điều ngang bằng với vị Pháp chủ ở Đạo tràng và ngồi  trên lễ đài, nói lên tính cao ngạo hiếu danh của một tu sĩ chưa đủ tưổi hạ mà đòi ngang bằng với Đức Đạt Lai Lạt Ma!!!
Vấn đề luộm thuộm trong nghi lễ Việt Nam cũng thế. Thầy Nguyên Tánh bảo không tán, thầy Minh Châu lại đòi tán, các cô ni kẻ tụng nghĩa, người tụng âm, vì thế thầy Giác Thiện tuy học nghi lễ từ thầy Lệ Trang ở Việt Nam, cũng ngần ngại quyết định, bởi cả nể chư Tăng trên đất khách.
Tình nguyện viên Việt Nam, Mỹ, Trung Quốc rất ư nhiệt tình. Ở Mỹ, việc xin nghỉ việc để làm công quả dài ngày như thế, rất khó, thế mà nhiều anh chị và cả gia đình đều thường trực có mặt trong những ngày qua tại Pháp hội. Suốt 11 ngày cung ứng gần ngàn xuất ăn trưa cho chư Tăng ni, tình nguyện viên và nhân viên bảo vệ, kể cả hoa quả trên lễ đài, chẳng những thế, còn phong bì cho toàn bộ tu sĩ khi mãn đàn.
Những ngày cuối, số lượng người tham dự gia tăng đáng kể, 20 ngàn người, chưa kể trẻ con, thế mà chưa ai than phiền, lớn tiếng va chạm, trẻ con cũng vui vẻ thích thú.
Mọi người tự động đứng lên mỗi khi thấy Ngài xuất hiện hoặc ra về. Ngài cười nói hồn nhiên phủ tràn năng lượng từ ái.
Giờ ăn trưa, một số người Tạng lớn tuổi tụ tập ngoài sảnh đường hát nhảy những vũ điệu đơn giản, nghèo tiết tấu của đời du mục trên cao nguyên Hy Mã, để nhớ lại một thời thái bình độc lập thuở xa xưa. Một vài người ngoại quốc cũng tham gia ủng hộ.
Tuy nhiên, trong khi chờ đợi Đức Đạt Lai Lạt Ma trở lại đạo tràng lúc Ngài đi gặp Tổng Thống Obama, nhóm nghệ sĩ Tây Tạng đến với thính chúng vài màn đơn ca, vũ điệu trữ tình giống như hát đối của Việt Nam, thể hiện nét lạc quan yêu đời mang tâm trạng hy vọng trở lại thời bình an của tộc Tạng, nhạc cụ dân tộc khá đơn điệu.
Kết thúc văn nghệ, nhóm nghệ sĩ phất phới cờ Tây Tạng, cả pháp hội vang dậy tiếng hoan hô.
Người nghe không tìm thấy âm điêu ủy mị của kẻ lưu vong. Trang phục phụ nữ với chiếc áo dài kín đáo và duyên dáng, nam giới trang phục cổ truyền luộm thuộm như thời du mục. Nét mặt thuần túy châu Á, âm giọng pha tạp Mông cổ.
MC trân trọng tri ân các mạnh thường quân, chính phủ bang, cộng đồng Việt Nam và những danh nhân tham dự để cho buổi lễ hoàn thành tốt đẹp.
Mạn Đà La thực hiện rất công phu theo một tiêu chuẩn nhất định; Đức Đạt Lai Lạt Ma làm lễ kết đàn gần 20 phút, giải đàn Mạn Đà La, số cát màu gom lại, một ít phân phối cho các Lạt Ma, số còn lại đích thân Ngài và ban kinh sư y mão tề chính, mang ra sông Potomac chú nguyện, rải.
Qua những sinh hoạt trên thế giới và uy tín của Đức Đạt Lai Lạt Ma, mọi người thấy rằng họ giữ được nề nếp và sự đoàn kết thuần nhất làm rạng rỡ nền văn hóa Phật giáo hòa lẫn tín ngưỡng du mục, mặc dù họ mất nước.
Họ có một tổ chức khoa học và giáo dục tu viện khá nghiêm minh, vì thế tôn ti trật tự đã giúp họ tồn tại trước vũ lực.
Trên vùng đất Hoa Thịnh Đốn, số lượng người Tạng và các sư Tạng rất ít, cũng như Lào, Thái, Nhật, Ấn…tuy chùa không nhiều, nhưng cái nào  xứng tầm vóc cái đó.
Tây Tạng có một hệ thống tu viện và giáo dục thuần nhất. Nhờ sự thuần nhất như thế, cộng đồng Tây Tạng họ tổ chức  hàng năm các cuộc cầu nguyện hòa bình và truyền quán đỉnh mang tầm quốc tế ở các quốc gia khác nhau rất thành công do tính đoàn kết nhất quán của họ, họ chỉ biết Đức Đạt Lai Lạt Ma là đấng duy nhất đáng tôn sùng.
Qua đại lễ Kalachakra của Cộng đồng Phật giáo Tây Tạng, liệu Phật giáo Việt Nam có rút tỉa được bài học nào từ sự đoàn kết và tính trong sáng của các Tăng sĩ  Tây Tạng như thế?

 
Đức Đạt Lai Lạt Ma củng chư tăng làm lễ cầu nguyện (Ảnh: dalailama.com)
Mạn Đà La (Ảnh: Dalailama.com)
http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-64_4-13113_5-50_6-1_17-105_14-2_15-2/.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH,MHDT.11/4/2012.

No comments:

Post a Comment