Friday, 13 April 2012

Chương III , IV và V Mật tông Kalachakra
giới thiệu những chu kỳ vận hành khác .

Chương III , hoàn toàn nói về sự trao truyền quyền năng ,
mở rộng những bài giảng về những phẩm chất của người thầy chân chính .

Bài giảng này được kèm theo một số những giáo huấn liên quan đến việc nên thận trọng để chọn lựa vị thầy chân chính . Rất quan trọng tận dụng tính phán đoán của chúng ta ngay giây phút này


Sự thành tựu của mục tiêu tối ưu là sự tỉnh thức
và thái độ trọn vẹn làm lợi ích cho chúng sinh .
Tùy vào phẩm chất quan hệ của chúng ta với thầy .
Quan hệ này phải thuần khiết và chân thành .
Sau khi thực hiện những quan hệ mật thiết
và đã hoàn toàn tin tưởng và xác tín .
Chúng ta có thể yêu cầu ông trao truyền quyền năng .

Phần đông chúng ta không may mắn hay có cơ hội thiệt lập quan hệ như thế với vị thầy lớn , thường xuyên trao truyền lễ Khai tâm Kalachakra . Vì thế không có chọn lựa nào khác hơn là tin vào lương thức mình hay hiểu nhiên dựa vào những nhân chứng hay những người đáng tin cậy .

Những ai có thể gặp riêng vị thầy ; họ hy vọng sẽ được đón nhận sự trao truyền quyền năng . Cần phải ra mắt bằng một lễ khai tâm với niềm xác tín đặt nền tảng nhận định hơn do những lời đồn đại về danh tiếng . Trong trường hợp này , sự yêu cầu khai tâm sẽ được thực hiện trong những giai đoạn đầu tiên của nghi lễ .

Mật tông Kalachakra nói rõ :

Một vị thầy chân chính của dòng Kalachakra có những quan hệ mật thiết và không gián đoạn với những vị thầy khác về thực hành , gìn giử lời thệ nguyện và nhận rõ bản chất hiện thực của sự thật .

Ông gìn giữ chu đáo những lời nguyện Bồ tát và Mật tông và thực hành thành công những thiền định liên quan đến giai đoạn sáng tạo và thành tựu của hệ thống Kalachakra. Ông đã giải trừ những ràng buộc . Ngay cả với gia đình , những người bạn và thân vật lý .

Tương tự , tâm thức ông không bị tham , sân , vô minh , vô lối , cứng đầu , lòng kiêu hãnh , ganh tỵ và bỏn sẻn . Ông biểu lộ sự kiên nhẫn lớn lao với học trò , mà ông chân thành với sự thoải mái trong sự bất vụ lợi thuần khiết nhất . Ông cũng không chờ đợi hay đòi hỏi phục vụ , tình thương , lòng tôn kính hay muốn nổi danh hoặc giàu có về vật chất .

Động lực duy nhất ông là : Bồ đề tâm , thành tựu tỉnh thức vì lợi ích chúng sinh . Sẵn có tâm thức của con đường dẫn đến tỉnh thức , ông có đủ tư cách để hướng dẫn học trò để có cùng một tâm thức . Đồng thời giải phóng họ khỏi nỗi sợ hãi .

Đã đạt đến giai đoạn rõ biết không lay chuyển của niềm nội hỉ từ tính không . Ông hoàn toàn đơn độc và không rơi vào cực điểm khoái cảm vật lý , để đánh mất trạng thái nội hỉ .

Như vậy , vị thầy Kalachakra đã đạt đến sự ổn định tâm thức . Chủ động những cảm xúc và đầy lương thức , kiên nhẫn , trung thực , không tự phụ , ân cần với người . Có thể ông giỏi về văn chương , có chuyên môn về những kỹ thuật và hiểu biết về nghi thức Mật tông . Có nghĩa , ông có được tất cả những phẩm chất và khả năng cần thiết để chà nát bốn Mara là những sự chồng chéo của quỷ dữ .

Theo hệ thống Kalachakra , bốn Mara tượng trưng những chướng ngại hay bế tắc trong thân , lời và tâm thức . Cũng như những chướng ngại do những cái nhìn sai lầm về hiện thực . Thí dụ về cái nhìn sai lầm , như những văn bản trình bày : Thái độ kiêng cử mọi hành động xây dựng dưới lý do hạnh phúc luôn là tư chất riêng của những thượng đế .

Những văn bản cũng quan tâm ; khi chúng ta phải lựa chọn giữa ba vị thầy ngang nhau . Người đầu tiên là nhà tu được thụ phong đầy đủ . Người thứ hai là người sơ cơ và người thứ ba phi tôn giáo . Chúng ta nên chọn người thứ nhất .

Thực sự , được dấn thân vào thực hành Kalachakra với một giảng sư phi tôn giáo , chắc chắn hơn một tu sĩ được thụ phong đầy đủ . Vì họ đã đạt tới những giáo huấn đức Phật .

Khi nhìn thấy điều này , vài người có thể tự mô phỏng đạo tràng hay cộng đồng tu viện . Một trong những tam bảo được xem như ; môi trường tốt cho những thực tập sinh có được nhân sinh quan vững chắc ; nhưng có thể nói không còn cần thiết .

Điều chủ yếu là : Sự tôn kính với tâm thức thiên về khuynh hướng tây phương đã làm giảm thiểu vai trò và tầm quan trọng của cộng đồng tu viện trong xã hội . Ngược lại , nhấn mạnh vào vai trò và tầm quan trọng của những nhà phi tôn giáo .



Chương III , cung cấp những thành phần
cho phép chúng ta nhìn ra vị thầy Kalachakra không đủ tư cách .

Vị thầy như thế rất kiêu hãnh đầy thiên kiến và hận thù . Ông phá vỡ hoàn toàn những lời thệ nguyện và những quan hệ sâu sắc kết hợp với vị thầy và từ khước thực hành kỹ thuật Mật tông .

Ông không hề tôn kính những vật thiêng liêng , am hiểu rất ít về những thực hành bao la của Kalachakra . Như thế chắc chắn sẽ đưa học trò đến lầm lẫn , vì tâm thức ông đã mất sự rõ biết không lay chuyển của niềm nội hỉ .

Giả định như chưa từng biết nhưng vẫn giảng dạy ; tuy không nhận được sự trao truyền quyền năng phù hợp . Cũng không có trải nghiệm đầy đủ về thiền định . Ông bám vào những khoái cảm giác quan . Không hề tận tâm , sử dụng ngôn ngữ thô thiển và chỉ tìm niềm khoái lạc phù du của khoái cảm cực điểm của thân vật lý .

Mật tông Kalachakra dè dặt về những giảng sư như thế , và nhắc nhở cho chúng ta tránh xa họ như tránh lửa địa ngục . Trường hợp chúng ta đã nhận lễ khai tâm từ một trong những “ Guru ” tự tuyên bố . Cần phải biết thật rõ là không hề có trao truyền quyền năng hữu hiệu . Rất đơn giản vì những khuyết điểm đã làm ông không có khả năng trao truyền quyền năng .

Nếu đã dấn thân vào một giáo huấn thiều lòng từ và đầy phẩn nộ . Bám vào những khoái lạc giác quan , kiêu hãnh , và tự ca ngợi mình không ngừng . Chương III khuyên chúng ta nên rời khỏi họ .

Đức Kaydrub Norzanggyatso , người đở đầu đức Lạt ma thứ II vào thế kỷ XV đã giải thích : “ Rời khỏi một vị thầy thiếu tư cách như thế không có nghĩa bôi nhọ hay không tôn kính giáo pháp . Đơn giản là chỉ cần cắt đứt quan hệ ” .

Nhưng quả thật khó khăn để tìm ra được một minh sư chân chính . Chúng ta cần thận trọng nhiều hơn , khi mang lòng tin cho người có sẵn vô số những phẩm chất cần thiết ; và điều quan trọng nhất là : Giữ kín đáo những thệ nguyện bí mật .



Sau đó chương III tiếp cận những phẩm chất cần thiết
để đón nhận sự trao truyền quyền năng Kalachakra .
Mỗi người cần thăm dò thẳng thắng về chính mình
và nhận định có thể thích nghi hay không .

Theo bản tóm lược về Mật tông Kalachakra . Thực tập viên đủ tư cách để được trao truyền trọn vẹn . Cần chú ý sâu sắc về sự rõ biết không lay chuyển niềm nội hỉ tính không và những hình tướng vô ngã .

Họ vui mừng khi tránh mọi hành xử tiêu cực và tuyệt đối chú trọng về những thệ nguyện Mật tông . Nhất là từ khưóc những hành động dấn thân tầm thường . Vô tình với những sự chiếm hữu và giàu có .

Có lòng tin không lay chuyển Tam Bảo . Họ không màng đến những thành tựu phàm tục khi có thể đạt được những gì trong thực hành Mật tông mang đến . Tập trung hoàn toàn vào tỉnh thức . Hơn nữa , họ rất tôn kính những quá trình của Mật tông .

Không chỉ đơn thuần thỏa mãn với mô phỏng hay nghi thức . Sẵn sàng giữ những chỉ định trong giai đoạn thành tựu cho đến khi tự mình thành tựu . Hoàn toàn kiên cử mọi liên hệ với những người tìm cách trốn tránh kỹ thuật thực hành và mục tiêu Mật tông theo đuổi .

Bình luận về Ánh Sáng Không Tỳ Vết có nói :

“ Để được xem như đủ tư cách cho sự trao truyền quyền năng trong đẳng cấp Mật tông . Dù bất cứ ở trình độ nào , thực tập sinh cần lao vào những tập huấn tâm linh rất nghiêm túc . Có nghĩa đã nhận thệ nguyện phi tôn giáo như : kiêng giết , ăn cắp , nói dối , lao vào dục tính và rượu chè » .

Những ai không có thệ nguyện , cần biết về 5 dạng kiêng cử nằm trong 25 cách hành xử mà mọi người muốn được trao truyền quyền năng dấn thân vào . Chúng ta sẽ xem xét ý nghĩa và sự lan rộng của những dấn thân này ở chương VIII .

Song song với những nền tảng khẳng định tự kỷ luật trong đạo đức . Thực tập sinh đủ tư cách cho sự trao truyền quyền năng phát triển tâm thức đại thừa cũng như tâm thức yêu thương và lòng từ .

Sự khẳng định ngoại hạng và Bồ đề tâm . Họ đã thực hiện cái nhìn về hiện thực theo trường phái Trung quán luận trong những giai đoạn khác nhau về những hệ thống Phật học đơn giản nhất . Thật ra , công việc tiệm tiến này được xem như để phát triển sự lãnh hội sâu sắc về hiện thực trên căn bản tương đối ổn định .

Vì trong từng giai đoạn trao truyền quyền năng và thực hành Kalachakra về sau . Đều đặt nền tảng trên Bồ đề tâm và sự lãnh hội về tính không . Như thế chúng ta cần làm quen với những khái niệm này . Nếu không , thật sự không thể đón nhận trao truyền quyền năng .

Văn bản không đề cập đến trình độ lãnh hội , nhưng có thể chấp nhận một cách không sợ sai lầm rằng : « Nói chung , nó sẽ mang đến những đường nét chuẩn xác của nền tảng Phật học . Hành giả cần nghiêm túc hơn nữa , cần suy tư nhiều hơn nữa về những cuộc đời trong tương lai và cuộc sống hiện tại của chính mình » .

Để được giải thoát khỏi luân hồi trong cuộc sống . Cũng như có được cuộc sống tương lai tốt đẹp để giúp người hơn là chỉ thỏa mãn những dục vọng tư kỷ . Nhìn ra được những sự việc trong hiện thực hơn chỉ đón nhận thế giới hiện tượng mà không tự đặt lại vấn đề . Ngay cả những ai chưa từng học về khái niệm tính không hay từng chưa thiền định về nó một cách sâu sắc . Cũng cần tập trung vào tâm thức thẳng thắng và có dự định phải thành tựu với thời gian nhanh nhất .

Cuối cùng , Ánh Sáng Không Tỳ Vết làm sáng tỏ :

Trước sự trao truyền quyền năng . Tất cả thực tập sinh cần cảm nhận sự ngưỡng mộ sâu sắc và lòng tôn kính lớn lao với những phương pháp thuộc đẳng cấp Anuttara Yoga Mật tông , đặc biệt là những phương pháp Kalachakra .

Lòng tỉnh thức trong sự ngưỡng mộ và chú ý cần phải có về phần của thực tập sinh . Với một vài trình độ học vấn và trình độ lãnh hội tri thức nào đó về những phương pháp trong đẳng cấp những Mật tông .



Chắc chắn chúng ta thích tham khảo vị thầy Mật tông
để yêu cầu ông quyết định về trình độ và khả năng của mình
về thực hành Kalachakra .
Hay sẽ hỏi ông những về cơ hội thực hành có liên quan .

Rất hiếm ai làm được điều này và hiếm hơn nữa có được sự quan hệ mật thiết với vị thầy để gặt hái thành quả . Thông thường chúng ta chỉ tự quyết định một cách cho rằng đúng đắn nhất .

Động lực thu hút nhiều người vào lễ khai tâm thì rất nhiều . Một vài thí sinh đã dấn thân sâu sắc vào việc học hệ thống khác của đẳng cấp Anuttara Yoga Mật tông và về lợi ích lớn của nó . Trong trường hợp này , chỉ có thể hiểu rõ hơn khi nhờ vào thực hành riêng biệt Kalachakra .

Nhiều người hoang mang về vấn đề phải chọn hình dáng đức Phật nào phù hợp nhất với họ . Cũng rất nhiều người muốn tham dự vào lễ khai tâm Kalachakra nhưng chưa sẵn sàng thực hành . Họ chỉ muốn tham dự ; để có thể thiết lập những quan hệ nghiệp lực tốt cho thực hành trong tương lai .

Vấn đề đặt ra cho những người mong muốn thực hành Mật tông Kalachakra là : Những tiêu chuẩn nào cho phép họ quyết định đúng hay không ; về một thần linh phù hợp cho họ . Về sự lựa chọn hệ thống riêng biệt trong đẳng cấp Anuttara Yoga Mật tông , tiêu chuẩn cần phải ghi nhớ là giai đoạn thành tựu .

Thật thích hợp là : Bắt đầu nhận ra hệ thống năng lượng vi tế nổi bật của chúng ta . Từ đó có thể chọn những phương pháp thích hợp cho giai đoạn thật hữu dụng ; và có hiệu quả nhất để đi vào tâm thức ánh sáng tỉnh thức .

Điều này chỉ có thể trực tiếp nghiên cứu và đi vào thực hành thiền định do nhiều hệ thống đề nghị ; với điều kiện có được vị thầy đầy đủ tư cách kèm chặt . Khi giai đoạn thành tựu đã được chọn lựa . Nếu quyết định dấn thân vào trọn vẹn thực hành . Chúng ta có thể tập trung vào giai đoạn sáng tạo tương ưng cho đến giây phút gặt hái thành quả .

Để biết chắc chắn hệ thống đẳng cấp Mật tông Anuttara Yoga nào phù hợp nhất . Thông thường nên thực hành giai đoạn sáng tạo đa dạng trước tiên , để thiết lập những quan hệ với nghiệp lực cần thiết và có được sự hiểu biết đầy đủ cho phép không còn chọn lựa nữa .

Sau đó , chỉ cần quyết định nếu muốn thực hành thêm hệ thống Kalachakra . Về điều này , cần xem xét những cấu trúc tự nhiên của mình ; để có thể quyết định . Nếu nhận thấy nó phù hợp với những đòi hỏi riêng biệt . Cho dù , những văn bản không cung cấp những chi tiết về điểm này .

Chúng ta vẫn có thể giả định những ai tò mò về thiên văn , chiêm tinh , vật lý nguyên tử , toán học , kỹ thuật , lịch sử . Giải quyết những xung đột trên thế giới và cảm thấy sự giới thiệu về : Kalachakra bên ngoài và bên trong thu hút . Chắc chắn sẽ có những ái lực riêng biệt đối với đức Phật này .

Cùng một kết luận được đặt ra . Nếu cảm thấy những phức tạp của cuộc sống hiện đại đòi hỏi phải quay cuồng hàng ngày với 1001 việc . Nếu cảm thấy thu hút bởi hình ảnh về bản ngã tích cực mà thần linh Kalachakra đại diện . Khả năng đương đầu thành công với những hoàn cảnh hàng ngày . Bằng bất cứ số lượng và thời gian có sẵn để giải quyết .

Được mô phỏng trở thành Kalachakra ; mỗi khi có nhu cầu cảm nhận và đọc những chân ngôn phù hợp để bảo tồn hình ảnh là những thực hành cực kỳ hữu ích . Kể cả những ai chưa bao giờ dấn thân vào những thiền định Kalachakra sâu sắc nhất .

Hiện nay , rất nhiều người sống trong cuộc sống manh mún . Họ cảm thấy bị cắt mất những thành phần chủ yếu hay cuộc sống như : Thân vật lý , tình cảm , sự sáng tạo , gia đình . . .

Họ không biết làm sao để đạt đến sự cân bằng và lồng những thành phần này vào tâm thức , nếu như họ sống nhiều cuộc sống khác biệt : Một cuộc sống nghề nghiệp , gia đình , xã hội, những giải trí, chính trị, trí thức, tâm linh . . .

Hoàn cảnh phức tạp hơn nữa khi ly dị hay tái hôn . Họ chợt nhận thấy Kalachakra . Có thể cống hiến những khả năng tìm lại sự trọn vẹn của chính mình , và hội tụ tất cả những thành phần thành một tổng thể hài hòa .

Hình ảnh bản ngã dưới những nét thần linh Kalachakra cung cấp . Đồng thời qua sự mô phỏng 722 hình ảnh Mandala và đồng hóa mình với chúng . Như thế , nếu chúng ta bị công việc tràn ngập ; hay ông chủ thêm việc làm trong khi quá bận rộn .

Nếu có thể tự mô phỏng trở thành Kalachakra . Chúng ta sẽ không hốt hoảng , thất vọng và lo sợ . Dưới mắt mình , những công việc phụ trội nhỏ nhoi chỉ thêm vào trong một góc của vũ trụ bao la mà Mandala Kalachakra đại diện . Chúng ta không dễ dàng để những biến cố bất ngờ tràn ngập .

Do đó , nếu không có ý định để thực hành hệ thống Kalachakra . Hay không có viễn ảnh thực hành vào ngày nào đó . Cũng không gì có thể ngăn chận chúng ta . Dù vậy nếu chọn lựa theo sự trao truyền quyền năng , cũng là một phương cách cống hiến cho chúng ta những hình ảnh hiện vào sự phát triển bản ngã tương ưng .



Sau khi đã xem xét vấn đề thẩm định sự trao truyền quyền năng .Về vị thầy trao truyền cũng như học trò đón nhận .
Mật tông Kalachakra nói về Mandala riêng biệt của vị thần linh này .

Thật ra vị thầy hướng dẫn chúng ta vượt qua thế giới ba chiều của Kalachakra dưới hình thức Mandala được trao truyền . Nó hợp thành từ ánh sáng tỉnh thức tỏa sáng từ tâm thức tỉnh thức của vị thầy .

Để có thể mô phỏng . Chúng ta cần sẵn có một vài trải nghiệm trong giai đoạn sáng tạo . Phần đông những dự thính viên chỉ mô phỏng về sự hiện diện của Mandala Kalachakra . Nhưng để cho sự mô phỏng trở thành sự hiểu biết hửu hiệu . Chúng ta cần có những căn bản được chỉ định .

Rất cần thiết . Vì chúng ta sẽ hiểu tốt hơn nhờ vào sự tương đồng . Giả định như bạn có dự án xây dựng một căn nhà . Trước khi bắt đầu thực hiện . Cần phải có hình ảnh cụ thể và chính xác .

Có nghĩa chúng ta nên thiết lập mô hình tâm thức đại loại như thế . Vì không thể diễn tả về ngôi nhà với những đường nét đặc trưng trên sơ đồ . Một ngôi nhà thực sự hoàn toàn khác với « ngôi nhà » được gợi ý trên bản vẽ .

Nó chỉ là những đường nét đồ họa được phác thảo . Theo thuật ngữ Phật học , đồ họa ( croquis ) hay mô hình là căn bản dựa vào để thể hiện ngôi nhà thật sự . Quả thật , không thể xây dựng ngôi nhà mà không có những phác thảo sơ bộ .

Xây dựng Mandala Kalachakra trong suốt lễ khai tâm cũng đòi hỏi một căn bản phác thảo như thế . Theo Naropa - Nhà bình luận Mật tông Kalachakra Ấn độ ( thế kỷ XI ) . Sự trao truyền quyền năng cần phác thảo sơ bộ về một Mandala được tạo thành từ bột hay hạt cát có nhiều màu khác nhau . Hàm ý , khi thể hiện xây dựng không thể thiếu bất cứ vật liệu nào .

Nếu những tập sự viên đã đầy đủ phẩm chất . Vị thầy có thể trao truyền quyền năng trên căn bản Mandala xuất phát tâm thức ánh sáng tỉnh thức của từng môn sinh được duy trì nhờ vào sức mạnh tập trung mạnh của chính họ .
Và Manjushri - Yashas
đã sử dụng bản sao Mandala để xây dựng công viên để đoàn kết thần dân . Vào ngày nay , nếu không sẵn bột màu . Những vị thầy trao truyền quyền năng bằng cách sử dụng Mandala căn bản được vẽ trên vải ( Thangka ) .



Lễ khai tâm Kalachakra
bao gồm những trao truyền quyền năng từ những trình độ khác nhau .
Một lễ khai tâm đầy đủ gồm có những giai đoạn như sau :

“ Bảy lễ khai tâm tương đồng cho những biến cố tuổi thơ ” , “ hai loại trao truyền cao cấp ” và “ hơn cả cao cấp ” thuộc nguyên lý bình của lễ khai tâm bí mật , minh triết , ngôn ngữ hay lễ khai tâm thứ tư và sự trao truyền quyền năng vô giá của vị thầy - Vajra .

Trình độ thứ nhất :

Bao gồm bảy lễ khai tâm trao truyền quyền năng : “ Tương đồng với những biến cố tuổi thơ ” . Sự kiện đón nhận cho phép chúng ta đi vào những thực hành trong giai đoạn sáng tạo .

Trình độ thứ hai :

Bao gồm 11 lễ khai tâm trao truyền quyền năng : Bảy cái gọi là : “ Tương đồng những biến cố tuổi thơ ” , những lễ khai tâm : Nguyên lý bình , bí mật và minh triết cao cấp . Cũng như lễ khai tâm thứ tư : ( ngôn ngữ ) “ cao cấp ” và “ hơn cả cao cấp ” . Thực ra , tất cả chỉ được tính như một lễ . Ở trình độ này , vị thầy trao truyền quyền năng thường khởi đầu những kỹ thuật thiền định giai đoạn thành tựu .

Trình độ thứ ba cao nhất :

Bao gồm bảy lễ khai tâm : « Những tương đồng với những biến cố tuổi thơ » , bốn lễ khai tâm : « Cao cấp » và bốn lễ khai tâm « Cao hơn cả cao cấp » . Cũng như lễ khai tâm của Guru - Vajra .

Lễ cuối cùng ban quyền năng trao truyền khai tâm Kalachakra cho chính mình . Nhưng phần đông chúng ta chưa thực hành đầy đủ kỹ thuật thiền định giai đoạn sáng tạo và thành tựu . Tuy thế không nên thất vọng nếu chưa được đón nhận . Từ từ , mỗi người sẽ đón nhận tất cả những gì cần thiết . Cho dù , ngay cả trình độ thứ nhất của trao truyền quyền năng .

Hơn cả ba trình độ này , lễ khai tâm Kalachakra bao gồm một nghi thức với đối tượng là sự cho phép về sau . Phần đông những người Tây phương rất khó phân biệt giữa sự trao truyền quyền năng thực sự ( Wang ) và sự cho phép về sau ( Jenang ) . Vì thuật ngữ « Lễ khai tâm » được dùng chỉ định cho cả hai .

Điều này là nguồn gốc của sự lầm lẫm . Để giải thích cách phân biệt . Tsenzhab Serkhong Rinpoché so sánh : « Sự trao truyền quyền năng như chúng ta đón nhận thanh gươm . Và sự cho phép về sau là : Biết sử dụng tính cách sắc bén của thanh gươm trở thành hữu dụng » .

Mỗi khi thân , lời và tâm thức được sử dụng cho tỉnh thức vì lợi ích chúng sinh . Nghi thức này có thể được thêm vào cuối ba trình độ lễ khai tâm . Nếu không , lễ khai tâm không thể đầy đủ . Chúng ta đã có sẵn thanh gươm , giờ chỉ cần sử dụng để ngày càng thêm sắc bén .

Sau đó chương III giới thiệu những nghi lễ nhờ vào vị thầy trước khi bắt đầu nghi thức . Cũng như thánh hóa nơi diễn ra buổi lễ . Xây dựng một không gian bảo vệ để loại bỏ những sự chồng chéo trong buổi lễ .

Để kết thúc chương III giải thích chi tiết những giai đoạn khác biệt của sự trao truyền quyền năng . Chúng ta sẽ trở lại một vài chi tiết ở những chương tiếp theo trong quyển này .



Chương V - VI
trình bày giai đoạn sáng tạo và thành tựu
thuộc về hệ thống Kalachakra .

Sau đó giới thiệu phần thực hành để có được tỉnh thức . Nhưng không cần thiết phải nghiên cứu trước khi tham dự lễ khai tâm . Chúng ta chỉ cần biết Mandala Kalachakra bao gồm 722 hình dạng cần mô phỏng thật cặn kẻ . Vì thế nhiều thực tập sinh vào lễ khai tâm có khuynh hướng buông bỏ .

Thật sự không có lý do để nản chí . Thực hành Kalachakra tuy không đơn giản . Nhưng không ai buộc chúng ta ngay lập tức dấn thân vào giai đoạn thành tựu . Nói chung , chỉ cần yêu cầu bắt đầu với một Sadhana đơn giản . Có nghĩa chỉ mô phỏng một hay hai hình dáng những chư Phật có một mặt và hai tay .

Sau đó , khi khả năng mô phỏng đã tiến bộ . Chúng ta có thể tiếp tục mô phỏng ngày càng tinh vi hơn . Đến giây phút đạt mô phỏng Mandala tổng thể , chúng ta bắt đầu học tập và thực hành Mật tông khác thuộc đẳng cấp Anuttara Yoga . Nhất là Mật tông Guhyasamaja được yêu cầu ngay trong thời gian đầu . Nhưng cũng không thật cần thiết .

Dù vậy , Mandala Kalachakra không phải là Mandala phức tạp nhất trong tất cả Mandalas . Những Mandalas khác có nhiều hình ảnh hơn nữa . Nhưng với chúng ta con số 722 thì quá nhiều .

Nó bao gồm nhiều mô hình để trình bày trong những ngày tháng khác nhau trong năm ( 360 ngày ) . Cung hoàng đạo , những chòm sao , những hành tính chính . Cũng như những kết cấu của thân vật lý : Xương , ngũ quan , giác quan . Năng lượng gió , kinh mạch và những Chakra của hệ thống năng lượng vi tế .

Vì thân vật lý và tâm thức có những vận hành rất phức tạp . Bao gồm vô số những hợp chất , cần nhờ đến một quá trình cũng không kém phức tạp , để có thể hội nhập vào chính mình .

Vì thế những giai đoạn khác nhau trong thực hành Kalachakra . Bao gồm sự trao truyền quyền năng tinh vi hơn những kỹ thuật thực hành Mật tông khác . Với lý do : Giả sử Mandala biểu tượng là căn bản để tịnh hóa . Vì thế Mandala càng bao la thì sự tịnh hóa cũng sẽ bao la như thế .

Điều này không thể tự dẫn đến sau lễ Khai tâm Kalachakra , mà chúng ta cần lao vào nghiên cứu về thiên văn và y học Tạng - Mông ; để có sự hiểu biết rộng hơn về căn bản tịnh hóa . Nhưng chỉ cần quen thuộc với những nguyên lý chung chung . Điểm tập trung trên hết là những hệ thống Kalachakra khác .

Sự thực hành đầy đủ ở giai đoạn thành tựu làm nảy sinh « Nhân » ngay tức khắc có được thân vật lý hoàn hảo và tâm thức Phật . Cũng như hình thức trống không và sự rõ biết không lay chuyển của niềm nội hỉ và tính không .

Sự tỉnh thức khi đã thành tựu , cũng giống như sự tỉnh thức có thể đạt đến nhờ vào bất cứ kỹ thuật Phật học nào khác . Một vài văn bản tham khảo đã khẳng định : « Kalachakra là cành hoa thanh tao nhất trong tất cả hệ thống Mật tông » . Lời khen này nói đến sự lan rộng và sáng tỏ về chất liệu mà hệ thống này dành cho hành giả ; chư không dựa vào kết quả sẽ đạt đến nương nhờ kỹ thuật thực hành .HET=OM MANI PADME HUM.( 3 LAN ).GESHE TASHI TSERING.( MHDT ).14/4/2012.OM MANI PADME HUM.( 3 LAN ).

No comments:

Post a Comment