Nhìn theo quan điểm lý và sự, đâu là con đường tu hành của Phật tử trong hoàn cảnh hôm nay?
Làm thế nào để tu hành vừa có lợi cho mình, vừa có lợi cho đồng bào và đồng loại?
Nhưng trước hết, theo đạo Phật, thế nào là tu ?
PHẬT GIÁO KHÔNG PHẢI LÀ TÔN GIÁO
Đạo
Phật là con đường Thích Ca Mâu Ni từng đi để thành Phật, và khuyến
khích thế nhân tự thắp đuốc lên mà đi để tìm ra ý nghĩa của cuộc đời.
Người
Tây phương dùng chữ Bouddhisme hay Buddhism để chỉ đạo Phật, cũng như
Judaism hay Judaisme để chỉ Do Thái giáo, Christianism hay Christianisme
để chỉ Ky-Tô giáo, Catholicism hay Catholicisme để chỉ Công giáo hay
Ky-Tô giáo Vatican, Protestantism hay Protestantisme để chỉ Thệ Phản
giáo hay Tin Lành giáo, Islamism hay Islamisme để chỉ Hồi giáo.Tất cả
đều giống nhau ở tín điều về một Thượng Đế và sự lệ thuộc của con người
vào Thượng Đế đó. Nhưng trong truyền thống Tam giáo, đạo Phật cũng như
đạo Lão và đạo Khổng không phải là những ISME hay ISM theo nghĩa đó,
nhất là đạo Lão ráo riết tránh ngôn từ tranh biện và hệ thống hóa tư
tưởng đến độ cực đoan.
Đạo
Phật cũng có một vũ trụ quan tuy đơn sơ nhưng lại rất hiện đại, nhất là
quan niệm vô thủy vô chung của vũ trụ và thời gian, và quan niệm về
những chuyển biến chủng loại, nhưng cơ bản, đạo Phật cũng như đạo Khổng
là những nhân sinh quan về bản chất và ý nghĩa đời người và những quan
niệm về cách thức tổ chức quốc gia xã hội để thành đạt ý nghĩa hay mục
tiêu nhân sinh đó.
Cho nên,
để tránh ngô nhận, có lẽ nên nói đến Đạo Phật thay vì Phật giáo. Vì gọi
đạo Phật là Phật giáo như một ISM hay ISME tức là vô tình đồng hóa đạo
Phật với những tôn giáo cho rằng vạn vật, kể cả chúng sinh và riêng nhân
loại, là do một đấng tối cao toàn thiện toàn chân toàn mỹ trên thiên
đàng tạo ra. Tín điều này cho rằng đấng toàn năng tạo ra những cái tốt
đẹp nhất, nhưng không giải thích tại sao đấng toàn năng này lại tự dưng
bày ra những cái xấu xa tồi tệ nhất như hỏa ngục, động đất, tsunami,
thánh chiến, tàn phá môi sinh, bom nguyên tử, lò hơi ngạt, vi khuẩn HIV,
vi khuẩn cúm gia cầm... và bao nhiêu điều tàn ác khác mà vật thụ tạo
của đấng toàn năng đó có thể tưởng tượng ra. Đại diện của đấng toàn năng
ở trần gian là những giáo chủ với những giáo triều độc quyền giữ chìa
khóa thiên đàng và mọi định lệ sinh hoạt, kể cả giáo lệnh thiêng liêng
rất thánh về thuốc ngừa thai và bao cao su.
Từ
sau vụ 11/9/2001 ở Mỹ đến nay, nhân loại phát sốt từng cơn vì nguy cơ
thánh chiến giữa Hồi giáo với Do Thái giáo, Công giáo Vatican và một vài
hệ phái Tin Lành. Nguy cơ này dần dần thế chỗ chiến tranh ý thức hệ tàn
lụi khi Bức Tường Sắt đổ nhào theo Bức Tường Berlin năm 1989. Tôn giáo
được dùng để nuôi dưỡng một thứ chiến tranh lạnh mới có lúc đã nóng sôi
lên bằng bom đạn như ở New York-Washington, ở Madrid, London, Bali, hay ở
Afghanistan và Iraq. Đối diện với thực trạng mắt đổi mắt răng đền răng
mà đi đến cùng không khéo sẽ chỉ còn những người mù húp cháo đó, ai mà
không có lúc ân hận là đã theo tôn giáo, hay ít ra ai mà không có lúc ao
ước thà mất đấng tối cao toàn năng còn hơn là mất hòa bình và sinh mạng
cá nhân?
Cũng bởi vì không
chấp nhận một đấng tối cao theo nghĩa tôn giáo nên một thời đạo Phật đã
bị tố cáo là vô thần, theo ngôn ngữ thời thượng 'vô thần Cộng Sản',
khiến cho một số Phật tử hoặc không dám nhận là theo đạo Phật mà chỉ
nhận là theo đạo ông bà.
Mặt
khác, cũng vì ngộ nhận đạo Phật là một tôn giáo tôn thờ một đấng tối
cao trên thiên cung như thế nên một số Phật tử mới loay hoay bắt chước
thiên hạ biến chư Phật, chư Bồ Tát thành Phạm Thiên hay Ngọc Hoàng
Thượng Đế với cung vàng điện ngọc rập theo khuôn mẩu thiên cung theo trí
tưởng tượng của các nghệ sĩ Tây phương để làm vừa lòng các giáo chủ ham
mê xa hoa quyền quý. Phật từ bỏ địa vị Thái Tử và ngai vàng trong tương
lai không phải là để làm vua, khoan nói là vua của các vua. Trong
truyền thống đạo Phật, cũng như đạo Khổng, đạo Lão, không hề có chuyện
thay vì gọi kẻ đứng đầu một tôn giáo là giáo chủ, trưởng lão, giáo phụ,
tổ, tăng thống... thì người ta gọi vị đó là 'giáo hoàng', nghĩa là hoàng
đế của vương quốc tôn giáo như Công giáo Vatican.
GIẢI NGHIỆP
Phật tử là người có tâm nguyện theo đạo Phật, nghĩa là nương theo con đường Phật đã đi qua.
Người
Việt đa số vẫn nghĩ ở đời muôn sự của chung, hay ngàn muôn năm âu cũng
thế ni. Hay nói như nhà bác học Lavoisier, chẳng có gì diệt, chẳng có gì
sinh. Thành trụ hoại không chỉ là biến tướng của nghiệp. Nghiệp là
nguồn của mất còn sinh diệt, nghiệp là nguồn của trầm luân đau khổ. Con
đường Phật đi là con đường dẫn ra khỏi nghiệp đạo. Con đường Phật đi là
con đường dứt nghiệp, chuyển nghiệp để đoạn lìa tái sinh, để ra khỏi
cái vòng sinh diệt, cái vòng mất còn có không. Chuyển được nghiệp là thoát được luân hồi, dứt được nghiệp là dứt được luân hồi.
Hai
điểm đặc thù bất nhị của đạo Phật là thứ nhất, con người có thể tự mình
ra khỏi xa lộ một chiều sinh diệt, và thứ hai, con người có thể làm
được chuyện đó ngay trong kiếp này, ngay trong cuộc đời hiện tại. Bằng
cách nào? Bằng 84.000 cách, nghĩa là có đến 84 ngàn bảng chỉ đường, hay
84 ngàn cách đi!
Giữ năm
giới nghe đã nặng, huống nữa là 84 ngàn giới. Cho nên, dù số 84.000 là
một con số tượng trưng ví von chăng nữa thì cụm từ 'tám vạn bốn ngàn
pháp môn' cũng đủ làm gây chới, với vừa tạo tuyệt vọng vừa gây hi vọng.
Trong
rừng pháp trùng trùng mênh mang ấy, làm sao khỏi lạc? Cuộc tranh luận
cần cù lau gương sáng giữa Thần Tú và Huệ Năng, hay mẩu đối thoại khai
tâm giữa sơ tổ Bồ Đề Đạt Ma và Huệ Khả đã đem lại một hi vọng cho người
đang chới với trước rừng pháp. Hi vọng của một đồ tễ nháy mắt buông dao.
Hi vọng của con đường trung dung vô cầu, làm mà không bám vào thành
quả, tu mà không bám vào chánh quả, hành mà không bám vào phước đức,
giác ngộ bằng cách cùng giác ngộ với kẻ khác, như người trên thuyền,
muốn đến bến thì cùng chèo với kẻ khác, chèo cho kẻ khác trên thuyền.
Nhìn theo quan điểm trung dung vô cầu đó thì trong hoàn cảnh hôm nay,
con đường tu tập và hành đạo của các hàng Phật tử cũng có thể tóm lược
vào ba điểm, đó là giải nghiệp, giải thực và giải hoặc.
Tam
giáo đồng hành. Đạo Phật và đạo Khổng là những hệ thống tư tưởng chuẩn
bị cho con người vào đời và ở đời một cách có ý nghĩa và có trách nhiệm,
trong khi đạo Lão chuẩn bị cho con người ra khỏi cuộc đời mà không tiếc
nuối hay bất mãn oán hận. Quan niệm duyên nghiệp của đạo Phật chú trọng vào cách con người đến với đời. Quan niệm tam cương ngũ thường của đạo Khổng chú trọng vào con người ở đời, và quan niệm vô vi của đạo Lão chỉ cách cách rút lui khỏi cuộc đời.
Dù
truyền thống Việt Nam là 'tu đâu cho bằng tu nhà' hay 'tu nhà tu chợ tu
chùa', nhưng xuất gia là lối tu hành gắt gao nhất, đòi hỏi một quyết
tâm cao, được coi là lý tưởng nhất, chắc ăn nhất. Chính quyết tâm này
tạo nên giá trị của người xuất gia. Chính quyết tâm giữ Ba La Đề Mộc Xoa
đã biến hàng xuất gia thành một trong ba báu vật tối thượng của Phật
tử. Và dĩ nhiên chư tôn túc tăng ni cũng hiểu rõ xuất gia hay tu chùa là
tự nguyện chứ không phải là một tình nguyện hi sinh như kiểu đi kháng
chiến, đi làm cách mạng, đi làm việc thiện hoặc đi nghĩa vụ quân sự.
Phải hiểu rõ điều đó để khỏi sai lầm trong sự nghiệp pháp thí, đức thí
cho hàng Phật tử sơ cơ.
Đã
tâm nguyện theo Phật không thể không nhớ nếu Phật cũng ưa nhàn hạ thong
dong thanh nhàn thì xong 49 ngày đêm nhập định thành công, Phật cứ đi
tuốt về Niết Bàn cho yên thân. Hoặc nếu Phật cũng nghĩ ai
làm gì mặc ai mình lo tu thân mình trước đã, thì sau khi giác ngộ và
tiếp đó là 21 ngày đêm trăn trở tiến hay lùi, nhập hay xuất, hay ít ra
sau thời pháp đầu tiên cho U Ba Ca về nghiệp lực và giải nghiệp, hay sau
thời pháp thứ hai kế tiếp cho năm anh em đồng chí cũ Kiều Trần Như về
Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo, Phật cứ ngồi một chỗ nhờ họ chạy vạy kiếm
tiền xây chùa và chờ đàn na tín thí đến dâng cúng cái ăn, cái mặc, cái ở
để Phật khỏi phải hàng ngày ôm bình bát lặn lội tìm về thế nhân để bố
giáo suốt 45 năm? Cho nên, Phật là một kẻ lữ hành nhập thế chứ không phải lánh xa phồn hoa đô hội để trốn nợ đời. Đã lên đỉnh cao để 'trường khiếu nhất thanh hàn thái hư' rồi thì phải trở về phồn hoa vinh nhục. Đã nhảy qua bờ giác thì cũng phải nhảy trở lại bờ mê để độ những kẻ còn mê. Trong cương vị một vị thầy, một tấm gương sáng.
Phật không tu dùm cho ai cả.
Phật không tự nhận là đấng cứu thế và cũng không ra điều kiện cho bất
cứ ai nếu chịu nhận Phật là đấng tối cao thì sẽ được đương nhiên lên
Niết Bàn. Phật là kẻ đã đi, đã đến, và Phật chỉ đường cho mà đi, chỉ
đích cho mà đến, khéo tu thì nổi vụng tu thì chìm. Phật không có quyền
bắt ai xuống địa ngục vì không chịu nhận Phật là Phật, vì không chịu rửa
tội theo Phật.
Con đường Phật đi là con đường tìm đến thế nhân để cho và nhận. Cho giáo pháp và nhận thực phẩm, áo quần, thuốc men, nơi trú ngụ.
Phật là kẻ tay làm hàm nhai đúng với nguyên tắc bất tác bất thực. Bởi
vì thường xuyên dấn thân vào đời nên những điều Phật dạy luôn thiết
thực, cập nhật, sống động và rất có lý và rất người. Do đó mà ngay sau
khi Phật niết bàn, kỳ kiết tập thứ nhất do A Nan chủ trì chỉ chú trọng
vào luật và kinh. Bao nhiêu năm sau Luận tạng mới được triển khai. Bởi
thánh chúng cũng đã hiểu ý Thầy chú trọng đến những gì thiết thực, cập
nhật và sống động, để làm chứ không để nói, ta làm được mình làm được
chứ không phải đợi thành thánh rồi mới làm mới giữ.
Con đường Phật đi là con đường hành động, chứ không dậm chân tại chỗ.
Trên con đường vừa đi vừa tu, đi không biết bao giờ đến, tu không biết
bao giờ thành đó, những người có tâm nguyện theo Phật chỉ có thể nói
mình đang LÀM Phật tử, chứ không dám chắc mình đã LÀ Phật tử. Làm đến
đâu hay đến đó, quý hồ là quyết chí làm và quyết chí tu. Trên con đường
đó, Phật tử gặp chính mình, gặp tha nhân và có duyên may thì gặp được
những người đã đến đích, như những đệ tử của chư Phật, chư Tổ thời quý
ngài còn tại thế.
Vô cầu là
con đường tự giác nhi giác tha. Bởi lý, có xác thân là có trú sở, có trú
sở là có quê hương tổ quốc. Hành vô hành, tu vô cầu là bí quyết làm
Phật tử, quyết sống cho ra người của Phật tử Việt Nam, nhất là trong
những thời kỳ nhiễu nhương cần chung sức đoàn kết để cứu cá nhân mình,
cứu gia đình, cứu quê hương. Phật tổ cũng là Phật tổ Hồng Bàng thị như
thi sĩ cách mạng Nguyễn Quyền trong phong trào Duy Tân ngày xưa từng
nói. Trong lúc sơn hà nguy biến thời Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, Hậu Lê hay
thời kháng chiến chống thực dân, người Phật tử, sáng tụng kinh trưa ra trận, chiều sống sót trở về, cơm nước xong, tối tụng kinh đi ngủ để ngày mai tiếp tục... Đó là nhịp sống và chiến đấu đặc thù của Phật tử Lý, Trần, Lê.
Phật
tử vẫn tự hào đạo Phật là đạo của bảy, tám mươi phần trăm công dân và
có lúc nào thống tâm tự hỏi sao bảy, tám mươi phần trăm ấy có thể để cho
những vụ như vụ Năm Cam hay PMU 18 xảy ra không? Chư tôn túc tăng già, thân chính cũng như đối chính, đã có một cảnh giác nào về những vụ này không hay chỉ đợi cho Năm Cam bị xử tử rồi làm lễ cầu siêu, và các tòng phạm ở tù rồi mới làm lễ cầu an?HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH,MHDT.11/4/2012.
No comments:
Post a Comment