|
||
|
Những người chưa cảm
thấy đã sẵn sàng đón nhận gìn giử thệ nguyện Bồ tát đạo ;
và cũng như chưa sẵn sàng dấn thân thực hành đều đặn kỹ thuật về Mật tông .
Dù vậy vẫn có thể dự thính vào lễ khai tâm Kalachakra
hay tất cả lễ khai tâm khác thuộc đẳng cấp Mật tông Anuttara Yoga .
và cũng như chưa sẵn sàng dấn thân thực hành đều đặn kỹ thuật về Mật tông .
Dù vậy vẫn có thể dự thính vào lễ khai tâm Kalachakra
hay tất cả lễ khai tâm khác thuộc đẳng cấp Mật tông Anuttara Yoga .
Như những dự thính viên tích
cực ít ra cũng đủ cho một vài thủ tục nào đó . Họ có thể sẽ qui y Tam Bảo và tự
nguyện và duy chỉ gìn giử Bồ tát nguyện . Những người đã qui y Tam Bảo và nhận
lãnh những thệ nguyện Bồ tát đạo . Vẫn có thể lặp lại những dấn thân nhân một lễ
Khai tâm Kalachakra như những
quan sát viên bình thường khác . Nhưng chỉ những dự thính viên đã nhận lãnh
những thệ nguyện Mật tông mới có thể đón nhận toàn bộ sự trao truyền quyền năng
một cách hữu hiệu .
Có hai phạm
trù thuộc về thệ nguyện Mật tông :
1-
Những thệ nguyện nền tảng .
2-Những thệ nguyện phụ .
Những thệ nguyện nền tảng .
2-Những thệ nguyện phụ .
Cần phải hứa giữ gìn mãi mãi
những thệ nguyện . Chúng sẽ đi vào tính liên tục rõ biết từ đời này sang đời
khác cho đến khi thành tựu tỉnh thức . Những truyền thống Gélugpa , Kagyupa và Sakyapa trao truyền những thệ nguyện trong những trao truyền
quyền năng thuộc hai đẳng cấp cao của Tantra
- Yoga và Anuttara Yoga theo một sự sắp hạng thuộc nhóm 4 .
Trong khi truyền thống Nyingpa trao truyền trong những trao truyền quyền năng thuộc
1 trong 4 đẳng cấp cao thuộc Tantra Yoga -
Mahayoga - Anuyoga và Atiyoga hay Dzogchen , theo sắp hạng nhóm 6 .
Những thệ nguyện Bồ tát đạo
và Mật tông , có thể nói giống nhau từng chi tiết . Về những gì liên quan đến
những thệ nguyện nền tảng Mật tông . Có nghĩa mong muốn chúng ta từ khước 14
hành động sai lầm .
Nếu những hành động này đi
kèm 4 yếu tố nghiêm trọng , sẽ đưa chúng ta vào nền tảng sa ngã . Cũng như sẽ
hoàn toàn mất mát những thệ nguyện Mật tông . Những thệ nguyện này chủ yếu dựa
vào thực hành Mật tông , vì kỹ thuật Mật tông được dùng như những trợ huấn cụ .
Nếu không có chúng , quả thật không thể theo đuổi con đường Mật tông Kalachakra .
Những gì liên quan đến những
thệ nguyện Mật tông và hành động duy nhất đưa đến sự sa ngã chính là :
Từ khước Bồ đề tâm . Như thế , những gì có giá trị cho những thệ nguyện
Bồ tát đạo đồng thời cũng có giá trị cho những thệ nguyện Mật tông .
Mười sáu vi phạm khác vẫn không
thể không loại trừ chúng ra khỏi liên tục tính của sự rõ biết . Chúng chỉ có thể
đi đến suy yếu , trừ khi đi kèm tập họp những yếu tố nghiêm trọng . Nên những
thệ nguyện Mật tông phụ , sẽ giúp chúng ta từ khước 8 hành động cực kỳ có hại .
Sự sai lầm lúc nào cũng tỷ lệ
thuận với số lượng và sức mạnh những yếu tố nghiêm trọng hiện diện trong tâm
thức trong giây phút hành động . Nhưng ngay cả khi sai lầm đi kèm theo 4 yếu tố
nghiêm trọng , vẫn chưa thể làm mất những thệ nguyện Mật tông .
Trong hệ thống
Kalachakra , phần đông những thệ nguyện nền tảng Mật tông được
xác định rõ hơn trong những hệ thống Mật tông cao cấp khác . Vì thế , nhân lễ
khai tâm Kalachakra . Chúng ta hứa gìn giữ , những gì được trình bày chung
cho hệ thống này và những gì riêng biệt của hệ thống Kalachakra .
Ngari Panchen , vị thầy Nyingma
thể kỷ XVI giải thích : « Những thệ nguyện nền tảng Mật tông trong suốt lễ khai
tâm dạng Dzogchen bao gồm những phiên bản chung với 3 trường phái phật học Tây
tạng khác . Đặc biệt những phiên bản thuộc về hệ thống Kalachakra . Để sáng tỏ
những khác biệt này , chúng ta sẽ theo dõi những bài bình luận do hai vị thầy
thuộc dòng Gélougpa biên soạn . Đó là : Tsongkhapa và Kaydrub Norzang – Gyatso »
.
Mười bốn thệ nguyện Mật tông
chung cho tất cả hệ thống đẳng cấp Anuttara Yoga
dự kiến để chúng ta từ khước những hành động lầm lẫn như sau :
1-Xem thường và chế nhạo vị thầy Vajra .
chung cho tất cả hệ thống đẳng cấp Anuttara Yoga
dự kiến để chúng ta từ khước những hành động lầm lẫn như sau :
1-Xem thường và chế nhạo vị thầy Vajra .
Cũng đồng nghĩa với xem
thường hay chế nhạo đạo sư Mật tông . Cho dù ông thuộc bất cứ hệ thống nào hay
đã trao truyền lễ khai tâm cho chúng ta . Hoặc đã giải thích hoàn toàn hay từng
phần văn bản Mật tông , kể cả những giáo huấn truyền khẩu về những gì chuẩn bị
đi vào thực hành . Xem thường hay chế nhạo một vị thầy Mật tông
là :
Tỏ ra khinh thường , tìm những
khuyết điểm của ông để cười nhạo . Tỏ ra không tôn kính hay vô lễ . Suy nghĩ và
cho rằng những giáo huấn ông giảng dạy hoàn toàn vô bổ . Sau khi đã cảm nhận với
nhiều quý mến và tôn trọng . Nhưng bỏ rơi sự quý mến và tôn trọng này . Nếu từ
khước ông như một giảng sư và nhìn ông bằng sự kiêu hãnh và khinh thị . Có nghĩa
tự rơi vào căn bản sa ngã .
Mật tông Kalachakra nói rõ :
Nếu nghĩ vị thầy Mật tông không
thích hợp , hay ông không có những phẩm chất cần thiết để giảng dạy . Hoặc hình
ông chỉ hành động bằng sự dò dẫm . Chúng ta có thể xa lánh với sự tôn kính và
không học hỏi hay giữ những mối liên lạc .
Điều này khác biệt với sự tỏ
ra xem thường hay khinh thị một giảng sư ngoài ngoài bối cảnh Mật tông . Chẳng
hạn : Giáo huấn về lòng từ , về tính không . Quy y Tam Bảo , thệ nguyện gìn giữ
giới hạnh Bồ tát đạo . Nhưng không hướng dẫn căn bản về sự sa ngã . Nhưng dù vậy
, điều này cũng hợp thành những chướng ngại nghiêm trọng cho sự tiến bộ trên con
đường Mật tông .
2-Không
để ý đến lời của người đã thành tựu tỉnh thức tuyên bố ,
Về những thệ nguyện gìn giữ giới hạnh Bồ tát đạo hay Mật tông .
Về những thệ nguyện gìn giữ giới hạnh Bồ tát đạo hay Mật tông .
Dù những lời này được đức
Phật tuyên bố hay do một đại sư của dòng truyền thừa Mật tông . Nhưng để được
xem là căn bản sa ngã hay vi phạm thệ nguyện Mật tông nền tảng hay phụ phải đi
kèm 2 yếu tố :
1-
Rõ biết đầy đủ những lời được một
người đã vắng bặt mọi dấu tích tâm thức tiêu cực tuyên thuyết . Nhưng vẫn cười
nhạo và mãi tư duy hay nói sự vi phạm này của mình không quan trọng
.
2-
Cười nhạo hay vi phạm những mệnh
lệnh đã biết khởi phát từ một người đã thành tựu tỉnh thức , không dẫn đến căn
bản sa ngã . Cho dù điều này khởi sinh những chướng ngại nghiêm trọng cho sự
tiến bộ tâm linh trên con đường Mật tông .
3-Tìm
khuyết điểm những huynh đệ Vajra vì giận dữ .
« Huynh đệ » có nghĩa : Những
người đã lấy thệ nguyện Mật tông với cùng chung một vị thầy . Lễ khai tâm được trao truyền đồng thời hay không đồng thời .
Không kể thuộc đẳng cấp Tantra hay hệ thống hay giáo pháp riêng biệt được trao
truyền quyền năng .
Sa ngã khi đã rõ biết người
hay những người bị phê phán là những huynh đệ trong hệ thống Vajra . Nhưng vẫn chế nhạo hay chửi bới họ trước mặt , do
những lẩm lẫn , những khuyết điểm , thiếu sót , sai lầm , vi phạm thệ nguyện . .
. Cho dù đúng hay không , và họ hoàn toàn hiểu rõ những lời nói này của chúng ta
.Với động lực những lời nói này do ác tâm , giận dữ hay thù hận .
Nhưng nếu do động cơ mong
muốn thu hút sự chú ý của huynh đệ Vajra
về những gì còn yếu kém bằng tâm thức
tử tế với hy vọng giúp họ vượt qua chướng ngại . Điều này không được xem là lỗi
.
4-Không
thương yêu một con người có sẵn tính mẫn cảm .
Thương yêu có nghĩa mong muốn
họ được hạnh phúc và sống trong những nguyên nhân hạnh phúc . Ngược lại , sự sa
ngã có nghĩa : Đối với những kẻ giết người
hàng loạt chẳng hạn . Chúng ta muốn họ phải vắng bặt hạnh phúc vì những gì họ đã
hành động . Những hoàn cảnh không được xem là sa ngã như sau :
Hiểu đầy đủ bản chất hiện thực và
luật nhân quả về phần hành xử . Chúng ta mong muốn kẻ sát nhân không ít thì
nhiều cũng lãnh hội được những điều kiện hạnh phúc . Khiến họ có thể từ khước vi
phạm những việc tàn bạo trong tương lai .
Như vậy hiểu biết về hạnh
phúc . Nếu mong muốn người khác không bao giờ hạnh phúc tiếp theo theo sa ngã
nền tảng . Trong khi chúng ta cố tình tán đồng sa ngã và không giúp đở họ . Như
thế sẽ làm suy yếu những thệ nguyện một cách trầm trọng .
5-Từ
khước bồ đề tâm .
Nguyên nhân sa ngã đặc biệt
này giống như nguyên nhân đề cập ở điểm 18 trong những thệ nguyện Bồ tát đạo
. Nhằm từ khước bồ đề tâm nguyện , với lý do
không có khả năng đạt đến phật tính vì lợi ích chúng sinh . Ngay cả khi sự vắng bặt 4 yếu tố nghiêm trọng . Suy
nghĩ này đủ để cắt đứt thẳng thừng những thệ nguyện Bồ tát đạo và Mật tông .
6-Trêu
chọc người thực hành Mật tông ;
Hay những hệ thống triết lý Phật học .
Hay những hệ thống triết lý Phật học .
Sự sa ngã này tương đương với
sự sa ngã thứ sáu trong thệ nguyện Bồ tát đạo , cũng như sự khước từ chánh Pháp
. Và tuyên bố giáo huấn viết tay không trung thực với những lời đức Phật đã
tuyên thuyết về Những thừa khác như Thanh Văn , Độc giác và Đại thừa
.
7-
Tiết lộ những giáo huấn bí mật riêng biệt cho những người chưa trưởng thành . Những giáo huấn này đặt trọng tâm vào thực hành trong giai đoạn sáng tạo và thành tựu . Chính xác hơn là thành tựu về tính không .
Tiết lộ những giáo huấn bí mật riêng biệt cho những người chưa trưởng thành . Những giáo huấn này đặt trọng tâm vào thực hành trong giai đoạn sáng tạo và thành tựu . Chính xác hơn là thành tựu về tính không .
Những chi tiết liên quan đến
những Sadhana riêng biệt hay những kỹ thuật thực tại hóa
( cập nhật )
để rõ biết sâu sắc về niềm
Nội hỉ - Tính không bằng tâm thức hoàn toàn tỉnh thức . Nếu chưa nhận được
sự trao truyền quyền năng tương ứng . Đó là sự trưởng thành cần thiết còn thiếu
sót cho một hành giả .
Tuy họ có thể xác tín vào những
kỹ thuật nào đó . Nhưng vẫn có sự sa ngã , nếu chúng ta giải thích những tiến
trình bí mật , trong khi rõ biết người được giao lưu chưa có sự trưởng thành cần
thiết để đi vào thực hành .
Nhưng nếu người này hiểu một
cách sáng tỏ những giải thích được truyền trao vẫn có thể ứng dụng tốt kỹ thuật
thực hành . Trường hợp ngoại lệ duy nhất là :
Sự cần thiết . Chẳng hạn thật cần
thiết để cung cấp những thông điệp và giải thích để đánh tan sự hiểu lầm tiếp
nối những quan kiến sai lầm hay Mật tông đã bị biến dạng .
Dạy lý thuyết Mật tông trường
hợp nghiên cứu ở đại học . Tuy bài giảng không đủ để ứng dụng vào thực hành ,
cũng không đưa đến sự sa ngã . Dù điều này tác động trên thực hành cá nhân theo
chiều hướng những thể hiện giảm tính hiệu quả .
Cuối cùng , giảng những giáo
huấn bí mật với sự có mặt của những quan sát viên trong lễ khai tâm
Kalachakra hay bất cứ dạng thức khai tâm Mật tông nào khác . Vẫn
không xem là lầm lỗi .
8-
Chủ động phát tiết những lời chửi bới với ngủ uẩn hay bạc đãi chúng . Những tập họp vật chất hay những yếu tố hợp lại thuộc về ngũ uẩn không được xem là chia cách với trải nghiệm bình thường của con người .
Chủ động phát tiết những lời chửi bới với ngủ uẩn hay bạc đãi chúng . Những tập họp vật chất hay những yếu tố hợp lại thuộc về ngũ uẩn không được xem là chia cách với trải nghiệm bình thường của con người .
Chúng bao gồm những hiện
tượng liên quan đến thế giới vật lý như :
Thấy nghe , hạnh phúc , buồn bả , khả năng phân biện hay những yếu tố khác trong
dạng tâm thức như tình thương hay hận thù , sự rõ biết thị giác và tâm thức
. Tóm lại , ngũ uẩn không thể tách
rời thân vật lý , tâm thức bình thường và cảm xúc .
Tuy chúng hoen ố và đầy lầm
lẫn . Vì thế được gọi là “ Ô nhiễm
” hay “ bị nhiễm bẩn ” .
Nhưng trong thực hành Anuttara Yoga Mật
tông loại trừ sự lầm lẫn do tâm thức
bình về bản chất thật của những hiện tượng duy trì . Điều này sẽ giúp vận hành
sự chuyển hóa thẳng thừng ngũ uẩn thành ngũ trí .
Thay vì tiếp nối những giây
phút trải nghiệm vận hành năm yếu tố lầm lẫn ( những tập họp vật chất thân vật lý hay ngũ uẩn
) .
Mỗi giây phút trải nghiệm được chuyển hóa thành năm lối rõ biết sâu sắc ; hoàn
toàn phân ly khỏi lầm lẫn và được chỉ định bằng : « Những bản chất tiềm ẩn của ngũ uẩn » .
Sự rõ biết sâu sắc có thể
được so sánh với tấm gương phản chiếu mọi sự việc một cách bình đẳng .
Phương cách thực hiện những mục đích và phạm vi hiện
thực . Và những phẩm chất rõ biết được kết họp với năm dạng thức chư Phật
: Vairochana , Amitabha , Ratnasambhava ,
Amogasidhhi và Akshobhya .
Đây là chủ đề sẽ được đề cập chi tiết
hơn ở chương XI .
Những lễ khai tâm đẳng cấp
Anuttara Yoga Mật tông bắt đấu gieo những hạt mầm cần thiết cho sự chuyển
hóa ngũ uẩn . Trong suốt thời kỳ sáng tạo , chúng ta vun trồng những hạt mầm khi
mô phỏng ngũ uẩn chuyển hóa thành những hình tướng thuần khiết nhờ mô phỏng năm
dạng thức chư Phật tương ưng .
Suốt giai đoạn thành tựu , chúng
ta làm việc với sự trưởng thành những hạt mầm . Nhờ vào những kỹ thuật Yoga được
định sẵn cho việc ứng dụng này và sự biểu lộ tâm thức tỉnh thức . Sau đó có thể
cập nhật năm mô hình rõ biết sâu sắc .
Tám
sa ngã nền tảng được nói bên trên ; chính là sự xem thường ngũ uẩn . Nó được
chia thành hai phạm trù :
Thứ nhất :Tin chắc chúng
không thể chuyển hóa .
Thứ hai :Cố tình bạc đãi bằng thù hận hay xem rẽ
.
Thực hành Mật tông
không đòi hỏi phải chối bỏ hay cần phải khước từ giáo huấn kinh điển ( Sutra
) . Quả thật sai lầm , khi tin sự thuần khiết của thân vật lý và khả
năng nó sẽ mang lại hạnh phúc cho chúng ta .
Đúng ra thân vật
lý trở thành dơ bẩn và làm chúng ta đau khổ vì bệnh hoạn hay bị thương tích . Dù
vậy , trong Mật tông . Chúng ta nhận ra sự hiện thực sâu sắc hơn nữa về thân vật
lý , cũng như sự lợi ích của nó về Bồ tát đạo .
Những người không nhận
ra bản chất sâu sắc hay không muốn tìm hiểu . Có nguy cơ phản bội lại sự giúp đở
của thân vật lý , và chỉ tin vào tâm thức dung tục và những cảm xúc . Đó chính
là sự bất hạnh .
Khi tự hạ thấp
mình như thế . Hay hơn nữa , tự tra tấn mình bằng những hành động như sự bạo dâm
của thân vật lý và tâm thức . Khi bạo hành một cách ngu xuẩn thân vật lý và tâm
thức , hay tự làm ô nhiễm bằng ma túy hoặc những chất kích thích do muốn tìm
kiếm khoái cảm . Có nghĩa , chúng ta bắt đếu tự lao vào nền tảng của sa ngã
nghiêm trọng .
9-Từ
khước khái niệm tính không .
Khái niệm tính không được
nghe theo chiều hướng chung trong những kinh điển về « Hoàn thiện hiểu biết »
( Bát nhã ba la mật ) . Muốn nói
về tất cả mọi hiện tượng không chỉ riêng con người . Mọi mô hình có thể hay
không bị huyễn hoặc về hiện tượng vắng bặt ; do những trường phái triết lý Đại
thừa : Duy
thức học và trường phái Trung Tính
đề nghị .
Ở đây , từ khước những giáo huấn có nghĩa :
Nghi ngờ . Không xác tín hay xem thường .
Nghi ngờ . Không xác tín hay xem thường .
Dù bất cứ hệ thống riêng biệt
đại thừa nào sử dụng làm căn bản thực hành Mật tông . Cũng cần xác tín tuyệt đối
những giáo huấn về tính không . Thật sự chúng ta không thể từ khước khái niệm
tính không hay thực hành những kỹ thuật đi ngược lại những gì được gọi là căn
bản này .
Chẳng hạn có thể tự thuyết
phục . Sự mô phỏng chúng ta có những thành tựu hiện thực về vật lý . Điều này
chỉ đưa đến tác dụng về đau khổ luân hồi tiếp nối , hay dẫn đến mất quân bình về
tâm lý .
Sau khi tiến bộ trên con
đường Mật tông . Chúng ta có thể bước qua hệ thống cao cấp trong thực hành và để
ngoài lề những giáo huấn tính không do Duy
thức học đề nghị . Chúng ta có thể
chọn theo giáo huấn Trung quán hay lý luận về
Trung quán , bỏ qua những giáo huấn
tính không thuộc Y Tự Khởi ( Svatantrika
) và những giáo huấn do
Cụ Duyên phái ( Prasanguika )
đề nghị .
Có nghĩa chuyển hướng về những
quan niệm tính không ít biến dạng hơn những quan niệm khác . Nói như thế , không
có nghĩa phải chọn theo những quan kiến sai lầm về tính không . Thực sự , chúng
ta chỉ cần vươn mình lên trình độ cao hơn về sự lĩnh hội tính không
.
10-Tỏ
ra dễ dãi với sự ác ý .
Như ác ý với những ai xem khinh
người hướng dẫn tâm linh của chúng ta ; hay những vị thầy tâm linh nói chung .
Cụ thể hơn là chư Phật , Pháp và Tăng già . Nhất là nói xấu hay lên án
họ .
Dù tiếp tục mong muốn họ hạnh
phúc và có được nguyên nhân hạnh phúc . Vẫn có sự sa ngã nền tảng . Nếu đối đãi
họ một cách khoan dung . Cho dù là hành động cũng như lời nói . Có nghĩa chỉ vì
tình bạn hay ủng hộ vật chất bằng cách mua sản phẩm họ chế tạo , sách vì họ là
tác giả . . .
Nếu động lực duy nhất là tình
thương và lòng từ . Thêm những phương tiện làm họ ngưng lại những thái độ tiêu
cực để đến trạng thái tích cực . Chúng ta có thể cố thực hiện bằng tất cả những
phương pháp nhiệt huyết . Trong những hoàn cảnh này không được xem là lầm lỗi
.
11-Ngưng thực hành thiền định về tính không .
Như thệ nguyện Mật tông thứ 9 .
Như thệ nguyện Mật tông thứ 9 .
Khái niệm tính không có thể
được hiểu theo những quan kiến do Duy thức học hay Trung quán luận trình bày .
Sự lãnh hội chúng ta trở thành
hữu hiệu , sẽ có sa ngã nền tảng nếu để qua một ngày không thiền định tính không
. Nói chung , truyền thống đòi hỏi cần phải thiền định về tính không ít nhất 3
lần trong ngày và 3 lần trong đêm . Cần phải kiên nhẫn thực hành đến khi tâm
thức đã san bằng mọi chướng ngại ngăn trở sự phát sinh tính xuyên suốt mọi nơi .
Khi tính xuyên suốt đã đạt .
Tính không hình thành thường trực trong sự rõ biết . Sự kiện đặt giới hạn về
lãnh hội với tin tưởng sai lầm là đã thiền định đầy đủ về tính không . Điều này
sẽ ngăn chận sự thành tựu .
12-
Chuyển hướng người rời khỏi đức tin .
Chuyển hướng người rời khỏi đức tin .
Điều này có nghĩa cố tình làm họ
nản chí và không còn muốn dấn thân vào thực hành riêng biệt của Mật tông . Trong
khi sự thực hành này hoàn toàn thích hợp với họ . Nhất là họ đã lao vào con
đường đầy tự tin và đã nhận sự trao truyền quyền năng tương ưng . . .
Một dự ý như thế nếu thành
công sẽ dẫn đến sa ngã hoàn toàn . Nhưng nếu họ chưa sẵn sàng cho thực hành và
chúng ta chỉ nói qua loa công việc họ thực hiện trước đó . Sẽ không có lỗi , dù
họ nản chí về những lời nói chúng ta .
Cảnh giác người khác do lo âu
về hiện thực, nhưng không tìm cách làm giảm giá trị vì để ý đến tư lợi . Như
thế chỉ tương đương với việc dừng lại không quyết định tiến thêm nữa .
13-Nghi
ngờ những thực thể ;
Là thành phần nội bộ thực hành Mật tông .
Là thành phần nội bộ thực hành Mật tông .
Những hệ thống đẳng
cấp Anuttara Yoga Mật tông đòi hỏi tham gia những giai đoạn trong nghi thức cúng
dường nổi tiếng dưới tên là Tsok
. Điều này có nghĩa thưởng thức thịt và rượu
đặc biệt dành riêng cho nghi thức này . Những thực thể này tượng trưng cho ngũ
uẩn hay những thành phần thân vật lý .
Trong hệ thống
Kalachakra . Những thực thể này
là những cơn gió năng lượng bình thường hay những yếu tố quấy nhiễu . Riêng
trong bối cảnh Mật tông nó có khả năng nối liền chúng ta với sự rõ biết sâu sắc
vì đã tách rời mọi lầm lẫn .
Sự sa ngã nền tảng là nhìn những
thực thể thế này một cách chán ngấy và khinh thị . Từ chối với lý do không thích
hợp với người uống trà và nghệ thuật ăn chay . Hay tiêu thụ quá nhiều do tham ăn
và tâm thức bám chấp .
14-Chế
nhạo phụ nữ .
Mục đích Anuttara Yoga Tantra đưa chúng ta vào ánh sáng tỉnh thức để có thể lĩnh hội
tính không trong mọi sự việc và khai trừ mau chóng những lầm lẫn đặc trưng .
Những yếu tố cản trở sự giải thoát và khả năng làm lợi ích cho người
.
Trạng thái nội hỉ của tâm
thức đặc biệt có khả năng nối liền chúng ta với ánh sáng tỉnh thức . Vì nó thu
hút chúng ta về những trình độ rõ biết và năng lượng luôn luôn sâu sắc , mãnh
liệt và thuần khiết hơn .
Hơn nữa , một khi rõ biết nội hỉ
đưọc kết hợp với ánh sáng tỉnh thức và tập trung vào sự lãnh hội tính không , sẽ
trở thành công cụ dũng mãnh nhất để loại trừ những bản chất cố hữu của trạng
thái lầm lẫn .
Trong suốt quá trình có sự
tập trung thẩm thấu . Chúng ta trải nghiệm niềm nội hỉ lớn dần . Vì tâm thức đã
chiến thắng sự ù lì và dao động . Cùng kết quả được đạt được do sở hữu sự lãnh
hội và sự thành tựu tính không sâu sắc .
Tâm thức đã chuyển hóa hết
những cảm xúc và những thái độ nhiễu loạn . Niềm nội hỉ kết hợp với tính không
đưa chúng ta đến trình độ nội hỉ ngày càng mãnh liệt và thuần khiết hơn . Nhất
là tăng dần sức mạnh tập trung và lãnh hội về tính không .
Trong Anuttara Yoga
Mật tông . Có thể làm mãnh liệt hơn về rõ biết niềm nội hỉ với sự lĩnh hội về
tính không . Chính xác là nhờ vào người nữ . Người nữ cũng cùng kết quả nhờ vào
người nam . Sự kết hợp này có thể xảy ra bằng thân vật lý hay qua sự mô phỏng
dưới khía cạnh những hình tướng chư Phật ( nam hay nữ ) .
Để tránh mọi lầm
lẫn . Nếu hành giả sẵn có khả năng . Bằng hình tướng chư Phật phát ra từ sức
mạnh của sự mô phỏng . Đây là lý do coi khinh , chế nhạo , mĩa mai , nhìn với
ánh mắt hạ thấp người nữ hay hình tướng chư Phật nữ , sẽ đưa đến sự sa ngã nền
tảng .
Khi tỏ ra vẻ chiếu cố
người nữ hay tỏ ra khinh thị và họ hiểu chúng ta nhìn họ như thế ; sẽ hình thành
sự sa ngã nền tảng . Nhưng người nữ đối đãi như thế với người nam lại không rơi
vào sa ngã nền tảng . Hiển nhiên , trong thực tế thái độ như thế không được
khuyến khích .
Phiên bản về 14 nguyên nhân sa ngã nền tảng do mật tông
Kalachakra đề nghị .
Có vài khác biệt với phiên bản những hệ thống khác
của đẳng cấp Anuttara Yoga .Những vi phạm nền tảng thuộc hệ thống Mật tông Kalachakra
có thể được tuyên bố như sau :
Có vài khác biệt với phiên bản những hệ thống khác
của đẳng cấp Anuttara Yoga .Những vi phạm nền tảng thuộc hệ thống Mật tông Kalachakra
có thể được tuyên bố như sau :
1-Làm rối tâm thức vị thầy Vajra .
Lý do sa ngã không
chỉ khinh thường hay chế nhạo . Chính xác là những lời chửi mắng . Không phải chỉ
nói những lời tiêu cực không do lòng nhân . Nhưng dưới áp lực của cảm xúc hay
trạng thái rối loạn tâm thức không chịu kềm hãm .
Nếu vị thầy nghe nói về hạnh
kiểm chúng ta . Ông không hài lòng và có ý định sẽ giúp chúng ta tự kiểm soát
tốt hơn . Sự sa ngã này được xem như hoàn chỉnh .
2-Không để ý đến mệnh lệnh của vị thầy
.
Chính xác hơn làm
suy yếu thệ nguyện đã được một người đã tỉnh thức dạy và rơi vi phạm . Ở đây sự
sa ngã nhằm che dấu vi phạm một trong 10 hành động tiêu cực hay phá vở những thệ
nguyện , sau khi được
vị thầy -Vajra hoàn toàn sáng tỏ dặn dò chúng ta từ khước .
Nguyên nhân sự vi
phạm có thể do cảm xúc hay rối loạn tinh thần . Nhưng sẽ không có sự sa ngã nếu
động lực là lòng nhân . Trong trường hợp trước . Cần nhận ra vị thầy Mật tông
chính là Phật đã hoàn toàn rõ biết .
Vì thế ông không
thể đồng ý với thái độ chúng ta và không ngừng kiểm soát . Sự sa ngã được xem là
hoàn chỉnh . Nếu vị thầy không biết gì về thái độ của mình hay nếu biết cũng
không tỏ ra đã không hài lòng .
3-Do giận dữ .
Cố vạch những
khuyết điểm của huynh đệ trong dòng
Vajra . Sự trình bày này khác biệt với những điều chung của những hệ thống
khác của đẳng cấp Anuttara Yoga Mật tông .
4-Từ khước thương người sẵn có tính nhạy cảm
( cảm xúc mạnh ) .
( cảm xúc mạnh ) .
Bình luận hướng
dẫn thêm . Sự sa ngã chỉ hữu hiệu nếu thái độ kéo dài ít nhất trọn một ngày .
Nhưng nếu chỉ cảm nhận sự bực tức và rút lại tình thương chỉ trong thời gian
ngắn không kéo theo sự sa ngã nền tảng .
5-Từ khước Bồ đề tâm .
Sự sa ngã nền tảng
. Do từ khước thiền định về những hạt vi tế của giai đoạn thành tựu ; cho phép
chúng ta thực hiện tỉnh thức nhờ vào rõ biết không lay chuyển niềm nội hỉ . Sự
thành tựu tiếp theo sự xuất hiện tâm thức ánh sáng tỉnh thức và phát sinh sáng
tỏ rõ biết niềm nội hỉ - tính không .
( Những hệ thống khác của Anuttara Yoga Mật tông chỉ nói từ khước nguyện vọng
tỉnh thức vì lợi ích mọi người ) .
Với công cụ thật
dũng mãnh này . Chúng ta có thể ổn định sự rõ biết về
nội hỉ - tính
không . Sau khi tích lũy trong kinh mạch trung
ương , nhờ vào những kỹ thuật Yoga cho kỹ
thuật này - 21600 hạt vi tế - Tương đương với số giờ tính theo 1 năm
trong hệ thống Kalachakra và số hơi thở hàng ngày .
Sau khi sự tích
lũy đã thực hiện . Những hạt vô hình được giữ trong kinh mạch trung ương cho đến
khi thành tựu tỉnh thức . Đây là lý do rõ biết về nội hỉ tối thượng được dùng
như căn bản được gọi là :
“ Không lay chuyển
” - Sự rõ biết phát sinh ánh sáng tỉnh thức cần
thiết cho sự lãnh hội tính không .
Ánh sáng tỉnh thức
từng giai đoạn sẽ tịnh hóa một cách hữu hiệu những bản năng cố hữu trong tâm
thức lầm lẫn và những cơn gió nghiệp . Những hạt vô hình hòa tan với sự thành
tựu bản chất Phật . Ngay giây phút này chúng ta không còn bám chặt vào thân vật
lý . Vì chính chúng ta là kinh mạch trung ương hay những giọt vi tế .
Nhưng nếu để thoát ra
tinh dịch thô để nhận lấy cảm xúc cực khoái của nhục thể . Sự giải phóng năng
lượng sẽ làm hao tổn những hạt sáng tạo vi tế . Đây là nguyên lý rất có giá trị
cho người nam cũng như người nữ .
Những hạt vi tế
này , được gọi là “ Bồ đề tâm
” hay “ Những hạt hoa lài ” ; hợp thành căn bản sự thành tựu rõ biết
không lay chuyển của niềm nội hỉ . Vì thế , nếu chúng ta lãng phí do tác dụng
của cảm xúc cực khoái , sẽ tước đi phương tiện hữu hiệu để thành tựu tỉnh thức
. Từ đó thuật ngữ “ Từ khước bồ đề
tâm ” dùng để chỉ định sự
hao tổn này .
Đưa đến sa ngã nền
tảng nếu đã hiểu bản chất rõ biết không lay chuyển của niềm nội hỉ . Lại không
thể hiện bất cứ sự ngăn chận . Không có lý do hợp lý và không sử dụng bất cứ
phương tiện nào để tư duy về tỉnh thức nhờ vào nội hỉ kết hợp với cảm xúc khoái
cảm nhục thể vắng bặt 4 yếu tố nghiêm trọng .
Nếu hành động tính
dục không có cá tính tâm linh . Có nghĩa không có những nhận định để đi đến giải
thoát hay tỉnh thức , sự giải thoát năng lượng hay những tinh chất do cảm xúc
nhục thể vẫn chưa thể hợp thành sa ngã nền tảng .
Vì cảm xúc nhục
thể chỉ tước đi sức sống hình tướng cần ứng dụng vào cuộc sống qua sự gìn giữ
những thệ nguyện nền tảng Kalachakra
. Nó cản trở mục tiêu được
tỉnh thức nhanh bằng sự rõ biết của niềm nội hỉ không lay chuyển theo những giáo
huấn do hệ thống Kalachakra trình bày .
Như muốn giữ tính
hiện thực . Sau khi nhận thệ nguyện không cần thiết phải từ khước không có có
con cái , hay tước đi khoái cảm trong hành động tính dục hay mặc cảm vì cảm nhận
về nó .
Ngược lại , cần
xem cảm xúc cực khoái trong cái nhìn rõ biết niềm nội hỉ không lay chuyển và
quan niệm về quan hệ thể xác . Nói tóm lại , nếu không tự chủ và rõ biết về
những năng lượng cảm xúc nhục thể . Đó chính là nguyên nhân của stress
.
Sau khi đã nhận những
thệ nguyện Mật tông . Cần gìn giử những cảm xúc
do khoái cảm nhục thể từ hành động tính dục phát sinh . Trở thành trải nghiệm
tâm linh hay như phương tiện giải quyết những vấn đề tâm thức . Nhất là cần
chuyển hóa nó trở thành con đường dẫn đến tỉnh thức .
6-Ủng
hộ quan kiến hiện thực theo kinh điển thấp .
Trật tự riêng biệt với ý muốn
trêu chọc hành giả Mật tông hay kinh điển . Với lý do một trong những giáo huấn
của những thừa này không được đức Phật Shakyamuni trao truyền . Sự sa ngã là xem nhẹ những giải thích về
tính không do kinh điển của Đại Hoàn Thiện
Hiểu Biết ( Bát nhã ba la mật ) cung
cấp .
Xem chúng ít giá trị hơn
những giải thích do Mật điển cung cấp và đón nhận một trong những giáo huấn khác
về tính không được đức Phật trao truyền . Nhưng nguyên nhân của sự phê phán cần
có cùng với thái độ phẫn nộ và tâm thức chật hẹp . Nhưng không có sa ngã nếu
nguyên nhân là vô minh .
7-Tiết
lộ những giáo huấn bí mật ;
Cho hành giả thiếu sự trưởng thành cần thiết để hiểu biết .
Cho hành giả thiếu sự trưởng thành cần thiết để hiểu biết .
Những điều kiện sa ngã tương
tự những điều kiện những hệ thống khác đã định sẵn . Ngoại trừ sự sa ngã riêng
biệt về những giáo huấn liên quan đến sự có được sự rõ biết niềm nội hỉ lớn -
mãnh liệt nhất của 4 niềm hoan hỉ có thể biết khi những giọt sáng được tích tụ
trong kinh mạch trung ương .
8-Đối
xử tệ với ngũ uẩn .
Trong những hệ thống khác của
đẳng cấp Anuttara Yoga Mật tông .
Sự sa ngã này là xem thường ngũ uẩn . Trong khi hệ thống
Kalachakra
xem có sa ngã nếu bạc đãi và xem thường
ngũ uẩn . Chúng ta cần nhận ra bản chất ngũ uẩn tương tự với bản chất những hình
tướng chư Phật và sự rõ biết sâu sắc . Nếu lên án ngũ uẩn sẽ làm tổn hại đến sự
rõ biết về nội hỉ và ngăn cản thái độ phát sinh rõ biết về nội hỉ .
Nếu vẫn giử sự tin tưởng trong
nhận định ngũ uẩn sẽ làm chúng ta đau khổ hay tổn hại . Thái độ này dẫn sa ngã ,
trừ khi động lực là lòng nhân ái . Sự sa ngã được xem như đầy đủ sau một hành
động tự trừng phạt làm giảm thiểu trạng thái hoan hỉ theo chiều hướng thể chất
hay tâm thức .
9-Không
xác tín vào sự thuần khiết những hiện tượng .
Theo những hệ
thống đẳng cấp Anuttara Yoga Mật tông khác , sẽ sa ngã nếu chúng ta từ khước giáo
huấn về tính không của những trường phái duy thức hay Trung quán . Liên quan đến
giáo huấn Kalachakra
. Chúng ta không chỉ từ
khước tính không thuộc về những trường phái triết học này , nhưng lại chọn theo
quan kiến khác về hiện thực do chúng ta tưởng ra hay do người khác đơm đặt .
Dù vậy , công bố
giáo huấn về tính không dưới hình thức đơn giản cho người sơ cơ . Không xem như
là nguyên nhân sa ngã , hay đơn giản hóa khái niệm về tính không vì những lý lẽ
nhân từ .
10-Giả vờ có tình thương .
Trong những hệ
thống Anuttara Yoga Mật tông khác .
Sự sa ngã nền tảng là tỏ ra nhã
nhặn với người ác ý . Đối với Mật tông Kalachakra là có những lời dễ thương
trong khi trái tim vẫn chứa những tư tưởng đê hèn .
Nói chung , chúng
ta rơi vào sa ngã nếu có thái độ đạo đức giả đối với Mật tông chẳng hạn
. Nếu đọc
một bài về Sadhana hay tham gia vào nghi lễ với sự thờ ơ , tuy bên vẫn giữ sự
thành kính bên ngoài và bí mật hành động một các tiêu cực ngược lại với những
dấn thân .
11-Giả tạo khái niệm rõ biết về nội hỉ trong khi rất
khó miêu tả .
Sự sa ngã nền tảng
trong những hệ thống đẳng cấp Anuttara Yoga Mật tông là gián đoạn thiền định về
tính không . Nhưng với hệ thống
Kalachakra là từ chối sự rõ biết
không lay chuyển niềm nội hỉ ở giây phút nắm bắt .
Có nghĩa trong giai
đoạn thành tựu . Khi khởi lên sự rỏ biết nội hỉ trong tâm thức .
Nếu chúng ta bắt đầu ù lì thay vì sử dụng cho
thiền định về tính không . Sẽ rơi vào sa ngã .
12-Cố
vạch những khuyết điểm
về người đã thuần khiết hay đã thành tựu .
về người đã thuần khiết hay đã thành tựu .
Với những hệ thống khác của
đẳng cấp Anuttara Yoga Mật tông
. Sự sa ngã nền là tìm cách hủy diệt lòng
tin hành giả trong quá trình riêng biệt của Mật tông và chuyển họ sang chiều
hướng khác .
Trong khi Mật tông Kalachakara , sự sa ngã là tuyên bố những lời thất vọng trước
hành giả thành tựu trong thực hành riêng biệt của Mật tông . Cố tìm những khuyết điểm
và mỉa mai vì lòng ganh tỵ . Nếu họ hiểu lời nói của chúng ta và thật sự làm họ
thất vọng . Lúc ấy sự sa ngã đã hoàn chỉnh .
13-Từ
khước những thực thể kết hợp mật thiết với thực hành Mật tông .
14-Chế
diễu người nữ .
Hai nguyên nhân sa ngã này
tương tự với những nguyên nhân thuộc hệ thống chung với những hệ thống khác
thuộc đẳng cấp Anuttara Yoga Mật tông
. Những gì liên quan đến điểm này . Nói
chung hệ thống Kalachakra nhấn mạnh về người nữ .
Đồng thời ,
những thệ nguyện Mật tông được trình bày
từ những hệ thống đẳng cấp Anuttara Yoga khác
và của Mật tông Kalachakra .
Nhấn mạnh sự cần từ khước vi phạm 8 hành động cục kỳ có hại .
Vì nó gạt bỏ sức sống của thực hành thiền định
và ngăn chận sự tiến bộ trên con đường tỉnh thức .
những thệ nguyện Mật tông được trình bày
từ những hệ thống đẳng cấp Anuttara Yoga khác
và của Mật tông Kalachakra .
Nhấn mạnh sự cần từ khước vi phạm 8 hành động cục kỳ có hại .
Vì nó gạt bỏ sức sống của thực hành thiền định
và ngăn chận sự tiến bộ trên con đường tỉnh thức .
Nhưng về 46 thệ
nguyện Bồ tát đạo phụ . Nếu vi phạm một trong những thệ nguyện này , dù đi kèm
bốn yếu tố nghiêm trọng . Vẫn chưa thể dẫn đến đánh mất thệ nguyện Mật tông . Vì
thế , không cần nghiên cứu tất cả những thệ nguyện phụ trước buổi lễ
Khai tâm Kalachakra
. Nhưng cần thật sáng suốt
khi đề cập ngắn gọn đến vài thệ nguyện phụ . Vì chúng sẽ làm cho nhiều thí sinh
trong buổi lễ khai tâm rơi vào sự hoang mang .
Một trong những thệ
nguyện Mật tông phụ liên quan đến việc chọn lựa Người phối ngẫu ( Partenaire )
trong tính dục . Niềm nội hỉ do sự kết hợp thân vật lý với người nữ với người
nam hay ngược lại . Tạo cảm xúc nhưng không lao vào cảm xúc nhục thể bản năng ,
cho phép hành giả gia tăng sự rõ biết phân biện về tính không .
Những điều có giá
trị cho người nam . Đồng thời cũng có giá trị cho người nữ đã thọ nhận thệ
nguyện Mật tông . Nếu đã đạt đến rõ biết
nội hỉ về tính không , cũng như không còn bị những cơn gió nghiệp lực chủ động
trong hành vi .
Nhờ vào những kỹ thuật Yoga cho
phép lao vào cảm xúc cực độ . Chúng ta cảm nhận một cách tự nhiên và hoàn toàn
ngưỡng mộ những hành giả đã thành tựu . Và quyết định mình phải đạt đến điều này
.
Do đó rất quan trọng để nhận định
chính xác đối tượng dự kiến trong kết hợp tính dục theo quan kiến Mật tông . Nói
cách khác , đối tượng phải thật thích hợp . Đồng thời đã nhận được sự trao
truyền quyền năng . Nam cũng như nữ ( phối ngẫu ) tuyệt đối tôn trọng những thệ
nguyện Mật tông và thực hành thật nghiêm túc những kỹ thuật về chuyển hóa
.
Điều quan trọng nhất là :
Phải giữ gìn nền tảng thệ nguyện
thứ 5 của hệ thống Kalachakra . Có nghĩa
tự từ khước quan hệ tính dục dung tục và xác tín khoái cảm cảm xúc cực độ phát
khởi chính là bản chất tâm linh hay là phương tiện đạt đến sự giải thoát và tỉnh
thức .
Hơn nữa , người phối ngẫu
không phải sự kết hợp tính dục bằng bạo lực hay vì áp lực tâm lý . Cho dù rất tế
nhị . Chúng ta thuyết phục họ bằng cáh tâng bốc sự tiến bộ về tâm linh . Thuyết
phục giờ đây theo phương cách một Bồ tát , chắc chắn sẽ tiến bộ trên con đường
Mật tông và điều này sẽ làm lợi ích cho tất cả mọi người .
Sự kết hợp tính dục hoàn toàn
theo quan kiến Mật tông . Người phối ngẫu nhìn nó như một phương tiện để biểu lộ
tình thương và sự âu yếm . Hai quan điểm này không hề đối nghịch nhau . Vì gia
tăng sự rõ biết nội hỉ trong hành động tính dục rất cần có nền tảng của tình yêu
phát xuất từ trái tim .
Vì , nếu người phối ngẫu bám víu
vào khoái cảm nhục thể hoặc bị ám ảnh về tính dục . Hay chỉ thích sống trong cảm
xúc cực độ của thân vật lý . Như thế cả có thể trở thành mồi ngon cho những tư
tưởng hay cảm xúc nhục thể bản năng và đánh mất quan kiến Mật tông trong sự kết
hợp tính dục .
Nếu tự dấn thân hay đã dấn
thân trong thực hành Mật tông . Nhưng người phối ngẫu không thích dùng kỹ thuật
này . Không cần bỏ rơi hay thay thế họ bằng hành giả Mật tông khác . Chúng ta
không phải tìm cách ép người phối ngẫu tuân theo kỹ thuật chuyển hóa hay ép họ
tuân thủ là đối trọng trong lễ khai tâm riêng cho mình .
Nhất là , tránh khai thác họ vì
sự tiến bộ tâm linh của mình . Cũng tránh lừa dối và lạm dụng tình cảm ép họ
phải hòa hợp vì muốn thỏa mãn khoái cảm nhục thể của bản năng . Chúng ta phải tử
tế , kiên nhẫn , cảm thông và hơn hết là cần khiêm cung hòa ái vì sự thành tựu
tâm linh . Nếu người phối ngẫu dễ thụ cảm . Điều cần thiết phải thật nhẹ nhàng
khuyến khích họ làm việc cho sự thành tựu bằng những tiềm năng riêng biệt .
Nhưng với kỹ thuật hữu hiệu
nhất không phải là phương tiện quan hệ tính dục dung tục thông thường . Như thế
, nếu hai quan niệm về những quan hệ tính dục còn trái nghịch . Hố thẩm giữa hai
phối ngẫu càng ngày càng nhiều dị biệt .
Thệ nguyện Mật tông phụ khác ,
thường đặt vấn đề cho những thực tập sinh trong lễ Khai tâm Kalachakra . Đòi hỏi
đặt nền tảng hành động tính dục trên lòng biết ơn với ba vấn đề như : Duy trì
tâm thức - Ngôn ngữ - Thân vật lý đồng vắng bặt mọi lầm lẫn . Nếu không niềm nội
hỉ phát sinh chỉ làm gia tăng dục vọng và bám chấp . Không phải sự rõ biết về
Nội hỉ - tính không .
Thứ nhất :
Trong quan hệ chuyển hóa tính dục
. Cần duy trì tâm thức trong niềm nội
hỉ - tính không . Không trú trong tư tưởng dung tục như : Quá lo âu và tự đặt
những câu hỏi về sự hiệu năng tính dục sẽ thực hành như thế nào .
Thứ hai :
Không phải bằng lời
nói từ hiện tượng tâm thức lầm lẫn về rõ biết niềm Nội hỉ - tính không . Lầm lẫn
như bám chấp vào những đặc trưng của thân thể khiến ham thích nhìn bộ phận sinh
dục như đối tượng kích thích sự ham muốn để có được những khoái cảm nhục thể cao
độ . Để giải thoát lầm lẫn này . Nên nhìn với tâm thức : Tất cả những đối tượng
dùng cho sự phát triển rõ biết về niềm Nội hỉ tính không cao nhất ( Mahamudra )
.
Thứ ba :
Thân vật lý hai phối
ngẫu cần xuất hiện dưới khía cạnh hình tướng những chư Phật phát sinh từ tâm
thức . Với sự sâu thẳm này sẽ thể hiện trải nghiệm nội hỉ - tính không . Nếu
không , những hình tướng chư Phật không thể phát sinh trong tâm thức đang làm
mồi cho dục vọng . Không thể phát sinh từ những huyễn hoặc cá nhân . Vì
cảm
nhận người phối ngẫu và mình dưới đường nét của khoái cảm nhục thể
.
Hơn nữa , Rất tốt khi biết tự
nhắc nhở :
Nếu duy trì Tâm thức .
Ngôn ngữ - Thân vật lý thuần khiết trong suốt sự hòa hợp tính dục và đạt đến cảm
xúc cao độ . Dù vậy , vẫn không rơi vào ngộ nhận chính khoái cảm là bản chất tâm
linh hay phương tiện đạt đến giải thoát hay tỉnh thức .
Vì quan niệm này
dẫn theo sa ngã khi niềm cảm xúc cao độ kích thích hay thể hiện một cách thụ
động . Nếu tự mô phỏng :
Người phối ngẫu và
mình dưới khía cạnh hình tướng những chư Phật . Cần chú ý giữ sự rõ biết về tính
cách hiện hữu của thân mình và thân của người phối ngẫu . Cho dù họ có thực hành
Mật tông hay không .
Thệ nguyện Mật
tông phụ sau cùng này vẫn có thể gây ra những sự hiểu lầm . Vì thế chúng ta
không nên ở chung quá 7 ngày với những Shravaka . Thuật
ngữ “
Shravaka ” là những người có nhận định tồi và xấu về Mật tông và thường hay chế
diễu . Càng lâu trong sự kề cận này họ có thể làm chúng ta nản chí .
Nhất là khi họ tỏ
ra đối nghịch với những thực hành thiền định về Kalachakra . Nếu những “ Shravaka ” hình thành do
thiên kiến và sự quen thuộc . Chúng ta không vi phạm bất cứ lỗi nào khi tiếp tục
sống với họ . Tất cả những điều này muốn nhấn mạch vào điểm quan trọng :
Cần giữ bí mật tuyệt
đối về thực hành Mật tông Khalachakra trước những người đối nghịch . Hay đơn
giản nhất là : Không chia xẻ sự xác tín về lãnh vực này với bất cứ một ai khác
.HET=OM MANI PADME HUM.( 3 LAN ).GESHE TASHI TSERING.( MHDT ).14/4/2012.
No comments:
Post a Comment