Friday, 13 April 2012


Phần đông nhiều người có quan kiến tích cực
tham gia vào lễ Khai tâm Kalachakra ;
đã đặt rất nhiều vấn đề về những thệ nguyện .
Họ muốn biết bản chất về sự dấn thân
để có thể thẩm định khi có khả năng giữ vững chắc .

Sự chân thành và những đắn đo này đáng được ngợi khen . Nhưng hãy nên an tâm . Vì truyền thống Phật học đã định : « Sự gìn giữ những thệ nguyện ; đều được dành cho cho người thế tục và Bồ tát » .

Những thệ nguyện của tu viện và Mật tông . Chúng ta không cần hiểu biết từng chi tiết . Và chỉ khi đến lúc đủ trưởng thành để có thể gìn giữ được thệ nguyện . Vì cuộc sống tu viện đòi hỏi một tâm thức từ khước đáng kể , và kỹ thuật thực hành Mật tông như là sự bức bách . Thế nên chỉ những người có động lực rất mạnh mới dám lao mình vào .

Ngày nay , với cá tính còn quá nhiều phê phán và thận trọng . Thích nghi với những gì liên quan đến Mật tông thật sự là cần thiết . Có thể nói : « Những thông tin sai lầm đã tràn ngập và sự lầm lẫn đã quá đầy rẫy » . Đây là lý do , những vị thầy Phật học lớn thường tuyên bố : « Vì muốn chiếu cố , nên chúng ta cần giải thích sáng tỏ về những phạm trù thệ nguyện đầy khác biệt ; cho những ai chân thành mong muốn về thệ nguyện đã được xem xét kỷ lưởng » .



Là những dự thính viên tích cực vào buổi lễ khai tâm Kalachakra .
Chúng ta bắt đầu quy y và kết hợp thành căn bản
cho những dấn thân vào con đường Phật học .
Cho dù bạn đang thực hành theo bất cứ hệ thống triết lý chọn lọc nào .

Quy y có nghĩa : Chính thức dấn thân vào đường hướng một cuộc sống chắc chắn và tích cực do Tam Bảo đề nghị : Phật - Pháp - Tăng , và hứa hẹn sẽ duy trì đến thành tựu tối ưu như sự tỉnh thức . Quy y trong suốt lễ khai tâm Mật tông tương tự như quy y trong nghi lễ đặc biệt riêng dành cho mục đích này ( Lễ quy y ) .

Sự kiện cắt một lọn tóc và đón nhận một Pháp danh , không được xem như thành phần chủ yếu của lễ quy y . Giai đoạn này được để ngoài lề suốt những lễ khai tâm Mật tông . Ngay cả những ai lần đầu dấn thân vào để chọn theo cách hành xử hài hòa với những quy định Tam Bảo .

Có nghĩa , tham gia vào đường hướng một cuộc sống chắc chắn và tích cực do sự quy y xác định . Điều này hơn cả sự dấn thân với chư Phật . Vì chúng ta tự mình dấn thân để quan sát ba thái độ tâm thức trong hành sử .

a) Thứ nhất : Hạnh Kiểm

Dấn thân đầu tiên nhằm :

Chân thành ký thác cho một vị thầy tâm linh . Sự dấn thân này đòi hỏi phải tìm ra được vị thầy đầy đủ trải nghiệm . Trong trường hợp không có quan hệ tâm linh kết hợp với vị thầy trao truyền quyền năng Kalachakra . Hay chưa tìm ra vị thầy hướng dẫn kỹ thuật thực hành Mật tông . Chắc chắn là không thể .
Lệ quy y được xảy ra trong suốt một nghi lễ đặc biệt .
Có nghĩa ngoài bối cảnh Mật tông . Không có nghĩa vào xem giảng sư trao truyền lễ như một hướng dẫn viên . Hiển nhiên rất quan trọng để chứng tỏ lòng biết ơn và tôn kính . Vì mắc nợ ông đã cho phép chúng ta tiếp cận với Tam Bảo .

Suốt nghi lễ đặc biệt dành cho quy y . Với một bức tượng hay một hình vẽ đức Phật tượng trưng cho Tam Bảo . Có nghĩa không phải chúng ta quy y vị thầy chủ tọa . Đây là ý nghĩa duy nhất trong bối cảnh lễ khai tâm Mật tông .

Vị thầy tự biểu lộ chính ông Tam Bảo để cho sự quy y và sự dấn thân của môn sinh theo đường hướng chắc chắn vào cuộc sống với những quan hệ giữa vị thầy và môn sinh . Cũng cần nói thêm , chúng ta vẫn có thể quy y vào những hoàn cảnh độc lập về một cuộc sống vững chắc .

Nhưng đón nhận đường hướng một cuộc sống vững chắc hay sự trao truyền quyền năng của một vị thầy riêng biệt . Không thể biến chúng ta trở thành những môn sinh của dòng hay trường phái đang theo .

Giử đường hướng cuộc sống được giáo pháp xác định . Đòi hỏi nghiên cứu những giáo huấn Phật học và mang vào thực hành ; để có thể chiến thắng những cảm xúc và những thái độ do tâm thức quấy nhiểu . Vì nếu chúng ta chỉ lãnh hội bằng tri thức không thì không thể đầy đủ .

Nhận những chỉ thị trong cuộc sống kinh qua Tăng già ( Sangha ) - thuật ngữ này chỉ những người xuất gia đã đạt đến sự thành tựu tâm linh cao độ . Đòi hỏi mình phải noi theo guơng họ . Nhưng dù thế cũng không nhất thiết chúng ta phải đi vào cuộc sống tu viện .

Đúng hơn là muốn chúng ta thực hiện Tứ diệu một cách phi quan niệm . Tứ diệu đế có thể được tuyên bố như sau : « Hiện hữu vô số những khó khăn với nhân là tâm thức lầm lẫn . Những khó khăn có thể được kết thúc bằng phương tiện lãnh hội tính không cũng như tâm thức chuyển hóa trên con đường » .

Đi từ nguyên lý vận hành bên trong là công việc chủ yếu về sự hiện hữu của chúng ta . Nói cách khác , cần ngưng lại những than phiền và tự phê phán . Cho đến không còn thời gian và năng lượng tập trung vượt qua những khuyết điểm . Và thực hiện những khả năng và tiềm năng sẵn có của chính mình .

Tham gia vào những tiêu chuẩn đạo đức do đức Phật xác định . Đạo đức Phật học được đặt nền tảng trên sự phân biện . Chúng ta tự khép mình vào sự phân biệt giữa những hành động có lợi và có hại cho chính mình và người khác .Giả định , tuân thủ đạo đức Phật học . Chúng ta từ khước tất cả dạng thái độ hủy diệt và phục vụ vì lợi ích xây dựng theo chiều hướng phát triển tâm linh .

Làm hết mình để hiểu người và thể hiện lòng nhân từ . Vì mục tiêu chúng ta là tự giải thoát những vấn đề của chính mình mà không tác hại đến người khác .

Cuối cùng , để được nối liền với Tam Bảo . Chúng ta nên cúng dường trái cây , hoa hay với những dạng thức cúng dường khác . Vào những ngày Phật học xem là ngày của các vị thánh . Chẳng hạn ngày tưởng niệm đức Phật tỉnh thức . Việc đánh dấu những ngày lễ tôn giáo bằng nghi lễ truyền thống sẽ nối liền chúng ta với cộng đồng Phật học trong tổng thể .

b) Những hành động nên tránh & Những thái độ tôn kính

Thứ hai :

Dấn thân vào quy y . Chúng ta cần đạt nặng vào những hành động nên tránh và những hành động được khuyên bảo . Có những hành động nên tránh , vì nó hoàn toàn mâu thuẫn với đường hướng đang dấn thân vào . Trong khi những hành động khác được khuyên bảo chúng ta không bỏ rơi mục tiêu theo đuổi .

Ba hành động cần nên tránh là :

Quy y chư Phật :

Chủ yếu những đường hướng cuộc sống sẽ dẫn chúng ta đi xa hơn . Thay vì , chỉ biết tư duy hay tích lũy những vật thể vật chất và những trải nghiệm dễ chịu . Chủ yếu cần thiết là :

Tích lũy những phẩm chất như tình thương , đức kiên nhẫn , tâm thức tập trung , minh triết . Có thể mang lại hữu ích cho người khác . Ở đây không phải là thệ nguyện phải sống nghèo khó và kiêng cử tất cả . Điều quian trọng là : Cần chọn một đường hướng sống ít hời hợt .

Đơn cử một thí dụ : Sự dấn thân có nghĩa không quy y vào thượng đế hay tâm thức nào đó . Phật học dưới hình tướng Tây tạng nói riêng . Thường nhắc đến những nghi lễ hay Puja . Dành cho những hình dáng chư Phật hay những thần linh hộ mệnh dũng mãnh .

Yêu cầu tránh xa con đường đầy trở ngại và giúp chúng ta trong sự thực hiện những mục tiêu xây dựng . Những nghi lễ như thế phát sinh ; khi những hoàn cảnh thích hợp cho sự trưởng thành từ những tiềm năng tiêu cực đang phát triển . Tuy dưới hình thức ngăn ngừa những chướng ngại bình thường . Nhưng cũng là cơ hội giúp sự trưởng thành mau chóng những tiềm năng tích cực .

Nhưng chúng không có khả năng làm lệch những khó khăn trong trường hợp tích tụ những tiềm năng tiêu cực dai dẳng . Thượng đế và tâm thức , thần linh hộ mệnh và ngay cả chư Phật cũng không thể gánh vác nghiệp lực của chúng ta .

Họ không thể ngăn chận hành động hủy diệt và đẩy chúng ta hành động xây dựng . Phật học không khuyên bảo phải tuyệt đối tôn thờ thần hộ mệnh , cũng như tôn thờ đức Phật . Chính đường hướng sống vững chắc được xem như sự hướng dẫn tuyệt vời cho chúng ta đi vào trạng thái Phật .

Quy y Pháp :

Để chúng ta không làm phiền hay sát hại con người hay thú vật . Một trong những đường hướng chỉ dạy của giáo huấn đức Phật là : Yêu cầu chúng ta giúp người khác khi có thể và không làm cho người rơi vào sai lầm .

Quy y Tăng Già :

Để chúng ta không còn duy trì những quan hệ mật thiết với những người tiêu cực . Khi đã tránh được những dạng người này trong cuộc sống . Chúng ta có thể cống hiến tốt hơn vào những mục tiêu tích cực .

Thái độ này được khuyên bảo cho đến khi đã đủ khẳng định về đường hướng sống mới . Điều này không có nghĩa phải sống trong một cộng đồng Phật học , mà là bằng quan hệ giao tiếp hài hòa và tránh những quan hệ có hại cho mình và người .

Về ba hành động tôn kính , bao gồm những bức tượng hay tranh vẽ và những tác phẩm nghệ thuật tượng trưng cho chư Phật , sách vở , đối đãi với Pháp thực hành , và những thệ nguyện ở tu viện bao gồm cả « tăng y » .

Theo truyền thống , chúng ta thường bất tôn kính đối với những vật thể thiêng liêng . Xô đẩy , dẫm đạp lên , ngồi hay leo lên trên hoặc đặt xuống đất không tìm cách bảo vệ dù chỉ bằng một đoạn vải hay chéo áo .

Dù không trực tiếp quan hệ với đường hướng sống vững chắc do Pháp giới thiệu . Tất cả những vật thể . Tuy không dính liền với những người tỉnh thức hay sự thành tựu tối ưu . Cũng như cần thiết cho những hành giả đã tiến bộ trên con đường . Nhưng vấn đề ở chổ cần biết tôn quý , trân trọng và tử tế với những vật thể được xem là thiêng liêng .

c) Những dấn thân tổng quát của qui y

Những dấn thân thứ ba về qui y bao gồm ;
6 tập huấn liên quan đến Tam Bảo :

1-
Tái khẳng định đường hướng sống vững chắc cho chúng ta . Nói cách khác : Lập lại không ngừng những đặc trưng . Để có thể phân biệt với những đường hướng sống vững chắc khác .

2-
Để nhớ ơn sự tử tế của Tam Bảo . Với những thức ăn tâm linh đại diện cúng dường Tam Bảo như : Ngụm đầu tiên thức uống nóng . Miếng đầu tiên bửa ăn nóng của chúng ta .
Sự cúng dường được thể hiện thông thường bằng cách mô phỏng . Cũng có thể đặt trước bức tượng hay tranh đức Phật và sau đó thọ thực .

Không cần thiết đọc lên lời cầu nguyện . Vì những câu cầu nguyện thường được soạn bằng tiếng Tây tạng , một thứ ngôn ngữ ít ai biết đến . Tuy thế cũng có những người tuy không biết tiếng Tây tạng . Nhưng họ cảm thấy được gợi hứng khi đọc một bài cầu nguyện ngắn . Đương nhiên họ hoàn toàn tự do và thoải mái để đọc .

Chúng ta có thể hài lòng bằng cách gởi tư tưởng đến chư Phật , chẳng hạn : « Xin chư Phật rũ lòng từ bi mà dùng thức uống hay thức ăn này » . Trong trường hợp giữa chổ đông người , Nhất là họ không phải là Phật tử . Thích hợp nhất nên chứng tỏ nghi thức trong sự tế nhị . Vì với sự thực hành cầu kỳ phức tạp có thể làm người chung quanh khó chịu . Giống như chúng ta tự phơi bày một trò khôi hài kệch cm .

3-
Lấy thí dụ :
Lòng từ của Tam Bảo là phương cách gián tiếp khuyến khích người thân chọn cùng đường hướng sống như chúng ta . Nhưng không cần đồng hóa hay biến họ thành những nhà truyền giáo .

Đơn giản , có thể với một người thân quen đang rơi vào hỗn loạn . Không biết hướng về đâu để tìm trợ giúp hay tiếp tục lao vào lối sống tiêu cực .Có thể rất lợi ích khi giải thích với họ những lợi ích ; chúng ta đã có từ phương cách sống của mình .

Vấn đề không phải thuyết phục hay bắt buộc họ theo đạo Phật . Nhưng với sự vận hành bên trong mà chúng ta thể hiện trong cuộc sống . Có thể là động cơ khuyến khích và nhấn mạnh khuynh hướng tốt nhất là xây dựng lại cuộc sống chính họ .

4-
Tự nhắc nhở mình những lợi ích của đường hướng sống vững chắc . Khẳng định ba lần trong ngày và ba lần buổi tối . Thích hợp nhất là khi vừa thức dậy và trước khi rơi vào giấc ngủ .

Nói chung , sự thực hành này là lặp lại : « Tôi chọn đường hướng sống đúng đắn được gợi ý từ những giáo huấn . Từ chư Phật , Pháp và Tăng già » . Những đại sư tâm linh ; không được xem là vật bảo thứ tư như cánh cửa để đi vào Tam Bảo . Tuy trong bối cảnh Mật tông , những vị thầy thể hiện họ chính là tam bảo .

5-
Luôn lấy Tam Bảo làm điểm tựa . Trong sự khó khăn của đường hướng trong cuộc sống . Họ đã đề nghị với chúng ta - Qui y là tốt nhất . Vì Tam bảo nhấn mạnh về nhân quả và sống hết mình để loại trừ nhân xấu .

Bạn bè , người thân . Có thể tỏ ra đầy thông cảm . Nhưng họ chưa đạt đến sự tỉnh thức . Vì thế có thể dẫn chúng ta đến sai lầm . Vì họ vẫn có những vấn đề riêng . Họ chỉ có thể đề nghị hoàn toàn bị giới hạn bởi thiên kiến .

Ngược lại , nếu làm việc trong sự kiên nhẫn để vượt qua những khuyết điểm và khó khăn riêng mình với lương thức hiện thực . Chúng ta sẽ không bao giờ thất vọng với những gì dẫn đến dấn thân cuối cùng .

6-
Không bao giờ từ khước đường hướng sống vững chắc do Tam Bảo đề nghị .
Cho dù trong bất cứ hoàn cảnh nào


3- Quy y Khi Tham Gia Vào Tôn Giáo
Hay Con Đường Tâm Linh Khác Với Phật Học

Vài người đặt vấn đề : Quy y Tam Bảo có nghĩa tự quay về với chính mình theo nền tảng Phật học . Ở đây không đơn giản nhự thế , cho dù chúng ta mong muốn . Hơn nữa không thích hợp khi nói đến từ ngữ « quy theo » ; và trạng từ « Phật tử » không có trong ngôn ngữ Tây tạng .

Để khẳng định một hành giả Phật học . Người Tây tạng sử dụng thuật ngữ : « Những người sống từ bên trong » . Có nghĩa sống bên trong biên giới đường hướng sống vững chắc và hoàn toàn tích cực . Một cuộc sống như thế không đòi hỏi mang quanh cổ một sợi dây đỏ hay không bao giờ đặt chân vào nhà thờ , ngôi đền , giáo đường Do thái hay tất cả dạng thức đền thờ khác .

Điều này có nghĩa làm việc để vượt qua những khuyết điểm và thực hiện những tiềm năng riêng biệt của chính mình . Nói cách khác , thực hiện Pháp với những gợi ý từ những gì của chư Phật thể hiện trong quá khứ và những hành giả đương thời cực kỳ tỉnh thức . Cũng có nghĩa là Tăng già .

Những nỗ lực cần triệt đều theo chiều hướng này . Như nhiều vị thầy đã nói : « Kể cả vị thầy đã khuất của riêng tôi - Tsenzhab Serkhong Rinpoché . Nếu chúng ta xem những giáo huấn tử tế và tình thương trong tôn giáo như Thiên chúa giáo . Sự thực , tất cả đều tuân thủ theo đường hướng không đối kháng với đường hướng sống do Phật giáo đã đề nghị » .

Những thông điệp của nhân loại thật giống nhau cho dù bất cứ tôn giáo nào . Đường hướng sống vững chắc và tích cực do sự quy y đề nghị nhằm tự kiêng giữ 10 hành động hủy diệt như :

Loại bỏ sự sống của sinh vật . Làm phiền người khác . Có những quan hệ tình dục ngược lại với xã hội và cộng đồng . Nói dối . Gieo bất hòa bằng lời nói . Có những lời nói thô cứng và hung ác . Thích dùng những lời phù phiếm . Có những tư tưởng tham lam , hận thù , ác tâm hay duy trì những tư tưởng sai lầm .

Giả định , chọn theo đường hướng sống theo quan kiến Phật học . Chúng ta quyết tự xa lánh những giáo huấn tôn giáo , những hệ thống triết lý hay chính trị khuyến khích những thái độ hủy diệt nào đó . Cho dù bằng lời , tư tưởng hay hành động . Vì chúng làm hại chúng ta theo phương cách cá nhân . Đồng thời cũng làm phương hại đến người khác .

Hơn nữa , dù có thể tiếp tục lui tới những nơi thờ phượng . Cũng không nên tập trung về những khía cạnh văn hóa của một tôn giáo đi ngược lại với học trình và những thực hành Phật học .

Vài người có thể tự hỏi : « Quy y Mật tông không mâu thuẫn với thực hành Zen , Hatha yoga hay trong võ thuật » . Câu trả lời là không . Vì những thực hành này nhắm vào sự thành tựu những tiềm năng riêng biệt của chúng ta .

Dù vậy , tất cả những vị thầy lớn vẫn khuyên nhủ chú ta rằng : Không nên pha trộn hay làm biến chất những kỹ thuật thuộc về thiền định . Giống như chúng ta dùng súp và cà phê vào buổi sáng . Đương nhiên không thể nào đổ cà phê vào súp và lấy hỗn hợp này làm thức ăn ! .

Nhưng vẫn có thể dung hòa những kỹ thuật khác nhau trong thực hành . Với điều kiện thực hành riêng rẻ và tôn trọng những luật riêng biệt của từng kỹ thuật . Vì quả thật là vô lý khi bạn lạy ba lần trước điện thờ Thiên chúa giáo . Đồng thời tụng đọc chân ngôn thiền định với dạng thức của Zen hay Vipassana .



Những dự thính viên tích cực vào lễ khai tâm Kalachakra
hay tất cả những lễ khai tâm Mật tông khác .
Bắt đầu khởi những thệ nguyện Bồ tát đạo .

Đặc trưng của Bồ tát đạo là Bồ đề tâm . Điều này có nghĩa trái tim họ hoàn toàn vì lợi ích tha nhân . Vì sự tỉnh thức sẽ đạt đến cần phải xuyên qua lợi ích cho tất cả chúng sinh . Phật học đại thừa phân biệt hai trình độ của Bồ đề tâm là : Bồ đề tâm nguyện và Bồ đề tâm hạnh ( Sự dấn thân vào hành động ) .

Bồ đề tâm nguyện là :

Hiện hữu trong ta niềm ham muốn sâu sắc vượt qua những khuyết điểm và thực hiện những tiềm năng vì lợi ích muôn loài .

Bồ đề tâm hạnh là :

Dấn thân vào những kỹ thuật thực hành cho phép đạt đến đích này . Riêng về thệ nguyện Bồ tát đạo . Giả định chúng ta từ khước mọi hành động có hại cho Bồ đề tâm nguyện so với tâm nguyện như một người cảm nhận trong khi thực hành y khoa , và Bồ tát hạnh là dấn thân vào những giáo trình cần thiết ; và Bồ đề tâm nguyện được chia làm hai giai đoạn :

1-
Mong muốn trở thành Phật vì lợi ích chúng sinh .

2-
Không bao giờ từ khước mục tiêu cho đến khi thành tựu tối ưu .

Trước khi nghĩ phát thệ nguyện Bồ tát đạo nhân lễ khai tâm Kalachakra . Chúng ta cần phát sinh từ bên trong hai dạng thức Bồ đề tâm nguyện . Thệ nguyện không bao giờ từ khước lý tưởng Bồ tát đạo . Giả định chúng ta tập huấn 5 phạm trù những hành động đức tính gia tăng tính kiên quyết theo chiều hướng này :

Phạm trù thứ 1-

Tự nhớ lại cả ngày lẫn đêm những tác động có lợi của Bồ đề tâm . Như những bậc cha mẹ tìm lại sức mình sau khi con mình đòi hỏi sự quan tâm . Cũng như những hành giả của lý tưởng của Bồ tát đạo ; tìm lại sức mạnh mỗi khi cần phải vượt qua một chướng ngại với động lực đầu tiên là lòng từ .

Phạm trù thứ 2-

Tái khẳng định và cũng cố động lực ba lần trong ngày và 3 lần trong đêm ; tính kiên quyết cống hiến trái tim cho công việc tỉnh thức vì lợi ích tha nhân .

Phạm trù thứ 3-

Tự khép mình tích lũy tiềm năng thật tích cực tượng trưng cho rõ biết sâu sắc . Thực hành này thông thường chỉ định bằng : « Tích lủy công đức và cái nhìn thẫm thấu » . Nói cách khác , điều này có nghĩa sẵn sàng giúp đở người một cách hữu hiệu ; với sự rõ biết càng sâu sắc về hiện thực .

Phạm trừ thứ 4-

Không bao giờ từ chối giúp người hay ít ra cũng có nguyện vọng thực hiện . Dù cá tính người này có kinh khiếp đến đâu đi nữa .

Phạm trù thứ 5-

Bốn dạng thức hành xử hơi phức tạp này . Chúng ta có thể thay thế bằng bốn dạng hành xử trong sáng . Bốn hành xử của lời hứa thứ năm được định nghĩa như sau :

a)
Dừng lại sự lừa dối vị thầy tâm linh , cha mẹ và Tam Bảo . Luôn tự chứng tỏ thẳng thắng nói về những gì liên quan đến những động cơ của mình ; và khẩn cầu sự giúp đở của họ mà chúng ta sẽ đề nghị .

b)

Dừng lại ý định sai sử các Bồ tát hay xem thường họ ( Vì chỉ chư Phật mới đầy đủ sáng suốt cần thiết để nhận ra những vị Bồ tát trong cuộc đời ) . Nhìn mỗi một con người với đôi mắt thuần khiết . Và nhận thấy họ là một đạo sư đầy tiêm năng . Nhưng khi đứng trước thái độ thô lỗ hay khó chịu . Chúng ta không cần bắt chước người đã phô bày .

c)
Dừng lại những thành xử dẫn đến sự hối tiếc . Vì nhận ra họ rất tích cực trong hành động . Như ; nếu có ai đó đề nghị đánh máy giúp chúng ta một lá thư , và họ đã thể hiện với vô số lỗi chính tả . Không cần phải quat mắng hay chê trách . Vì như thế đã phụ lòng họ và chắc chắn họ sẽ từ chối giúp đở về sau .

Nên khuyến khích với thái độ xây dựng . Nếu nhận thấy họ sẵn sàng tiếp thu những khuyết điểm và lầm lẫn . Quyết tâm hành sử như thế nào để có thể vượt qua và thể hiện tiềm năng của lòng tử tế .

d)
Dừng lại sự phê phán hay kiêu căng trong quan hệ với người khác .
Có nghĩa còn che dấu những khuyết điểm ; chỉ phô bày những phẩm chất không thực . Sẵn sàng giúp đở mọi người . Luôn luôn tỏ ra trung thực và thẳng thắng khi thú nhận khả năng mình còn nhiều giới hạn . Vì thực hiện những lời hứa khi chúng ta không có khả năng thì vô cùng tai ác . Vì đã cho họ những hy vọng hảo huyền .

Phạm trù thứ 6-

Từ khước hay chối bỏ thánh Pháp .

Có nghĩa vứt bỏ , không xem trọng những văn bản thuôc ba thừa : Thanh Văn - Shravaka , Độc giác Phật - Pratyeboudha , Đại thừa - Mahayana . Viện dẫn lý do đây không phải là những bản văn do đức Phật đã tuyên thuyết hay xúi dục người khác bác bỏ vì lẽ này .

Các vị Thanh văn thực hành những giáo huấn đức Phật dưới sự chỉ đạo của một giảng sư . Trong khi Độc giác Phật là những hành giả đơn độc . Nhất là vào thời đại tâm thức đen tối và khi giáo huấn về Pháp chưa sẵn sàng lan rộng . Và để tiến bộ , họ chỉ còn cách lãnh hội bằng trực giác đã thành đạt do thực hành và tìm hiểu những giáo huấn trong những cuộc sống của các đời trước .

Những giáo huấn của hai thừa này hình thành Tiểu thừa của Kim cang thừa , nhằm đạt đến sự giải thoát cá nhân khỏi luân hồi ; và Đại thừa của Kim cang thừa , dạy những phương pháp để đạt đến tỉnh thức vì tất cả chúng sinh . Từ chối sự chân chính của tập họp những văn bản , hay chỉ một vài văn bản sẽ dẫn đến sự sa ngã nền tảng .

Điều này không nói chúng ta phải trừu tượng hóa phương pháp nội suy chứa đựng trong giáo huấn Phật học . Vì đức Phật chỉ truyền khẩu từ nhiều thế kỷ trước khi chúng được lưu lại bằng chử viết như ngày hôm nay .

Những đại sư đã thiết lập những qui tắc cho Phật học Tây tạng để tránh rơi vào những văn bản thiếu chân chính . Để đảm bảo giá trị của văn bản , họ sử dụng những tiêu chuẩn do ngài Dharmakati xác định .

Dharmakati cho rằng : “ Nguyên lý tính chân chính của văn bản cần được đánh giá bằng những thành quả qua thực hành ” . Ngài cũng chính là một tái sinh hoàn hảo đã đạt đến giải thoát và tỉnh thức .

Những khác biệt có thể nhận ra sự khác biệt trong cùng một văn bản . Thường là những dấu hiệu do biên tập hay dịch thuật được thực hiện từ những thời đại khác nhau . Vì thế khi nghiên cứu văn bản , nhờ vào những phương pháp phân tích đương đại thường gặt hái tốt hơn . Hơn nữa , nó không hề mâu thuẫn với những thệ nguyện riêng biệt của Bồ tát đạo .

Phạm trù thứ 7-

Cởi bỏ hay ăn cắp tăng phục là một nguyên nhân của sự sa ngã .

Dành riêng cho các tăng sĩ . Dù trong bất cứ trình độ học vấn hay thực hành nào , với những động lực ác ý hay ác tâm . Được xem nghiêm trọng nhất là : Đánh hay giết hại nam hoặc nữ tăng . Chửi bới , tịch thu tài sản hay đuổi họ ra khỏi tu viện . Dù không đuổi ; cũng vẫn xem như là một nguyên nhân của sa ngã trong trường hợp nam hay nữ tăng phạm một trong 4 thệ nguyện tu viện chủ yếu như : Sát sinh , nặng nhất là giết người . Trộm cắp , nặng nhất là tài sản tu viện . Nói dối , đặc biệt đối về những thành tựu tâm linh . Thệ nguyện về sự trinh bạch .

Phạm trù thứ 8-

Phạm một trong 5 tội ác ghê tởm nhất ( ngũ nghịch ) như :

Giết cha - Giết mẹ - Giết Arhat ( Người đã giải thoát ) - Làm chảy máu Phật với những mục đích đáng chê trách - Dùng lời nói ( xúc xiểm ) gây ra rạn nứt trong cộng đồng tu viện .

Phạm trù thứ 9-

Bảo thủ những tư tưởng sai lầm hay nói ngược sự thật .

Nói cách khác ; không nhận ra điều thật và có giá trị . Chẳng hạn về luật nhân quả ứng dụng cho thái độ và đường hướng sống vững bền và tích cực . Chu kỳ luân hồi và giải thoát chúng ta khỏi luân hồi . Những người đối kháng với chúng ta và chúng ta đối kháng với những người bênh vực giáo điều này .

Phạm trù thứ 10-

Tàn phá trú xứ .

Chẳng hạn phá tan một thành phố , dù bằng bất cứ phương tiện nào hay làm xuống cấp một thành phố hay phố phường . Làm mất cảnh quang thiên nhiên . Không màng đến sự sinh tồn của người và thú vật , cho dù có thể hay không tạo nguy cơ cho sự tồn vong của chúng và làm mất cân bằng sinh thái .

Phạm trù 11-

Khuyên người khác không cung cấp tứ sự cúng dường
cho hành giả tâm thức chưa chuẩn bị đầy đủ .

Chẳng hạn như : Những người dù đã phát triển Bồ đề tâm , nhưng chưa thấu hiểu tính không . Như vậy họ sẽ hoang mang và có thể bỏ dở con Bồ tát đạo và đi theo lợi ích của con đường giải thoát cá nhân .

Như thế , hành giả có thể cho rằng : Tất cả hiện tượng vắng bặt hiện hữu nội tại . Nhận thấy không gì hiện hữu tuyệt đối và làm việc cho lợi ích người khác sẽ uổng công . Tương tự , cần thận trọng khi giảng dạy về tính không cho những hành giả hiểu sai lệch . Họ sẽ hoàn toàn khước từ Pháp . Chẳng hạn sẽ kết luận : Phật học giảng về sự không hiện hữu của mọi sự .

Như thế thực hành không còn ý nghĩa gì cả . Vì dù cho có trực giác thật mạnh , cũng rất khó khẳng định người nào đã sẵn sàng những giáo huấn về tính không và diễn dịch tốt về tính không không thiên lệch . Vậy , điều quan trọng là : Nên giảng dạy tính không một cách tiệm tiến cho hành giả cần thiết . Từ từ giải thích và kiểm soát từng giai đoạn họ lĩnh hội

Phạm trù thứ 12-

Hành giả chệch hướng khỏi con đường tỉnh thức .

Những người đã phát triển Bồ đề tâm và đang cố đạt đến tỉnh thức . Sự sa ngã này muốn nói , họ không có khả năng hành xử đầy rộng lượng , kiên nhẫn . . . Như vậy , cố tình gieo vào tâm thức mình không thể đạt đến Phật tính và chỉ vừa lòng trong việc giải thoát cá nhân . Sự sa ngã này được xem như hoàn toàn nếu những hành giả cương quyết quay lưng với Pháp .

Phạm trù thứ 13-

Hành giả hoang mang về những thệ nguyện gìn giử giới hạnh ( Pratimoksha ) ,
đối tượng là sự giải thoát cá nhân
.

Điều này nhắm vào những người thế tục , sơ cơ . Cho rằng những nam - nữ tăng đã thụ phong , cần gìn giữ những thệ nguyện là vô ích . Cho rằng theo quan điểm Bồ tát đạo . Tất cả hành động đều thuần khiết nên không cần giừ giới . Sự sa ngã này được xem như hoàn thành nếu hành giả tuyên bố từ khước thật sự những thệ nguyện bằng những lời tuyên bố đại loại như thế .

Phạm trù 14-

Dèm pha thừa Thanh Văn .

Như đã thấy ở điểm phần thứ 6 . Không tin vào sự chân chính của những văn bản trong thừa này hay thừa Độc giác phật . Dẫn đến căn bản của sự sa ngã . Ở đây , nguyên nhân sa ngã do từ chối hiệu quả những giáo huấn và khẳng định sự thực hành này không cho phép vượt qua những cảm xúc và những thái độ nhiễu loạn . Chẳng hạn giáo huấn thiền định Vipassana - Sự thực hành cái nhìn thẫm thấu và trong suốt trong khoảng lặng .

Phạm trù 15-

Khẳng định đã thể hiện tính không trong khi chưa hề trải nghiệm .

Sự sa ngã do lầm lẫn về giáo huấn về tính không hay viết về tính không khi và cho rằng đã thực hiện được nó . Vì tâm ganh tỵ với những đại sư . Ngay cả dự ý nào đó dù không cố tình làm tổn thương bất cứ môn sinh hay đọc giả nào . Sự sa ngã vẫn tác động .

Thế nên cần nói thêm sự sa ngã chưa hoàn toàn nếu những môn sinh hay đọc giả chưa nắm được những giải thích . Dù cho thệ nguyện này không liên quan đến tính không . Cần hiểu , nó dính liền với giáo huấn Bồ đề tâm và ngay cả những điểm khác của Pháp . Từ đó mở rộng những giới hạn của lãnh hội về tính không .

Phạm trù thứ 16-

Đón nhận vật chất bị lấy cắp dù trực tiếp hay gián tiếp .

Dưới dạng quà cáp , lương bổng , phần thưởng . Những nạn nhân là chư Phật , Pháp hay Tăng già ( Ngay cả việc nam hay nữ tăng bị tổn thương )

Phạm trù thứ 17-

Sắp đặt những hành xử bất công .

Có nghĩa có những thành kiến chống lại những hành giả sống nghiêm túc với sự giận dữ hay ác tâm , và dễ dãi với những hành giả yếu kém trên con đường hay chưa thành tựu do bám chấp vào hiện tượng .

Chẳng hạn như , vị thầy dành thì giờ dạy riêng cho một vài học trò nào đó với sự yêu cầu học phí quá mức , và lơ là với những hành giả học và sống nghiêm túc, nhưng không có lợi tức .

Phạm trù thứ 18-

Từ khước Bồ đề tâm .

Điều này phá vở thệ nguyện đã nhận để đạt tỉnh thức vì lợi ích chúng sinh . Cho dù , là Bồ đề nguyện , và từ khước nó có nghĩa đồng thời từ khước Bồ đề hạnh .



Những thệ nguyện Bồ tát đạo đòi hỏi chúng ta phải từ khước hai phạm trù thuộc về những hành động tiêu cực .

Phạm trù thứ 1 :Được chia làm 18 lối hành xử sai lầm .

Phạm trù thứ hai :Chia làm 46 lối sai lầm .

Mười tám lối hành xử sai lầm dẫn đến vấn đề được gọi là nền tảng của sự sa ngã . Có nghĩa cắt hoàn toàn rời bỏ những thệ nguyện của Bồ tát đạo đã thệ nguyện gìn giử . Từ « sa ngã » cần được hiểu theo chiều hướng đời sống tâm linh bị suy sụp . Ðiều này ngăn trở sự phát triển những đặc trưng của tâm thức tích cực .

Từ ngữ « nền tảng » ; « căn bản » hay « nguồn gốc » , có nghĩa sự việc cần loại trừ tận căn để . Phạm trù thứ nhất của những thệ nguyện ; đôi khi còn được gọi : « Những thệ nguyện nền tảng » và cái thứ hai « Những thệ nguyện phụ » . Đề nghị những đường hướng chỉ đạo những thái độ cần phải tránh .

Những thệ nguyện Bồ tát đạo không những định hướng chúng ta dấn thân vào cuộc sống hiện tại mà kể cả tương lai . Chúng dẫn đến sự thành tựu mục tiêu tối ưu - Sự tỉnh thức và tồn tại liên tục trong sự rõ biết của chúng ta từ đời này sang đời khác .

Những hành giả tiếp nhận những thệ nguyện trong đời trước . Thệ nguyện này không bị mất nếu phạm phải ; trừ khi chúng ta vẫn tiếp tục lặp lại lầm lẫn trong cuộc sống . Cũng thế ; nếu lập lại những dấn thân sẽ cũng cố thêm sự vững chắc cho thệ nguyện và sự tỉnh thức sẽ không ngừng phát triển .

Đây là lý do những vị thầy Đại thừa thường xuyên nhấn mạnh tầm quan trọng của tâm thức ; về những thệ nguyện toàn vẹn và mạnh mẻ vào giây phút lâm chung . Sự hiện diện thường trực trong liên tục tính về rõ biết , sẽ tăng cường tiềm năng tích cực từ đời này sang đời khác .

Tsongkhapa , sáng lập viên trường phái Gélugpa ở thế kỷ VX , đã soạn một bình luận những thệ nguyện Bồ tát đạo . Nhờ vào bình luận này , chúng ta đặt nền tảng định nghĩa về 18 hành động tiêu cực dẫn đến căn bản của sự sa ngã . Như thế , chúng ta cần hiểu rõ về chúng trước khi chọn tham dự vào nghi lễ trao truyền quyền năng Kalachakra .

1-

Nhận định cao về mình và thường dèm pha hay xúc siễm kẻ khác . Điều này có thể tạo ra những lời làm mích lòng người khác ở hoàn cảnh thấp kém . Với dự định tìm lợi ích vật chất , những lời khen ngợi , tình thương , sự tôn kính hay đơn giản chỉ do tâm ganh tỵ . Cho dù những lời này có thực hay không ; cũng không khác biệt . Những ai ăn to nói lớn cho rằng mình đã sở hữu nền tảng Phật học chân chính , cần phải lưu ý . Vì đó là nguy cơ rơi vào vào những lầm lẫn đáng trách .

2-

Từ chối chia xẻ những giáo huấn hay gia sản của Pháp , vì động lực bám chấp hay bủn xỉn . Chẳng hạn , vì ganh tị mà cất dấu những bản ghi chú đã ghi suốt quá trình tham dực khóa giáo huấn . Từ chối cho mượn máy thâu băng hay dè xẻn thời gian không giúp đở cho những ai yêu cầu sự trợ giúp .

3-

Không nói lời xin lỗi người hay đánh ai đó với tâm giận dữ . Chẳng hạn , vẫn tiếp tục chửi rủa . Cho dù họ xin lỗi vì nhận ra sự sai lầm hay tiếp tục đánh đập khi có người thứ ba yêu cầu dừng lại . Trong thực tế , tuy có thể làm một đứa trẻ quá nghổ nghịch thay đổi thái độ . Nhưng phải kiên quyết từ chối những hành động bắt buộc người khác phải tuân theo kỷ luật dưới áp lực của sự giận dữ .

4-

Tỏ ra khinh thường giáo huấn Đại thừa và đề nghị những giáo huấn tự sáng tạo . Điều này có nghĩa từ khước những giáo huấn của Bồ tát đạo . Cũng như những nguyên lý đạo đức được định nghĩa bằng những hành xử đúng đắn , để thay thế chúng bằng những thứ khác .

Cho dù có thể chấp nhận , nhưng vẫn có nguy cơ làm hoang mang ; vì sự tuyên bố điều này mới chân chính và mang ra giảng dạy để được tiếng khen ngợi và có được đông học trò . Chẳng hạn như một phạm trù nào đó về sự sa ngã .

Có thể lấy thí dụ : Một giảng sư muốn giử học trò đã nhắm mắt trước những thói quen trụy lạc và giải thích : Điều này không xem như đáng chê trách vì chúng không làm phiền người khác . Mỗi người chúng ta đều có nguy cơ phạm lỗi này trong một cuộc nói chuyện thông thường .

5-

Hợp pháp hóa những vật cúng dường dành cho Tam Bảo , do ăn cắp , lũng đoạn một cách trực tiếp hay gián tiếp và xem như là của riêng . Những gì liên quan đến thuật ngữ Tăng già trong bối cảnh này . Có nghĩa cần một chúng ít nhất 4 người ; bất luận nam hay nữ trong tăng chúng đồng ý . Vật ăn cắp hay biển thủ có thể là tiền được tín thí đóng góp dùng để xây dựng đền chùa hay dùng để phát hành kinh điển ; hoặc mua thực phẩm cho tăng chúng thọ dụng .



Sau khi nghiên cứu về thệ nguyện Bồ tát đạo .
Phần đông có thể cho rằng :
“ Quả rất khó để giữ gìn và bắt đầu sợ hãi ” .

Muốn gạt bỏ những nỗi sợ hãi này . Tốt nhất là nên tìm hiểu những giải thích rõ ràng về ý nghĩa của thuật ngữ : « Thệ nguyện » . Điều này có thể thể hiện bằng hai cách :

1-
Thệ nguyện có tác dụng ;
Làm chúng ta rời xa thái độ tiêu cực trong cuộc sống .
2-
Thệ nguyện hợp thành hình thức tế nhị để đưa vào cuộc sống .

Nhưng để gìn giữ thệ nguyện đòi hỏi cần phải thật sự chú ý , rõ biết và hoàn toàn tự chủ . Sự chú ý sẽ giúp cho chúng ta gìn giữ trong tâm thức những thệ nguyện . Sự rõ biết cho phép tập trung vào thái độ để ứng dụng thệ nguyện một cách hài hòa .

Khi rõ biết mình vi phạm hay thể hiện Bồ tát hạnh . Chúng ta cũng nên tự giữ mình lại . Phương cách hành xử này sẽ hình thành một khung đạo đức sống trong sự bảo tồn chính mình .

Chú ý vào những thệ nguyện và giữ gìn không đi ngược bản tính chúng ta . Điều này không quá khó khăn để thực hiện . Giống như khi lái xe , chúng ta mặc nhiên tôn trọng tốt vài nguyên tắc nào đó để tránh tai nạn .

Những nguyên tắc này đào luyện cách lái như không nhấn mạnh bàn đạp ga và xem chừng bên phải có những biển chỉ dẫn những phương cách chắc chắn và thích hợp nhất để đi đến nơi mình muốn .

Như thế , sau một thời gian thực hành kỹ thuật và tôn trọng luật đi đường sẽ trở thành bản chất thứ hai ( thuộc tính ) . Tất cả không còn khó khăn và không một chút gò bó . Tương tự thế , việc giữ gìn thệ nguyện Bồ tát đạo hay những phạm trù thệ nguyện khác có liên quan đến đạo đức Phật học sẽ trở thành những thuộc tính tốt .



Tự phá vở thệ nguyện với hình thức tế nhị
đang trên đà biến mất khỏi cuộc sống vì không biết gìn giữ gìn .
Điều này tạo thành nguồn gốc của sa ngã ;
Và chỉ có một cách trị liệu :
“ Thay đổi thái độ .
Chẳng hạn chúng ta tự tịnh hóa nhờ thiền định về tình thương và lòng từ .
Sau đó lập lại những thệ nguyện ” .

Trạng thái tâm thức được giới thiệu ở điều 9 hay 18 . Cũng như duy trì cái nhìn sai lầm hay đi ngược sự thật hoặc từ khước Bồ đề tâm . Làm mất đạo đức sống sau khi nhận những thệ nguyện Bồ tát đạo . Có nghĩa tất cả những thệ nguyện , không riêng chỉ một thệ nguyện riêng biệt nào .

Sự kiện vi phạm một trong 16 thệ nguyện sẽ dẫn đến mầm móng sa ngã . Sự vi phạm này đi kèm 4 yếu tố nghiêm trọng ; được duy trì ngay giây phút sau quyết định không tuân thủ và đi đến kết thúc hành động vi phạm . Bốn yếu tố này là :

1-
Không rõ biết tính độc hại của hành động vi phạm .
Chỉ nhìn thấy những điều lợi .
Nên vi phạm không mảy may hối tiếc .

2-Đã có thói quen vi phạm từ lâu ,
Không mong muốn hay có dự tính từ khước tái vi phạm ,
Trong hiện tại hay cả tương lai .
3-Thích và dấn thân vào hành động tiêu cực một cách vui vẻ .

4-Mất tinh thần danh dự và phẩm cách .
Nói cách khác không cảm nhận bất cứ xấu hổ nào ;
Trêu tức những gì giảng sư hay bất cứ ai khác ;
Có thể suy nghĩ về thái độ của mình .
Vì thế ,
Không dự tính sửa chửa sai lầm đã phạm .

Cho dù bốn thái độ tâm thức này không đi kèm một trong những 18 vi phạm thệ nguyện Bồ tát đạo . Nhưng hình thức ứng dụng vào cuộc sống đều tùy thuộc vào sự kiện đánh mất hay có ý chí giữ gìn .

Thường thì chúng ta mất sự nồng nhiệt trên con đường . Nên nhưng những gì liên quan đến thệ nguyện Bồ tát đạo được nhấn mạnh vào sự khác biệt giữa phá vở và đánh mất toàn diện .

Chẳng hạn , chúng ta từ chối cho người khác mượn quyển sách nói về Pháp do bám chấp hay bủn xỉn . Sự từ chối không chỉ vì họ có thể làm đổ cà phê lên sách hay không trả lại chúng ta . Vì không có thói quen cho mượn sách hay mong muốn thay đổi thái độ ngay bây giờ hay trong tương lai . Hay việc từ chối có thể mang đến niềm vui cho chúng ta . Chúng ta không bao giờ xấu hỗ khi nói không .

Nhưng dù thế nào đi nữa , vấn đề dấn thân để làm việc cho sự tỉnh thức tất cả chúng sinh , trong trường hợp này những diễn tiến cần thiết là : Cần chia xẻ tất cả những phương tiện có thể về sự hiểu biết Pháp cho mọi người .

Thái độ không làm phiền ai và không lo âu về những gì giảng sư có thể suy nghĩ . Nhất là không có dự tính thực hiện bất cứ ý định gì để sửa chửa sai lầm . Nếu bốn yếu tố trầm trọng này đồng thời hiện diện trong tâm thức . Có nghĩa chúng ta đã đánh mất hình thức Bồ tát đạo trong phương thức sống . Chúng ta gần như hoàn toàn lầm lẫn về những giáo huấn Đại thừa và đánh mất những thệ nguyện về Bồ tát đạo .

Nếu bốn yếu tố trầm trọng không hiện diện đồng thời trong tâm thức . Lỗi lầm được diễn dịch như sự buông thả và hình thức gìn giử Bồ tất đạo trong phương thức sống vẫn tồn tại . Những thệ nguyện không bị mất đi và vẫn còn hiện diện trong tâm thức cho dù dưới dạng thức yếu ớt nào đó .


Vi phạm một trong 18 thệ nguyện vắng mặt 4 yếu tố trầm trọng ,
thật sự chưa thể làm suy yếu những thệ nguyện Bồ tát đạo .
Chẳng hạn không cho mượn sách ,
tuy biết rõ thái độ này đi ngược lại những thệ nguyện mà chúng ta đã nhận .
Nhưng không phải do thói quen và không hài lòng .
Nhất là lo lắng về danh dự , phẩm chất khi có thái độ như thế .

Thực ra , lúc nào cũng có lý do hợp lý để không cho người khác mượn sách . Có thể chúng ta cần đến hay đã hứa với người khác . Động lực này không phải là bám chấp hay bủn xỉn . Chúng ta xin lỗi và cho biết lý do từ chối và hứa cho mượn khi có thể .

Bù lại , có thể đề nghị cho họ mượn những ghi chú . Trong trường hợp này , hình thức Bồ tát hạnh trong cuộc sống hoàn toàn được gìn giữ . Nó chỉ bắt đầu suy yếu dưới ảnh hưởng của bám chấp và bủn xỉn .

Nếu trong tâm thức hiện hữu bốn yếu tố trầm trọng . Chắc chắn chúng ta hoàn toàn bị hai cảm xúc nhiễu loạn này chi phối . Vì không cần làm gì để vượt qua hay để thực hiện những tiềm năng để có lợi ích cho người khác . Khi từ khước Bồ đề tâm nguyện hay Bồ đề tâm hạnh . Chúng ta đã đánh mất những thệ nguyện Bồ tát đạo tương ưng .

Nhưng gìn giữ thệ nguyện có liên quan đến sự chia xẻ những giáo huấn về Pháp hay tất cả nguồn hiểu biết khác , vẫn không thể giải thoát chúng ta khỏi sự bám chấp và sự bủn xỉn . Điều này không chỉ đặt chúng ta cần thoát khỏi sự chi phối của chúng và sự việc cho người khác mượn quyển sách , không có nghĩa không còn bám chấp và bủn xỉn . Dù vậy , việc gìn giữ gìn thệ nguyện cũng góp phần bứng gốc những cảm xúc nhiễu loạn trong tâm thức và giải phóng chúng ta khỏi những vấn đề và những đau khổ theo sau .


Khi những thệ nguyện đã mất sức mạnh hay mất vì vi phạm .
Điều cần phải làm là chấp nhận sai lầm .
Nếu , ngay giây phút phá vở thệ nguyện ,
rõ biết mình vừa vi phạm một lỗi và nhận thức lỗi lầm .
Sau đó phát sinh trong tâm thức 4 yếu tố sau đây
( tác động như những sức mạnh ngược lại ) :

1-
Hối tiếc hành động vi phạm
, nhưng không cần vất vã trong mặc cảm tội lỗi . Hối tiếc , có nghĩa không muốn tái vi phạm hành động sai lầm hay hối tiếc sau khi đã vi phạm . Hoàn toàn ngược lại với người cảm nhận khoái lạc trong hành động .

Mặc cảm tội lỗi riêng nó tiếp dẫn theo hình ảnh bản ngã tiêu cực . Chúng ta đã tự đồng hóa với hành động đáng chê trách hay ngu xuẩn và lặp lại một cách bệnh hoạn thay vì buông bỏ . Vì thế mặc cảm tội lỗi luôn luôn vô ích .

Chẳng hạn , nếu ăn cái gì đó sinh bệnh . Chúng ta cảm nhận sự hối tiếc vì thấy mình sai lầm . Nhưng việc này không phải là cố phạm tội . Chúng ta có thể có trách nhiệm với những hành động và hậu quả . Nhưng không phải là thủ phạm . Vì thế không nên tự lên án những hành động đáng chê trách hay ngu xuẩn ; vì tưởng mình không còn giá trị cá nhân hay phẩm chất .

2-
Hết mình thực hiện để không lặp lại sai lầm đã phạm
.

Kể cả khi dự tính này hiện diện trong tâm thức sau khi vi phạm thệ nguyện và khẳng định lại vấn đề một cách hoàn toàn rõ biết .

3-
Quay về thệ nguyện căn bản
.

Điều này có nghĩa tái khẳng định đường hướng sống bền vững hoàn toàn tích cực . Lấy lại quyết tâm thực hiện tỉnh thức vì lợi ích tất cả chúng sinh . Nói cách khác , chúng ta làm tươi mới lại sự qui y và hồi sinh Bồ đề tâm nguyện .

4-
Lấy những quyết định cần thiết để hủy bỏ những hệ quả vi phạm
. Chẳng hạn thiền định về tình thương và lòng rộng lượng xin lỗi về thái độ mình hay bằng bất cứ hành động tích cực nào .

Để có thể hành động xây dựng . Chúng ta cần gìn giữ danh dự và phẩm cách . Vì sự trực nhận về bản ngã tích cực ; có khả năng tiêu diệt những hệ quả của hành động tiêu cực đã phạm . Ngay cả nếu có những cảm nhận xấu hỗ và cực kỳ khó chịu trong giây phút vi phạm . Thái độ tích cực này sẽ củng cố chiều hướng phẩm cách và danh dự trước mọi người .

Những gì vừa mới nói , có thể suy ra thực ra , để đánh mất những thệ nguyện Bồ tát đạo cũng rất khó . Càng lâu dài về sau , chúng ta càng tôn kính con đường và cố giữ gìn như đường hướng chính xác cho cuộc sống .

Vì lý do , khi cảm xúc nhiễu loạn làm phá vở thệ nguyện riêng biệt . Bốn yếu tố nghiêm trọng hiếm khi xuất hiện đồng thời trong tâm thức . Hơn nữa , khi có cái nhìn sai lầm về những sự việc đi ngược lai nguyên lý Phật học ; hay từ khước Bồ đề tâm . Sự kiện chấp nhận sai lầm sẽ mang đến tâm thức những sức mạnh ngược lại như sự hối tiếc , để lặp lại thệ nguyện về con đường Bồ tát hạnh .

Vì thế , ở giây phút quyết định . Khi chúng ta muốn hay không nhận những thệ nguyện Bồ tát đạo . Tốt hơn nên tự nhắc nhở : Nên dấn thân hết mình để giữ gìn như những tiêu chuẩn để sống hơn xem nó là cố hoàn thiện .

Đương nhiên , hoàn toàn tốt nếu không phá vở thệ nguyện . Hơn nữa , không bao giờ đánh mất . Cũng như , nếu bị gảy một chân , chúng ta vẫn có thể bước đi bộ sau thời gian phục hồi chức năng . Nhưng sự thật là chúng ta bị què quặc .


Phạm trù thệ nguyện và 46 hành động sai lầm được chia thành nhóm 7 ,
ảnh hưởng đến 6 thái độ có tầm quan trọng lớn
gọi là : « Những Hoàn thiện » và thái độ nhân từ .
Sáu Hoàn Thiện là :
“ Bố thí , Kỷ luật đạo đức , khoan thứ nhẫn nại ,
hăng hái tích cực , ổn định tâm thức và rõ biết phân biện ” .
Thiếu tôn kính bậc trưởng thượng là hành động sai lầm nghiêm trọng .

Hành động sai lầm này làm ngăn trở sự tiến bộ của tâm linh . Tuy vẫn không làm mất thệ nguyện Bồ tát đạo . Ngay cả khi đi kèm với bốn yếu tố nghiêm trọng . Hiển nhiên tốt nhất là yếu tố này càng ít hiện diện trong tâm thức thì càng tốt . Cả về số lượng cũng như sức mạnh của nó .

Khi phạm phải một hành động sai lầm . Sự khuyên bảo tốt nhất vẫn là nhận ra lỗi lầm càng nhanh càng tốt và lập tức nảy sinh những sức mạnh tích cực để loại trừ chúng ( Như đã nhận biết trong những thệ nguyện nền tảng Bồ tát đạo ) .

Và 46 thệ nguyện phụ này được giải thích từng chi tiết , cũng như phần lớn những trường hợp ngoại lệ . Nhưng không cần thiết nghiên cứu thật chính xác như sự dấn thân trên Bồ tát đạo . Nói chung , sự phát triển 6 Hoàn Thiện và lợi ích có thể mang lại cho người bị cản trở bởi tính chất của những hành động sai lầm .

Có nghĩa những động cơ tác động vào tư tưởng . Nếu bắt nguồn từ tâm thức hoang mang . Chẳng hạn đi theo sau tình cảm bám chấp , giận dữ , hận thù hay kiêu hãnh .

Điều sai lầm phải chịu sẽ trầm trọng hơn nếu chúng hiện diện trong tâm thức yên bình với nguyên nhân : Lãnh đạm , lười biếng hay quên lãng . Sự lãnh đạm có thể được xem như thiếu đức tin hay tôn kính đối với thực hành .

Đến nỗi , vì lười biếng , nên chúng ta lãng quên và để tất cả ra bên lề thực hành . Vì làm như thế chúng ta cảm thấy có vẻ dễ chịu hơn hay nhất là không làm gì cả . Với sự thiếu chú ý , chúng ta hoàn toàn quên cần phải dấn thân để giúp người .

Nhưng 46 hành động sai lầm không được xem như lỗi . Khi có dự tính gạt chúng ra khỏi tâm thức ; trong khi những cảm xúc và những thái độ nhiễu loạn vẫn còn neo chặt trong tâm thức . Nhờ vào đó , chúng ta vẫn có thể tác động với sự một kiểm soát vừa đủ hữu hiệu để hóa giải .HET=OM MANI PADME HUM.( 3 LAN ).GESHE TASHI TSERING.( MHDT ).14/4/2012.

No comments:

Post a Comment