Friday, 13 April 2012




Những người chưa cảm thấy đã sẵn sàng đón nhận gìn giử thệ nguyện Bồ tát đạo ;
và cũng như chưa sẵn sàng dấn thân thực hành đều đặn kỹ thuật về Mật tông .
Dù vậy vẫn có thể dự thính vào lễ khai tâm Kalachakra
hay tất cả lễ khai tâm khác thuộc đẳng cấp Mật tông Anuttara Yoga .

Như những dự thính viên tích cực ít ra cũng đủ cho một vài thủ tục nào đó . Họ có thể sẽ qui y Tam Bảo và tự nguyện và duy chỉ gìn giử Bồ tát nguyện . Những người đã qui y Tam Bảo và nhận lãnh những thệ nguyện Bồ tát đạo . Vẫn có thể lặp lại những dấn thân nhân một lễ Khai tâm Kalachakra như những quan sát viên bình thường khác . Nhưng chỉ những dự thính viên đã nhận lãnh những thệ nguyện Mật tông mới có thể đón nhận toàn bộ sự trao truyền quyền năng một cách hữu hiệu .

Có hai phạm trù thuộc về thệ nguyện Mật tông :

1-
Những thệ nguyện nền tảng .
2-Những thệ nguyện phụ .

Cần phải hứa giữ gìn mãi mãi những thệ nguyện . Chúng sẽ đi vào tính liên tục rõ biết từ đời này sang đời khác cho đến khi thành tựu tỉnh thức . Những truyền thống Gélugpa , Kagyupa và Sakyapa trao truyền những thệ nguyện trong những trao truyền quyền năng thuộc hai đẳng cấp cao của Tantra - YogaAnuttara Yoga theo một sự sắp hạng thuộc nhóm 4 .

Trong khi truyền thống Nyingpa trao truyền trong những trao truyền quyền năng thuộc 1 trong 4 đẳng cấp cao thuộc Tantra Yoga - Mahayoga - Anuyoga và Atiyoga hay Dzogchen , theo sắp hạng nhóm 6 .

Những thệ nguyện Bồ tát đạo và Mật tông , có thể nói giống nhau từng chi tiết . Về những gì liên quan đến những thệ nguyện nền tảng Mật tông . Có nghĩa mong muốn chúng ta từ khước 14 hành động sai lầm .

Nếu những hành động này đi kèm 4 yếu tố nghiêm trọng , sẽ đưa chúng ta vào nền tảng sa ngã . Cũng như sẽ hoàn toàn mất mát những thệ nguyện Mật tông . Những thệ nguyện này chủ yếu dựa vào thực hành Mật tông , vì kỹ thuật Mật tông được dùng như những trợ huấn cụ . Nếu không có chúng , quả thật không thể theo đuổi con đường Mật tông Kalachakra .

Những gì liên quan đến những thệ nguyện Mật tông và hành động duy nhất đưa đến sự sa ngã chính là : Từ khước Bồ đề tâm . Như thế , những gì có giá trị cho những thệ nguyện Bồ tát đạo đồng thời cũng có giá trị cho những thệ nguyện Mật tông .

Mười sáu vi phạm khác vẫn không thể không loại trừ chúng ra khỏi liên tục tính của sự rõ biết . Chúng chỉ có thể đi đến suy yếu , trừ khi đi kèm tập họp những yếu tố nghiêm trọng . Nên những thệ nguyện Mật tông phụ , sẽ giúp chúng ta từ khước 8 hành động cực kỳ có hại .

Sự sai lầm lúc nào cũng tỷ lệ thuận với số lượng và sức mạnh những yếu tố nghiêm trọng hiện diện trong tâm thức trong giây phút hành động . Nhưng ngay cả khi sai lầm đi kèm theo 4 yếu tố nghiêm trọng , vẫn chưa thể làm mất những thệ nguyện Mật tông .

Trong hệ thống Kalachakra , phần đông những thệ nguyện nền tảng Mật tông được xác định rõ hơn trong những hệ thống Mật tông cao cấp khác . Vì thế , nhân lễ khai tâm Kalachakra . Chúng ta hứa gìn giữ , những gì được trình bày chung cho hệ thống này và những gì riêng biệt của hệ thống Kalachakra .

Ngari Panchen , vị thầy Nyingma thể kỷ XVI giải thích : « Những thệ nguyện nền tảng Mật tông trong suốt lễ khai tâm dạng Dzogchen bao gồm những phiên bản chung với 3 trường phái phật học Tây tạng khác . Đặc biệt những phiên bản thuộc về hệ thống Kalachakra . Để sáng tỏ những khác biệt này , chúng ta sẽ theo dõi những bài bình luận do hai vị thầy thuộc dòng Gélougpa biên soạn . Đó là : Tsongkhapa và Kaydrub Norzang – Gyatso » .



Mười bốn thệ nguyện Mật tông
chung cho tất cả hệ thống đẳng cấp Anuttara Yoga
dự kiến để chúng ta từ khước những hành động lầm lẫn như sau :

1-
Xem thường và chế nhạo vị thầy Vajra
.

Cũng đồng nghĩa với xem thường hay chế nhạo đạo sư Mật tông . Cho dù ông thuộc bất cứ hệ thống nào hay đã trao truyền lễ khai tâm cho chúng ta . Hoặc đã giải thích hoàn toàn hay từng phần văn bản Mật tông , kể cả những giáo huấn truyền khẩu về những gì chuẩn bị đi vào thực hành . Xem thường hay chế nhạo một vị thầy Mật tông là :

Tỏ ra khinh thường , tìm những khuyết điểm của ông để cười nhạo . Tỏ ra không tôn kính hay vô lễ . Suy nghĩ và cho rằng những giáo huấn ông giảng dạy hoàn toàn vô bổ . Sau khi đã cảm nhận với nhiều quý mến và tôn trọng . Nhưng bỏ rơi sự quý mến và tôn trọng này . Nếu từ khước ông như một giảng sư và nhìn ông bằng sự kiêu hãnh và khinh thị . Có nghĩa tự rơi vào căn bản sa ngã .

Mật tông Kalachakra nói rõ :

Nếu nghĩ vị thầy Mật tông không thích hợp , hay ông không có những phẩm chất cần thiết để giảng dạy . Hoặc hình ông chỉ hành động bằng sự dò dẫm . Chúng ta có thể xa lánh với sự tôn kính và không học hỏi hay giữ những mối liên lạc .

Điều này khác biệt với sự tỏ ra xem thường hay khinh thị một giảng sư ngoài ngoài bối cảnh Mật tông . Chẳng hạn : Giáo huấn về lòng từ , về tính không . Quy y Tam Bảo , thệ nguyện gìn giữ giới hạnh Bồ tát đạo . Nhưng không hướng dẫn căn bản về sự sa ngã . Nhưng dù vậy , điều này cũng hợp thành những chướng ngại nghiêm trọng cho sự tiến bộ trên con đường Mật tông .

2-Không để ý đến lời của người đã thành tựu tỉnh thức tuyên bố ,
Về những thệ nguyện gìn giữ giới hạnh Bồ tát đạo hay Mật tông .

Dù những lời này được đức Phật tuyên bố hay do một đại sư của dòng truyền thừa Mật tông . Nhưng để được xem là căn bản sa ngã hay vi phạm thệ nguyện Mật tông nền tảng hay phụ phải đi kèm 2 yếu tố :

1-

Rõ biết đầy đủ những lời được một người đã vắng bặt mọi dấu tích tâm thức tiêu cực tuyên thuyết . Nhưng vẫn cười nhạo và mãi tư duy hay nói sự vi phạm này của mình không quan trọng .

2-

Cười nhạo hay vi phạm những mệnh lệnh đã biết khởi phát từ một người đã thành tựu tỉnh thức , không dẫn đến căn bản sa ngã . Cho dù điều này khởi sinh những chướng ngại nghiêm trọng cho sự tiến bộ tâm linh trên con đường Mật tông .

3-Tìm khuyết điểm những huynh đệ Vajra vì giận dữ .

« Huynh đệ » có nghĩa : Những người đã lấy thệ nguyện Mật tông với cùng chung một vị thầy . Lễ khai tâm được trao truyền đồng thời hay không đồng thời . Không kể thuộc đẳng cấp Tantra hay hệ thống hay giáo pháp riêng biệt được trao truyền quyền năng .

Sa ngã khi đã rõ biết người hay những người bị phê phán là những huynh đệ trong hệ thống Vajra . Nhưng vẫn chế nhạo hay chửi bới họ trước mặt , do những lẩm lẫn , những khuyết điểm , thiếu sót , sai lầm , vi phạm thệ nguyện . . . Cho dù đúng hay không , và họ hoàn toàn hiểu rõ những lời nói này của chúng ta .Với động lực những lời nói này do ác tâm , giận dữ hay thù hận .

Nhưng nếu do động cơ mong muốn thu hút sự chú ý của huynh đệ Vajra về những gì còn yếu kém bằng tâm thức tử tế với hy vọng giúp họ vượt qua chướng ngại . Điều này không được xem là lỗi .

4-Không thương yêu một con người có sẵn tính mẫn cảm .

Thương yêu có nghĩa mong muốn họ được hạnh phúc và sống trong những nguyên nhân hạnh phúc . Ngược lại , sự sa ngã có nghĩa : Đối với những kẻ giết người hàng loạt chẳng hạn . Chúng ta muốn họ phải vắng bặt hạnh phúc vì những gì họ đã hành động . Những hoàn cảnh không được xem là sa ngã như sau :

Hiểu đầy đủ bản chất hiện thực và luật nhân quả về phần hành xử . Chúng ta mong muốn kẻ sát nhân không ít thì nhiều cũng lãnh hội được những điều kiện hạnh phúc . Khiến họ có thể từ khước vi phạm những việc tàn bạo trong tương lai .

Như vậy hiểu biết về hạnh phúc . Nếu mong muốn người khác không bao giờ hạnh phúc tiếp theo theo sa ngã nền tảng . Trong khi chúng ta cố tình tán đồng sa ngã và không giúp đở họ . Như thế sẽ làm suy yếu những thệ nguyện một cách trầm trọng .

5-Từ khước bồ đề tâm .

Nguyên nhân sa ngã đặc biệt này giống như nguyên nhân đề cập ở điểm 18 trong những thệ nguyện Bồ tát đạo . Nhằm từ khước bồ đề tâm nguyện , với lý do không có khả năng đạt đến phật tính vì lợi ích chúng sinh . Ngay cả khi sự vắng bặt 4 yếu tố nghiêm trọng . Suy nghĩ này đủ để cắt đứt thẳng thừng những thệ nguyện Bồ tát đạo và Mật tông .

6-Trêu chọc người thực hành Mật tông ;
Hay những hệ thống triết lý Phật học .

Sự sa ngã này tương đương với sự sa ngã thứ sáu trong thệ nguyện Bồ tát đạo , cũng như sự khước từ chánh Pháp . Và tuyên bố giáo huấn viết tay không trung thực với những lời đức Phật đã tuyên thuyết về Những thừa khác như Thanh Văn , Độc giác và Đại thừa .

7-
Tiết lộ những giáo huấn bí mật riêng biệt cho những người chưa trưởng thành . Những giáo huấn này đặt trọng tâm vào thực hành trong giai đoạn sáng tạo và thành tựu . Chính xác hơn là thành tựu về tính không .

Những chi tiết liên quan đến những Sadhana riêng biệt hay những kỹ thuật thực tại hóa ( cập nhật ) để rõ biết sâu sắc về niềm Nội hỉ - Tính không bằng tâm thức hoàn toàn tỉnh thức . Nếu chưa nhận được sự trao truyền quyền năng tương ứng . Đó là sự trưởng thành cần thiết còn thiếu sót cho một hành giả .

Tuy họ có thể xác tín vào những kỹ thuật nào đó . Nhưng vẫn có sự sa ngã , nếu chúng ta giải thích những tiến trình bí mật , trong khi rõ biết người được giao lưu chưa có sự trưởng thành cần thiết để đi vào thực hành .

Nhưng nếu người này hiểu một cách sáng tỏ những giải thích được truyền trao vẫn có thể ứng dụng tốt kỹ thuật thực hành . Trường hợp ngoại lệ duy nhất là : Sự cần thiết . Chẳng hạn thật cần thiết để cung cấp những thông điệp và giải thích để đánh tan sự hiểu lầm tiếp nối những quan kiến sai lầm hay Mật tông đã bị biến dạng .

Dạy lý thuyết Mật tông trường hợp nghiên cứu ở đại học . Tuy bài giảng không đủ để ứng dụng vào thực hành , cũng không đưa đến sự sa ngã . Dù điều này tác động trên thực hành cá nhân theo chiều hướng những thể hiện giảm tính hiệu quả .

Cuối cùng , giảng những giáo huấn bí mật với sự có mặt của những quan sát viên trong lễ khai tâm Kalachakra hay bất cứ dạng thức khai tâm Mật tông nào khác . Vẫn không xem là lầm lỗi .

8-
Chủ động phát tiết những lời chửi bới với ngủ uẩn hay bạc đãi chúng . Những tập họp vật chất hay những yếu tố hợp lại thuộc về ngũ uẩn không được xem là chia cách với trải nghiệm bình thường của con người .

Chúng bao gồm những hiện tượng liên quan đến thế giới vật lý như : Thấy nghe , hạnh phúc , buồn bả , khả năng phân biện hay những yếu tố khác trong dạng tâm thức như tình thương hay hận thù , sự rõ biết thị giác và tâm thức . Tóm lại , ngũ uẩn không thể tách rời thân vật lý , tâm thức bình thường và cảm xúc .

Tuy chúng hoen ố và đầy lầm lẫn . Vì thế được gọi là “ Ô nhiễm ” hay “ bị nhiễm bẩn ” . Nhưng trong thực hành Anuttara Yoga Mật tông loại trừ sự lầm lẫn do tâm thức bình về bản chất thật của những hiện tượng duy trì . Điều này sẽ giúp vận hành sự chuyển hóa thẳng thừng ngũ uẩn thành ngũ trí .

Thay vì tiếp nối những giây phút trải nghiệm vận hành năm yếu tố lầm lẫn ( những tập họp vật chất thân vật lý hay ngũ uẩn ) . Mỗi giây phút trải nghiệm được chuyển hóa thành năm lối rõ biết sâu sắc ; hoàn toàn phân ly khỏi lầm lẫn và được chỉ định bằng : « Những bản chất tiềm ẩn của ngũ uẩn » .

Sự rõ biết sâu sắc có thể được so sánh với tấm gương phản chiếu mọi sự việc một cách bình đẳng . Phương cách thực hiện những mục đích và phạm vi hiện thực . Và những phẩm chất rõ biết được kết họp với năm dạng thức chư Phật : Vairochana , Amitabha , Ratnasambhava , Amogasidhhi và Akshobhya . Đây là chủ đề sẽ được đề cập chi tiết hơn ở chương XI .

Những lễ khai tâm đẳng cấp Anuttara Yoga Mật tông bắt đấu gieo những hạt mầm cần thiết cho sự chuyển hóa ngũ uẩn . Trong suốt thời kỳ sáng tạo , chúng ta vun trồng những hạt mầm khi mô phỏng ngũ uẩn chuyển hóa thành những hình tướng thuần khiết nhờ mô phỏng năm dạng thức chư Phật tương ưng .

Suốt giai đoạn thành tựu , chúng ta làm việc với sự trưởng thành những hạt mầm . Nhờ vào những kỹ thuật Yoga được định sẵn cho việc ứng dụng này và sự biểu lộ tâm thức tỉnh thức . Sau đó có thể cập nhật năm mô hình rõ biết sâu sắc .

Tám sa ngã nền tảng được nói bên trên ; chính là sự xem thường ngũ uẩn . Nó được chia thành hai phạm trù :

Thứ nhất :Tin chắc chúng không thể chuyển hóa .

Thứ hai :Cố tình bạc đãi bằng thù hận hay xem rẽ .

Thực hành Mật tông không đòi hỏi phải chối bỏ hay cần phải khước từ giáo huấn kinh điển ( Sutra ) . Quả thật sai lầm , khi tin sự thuần khiết của thân vật lý và khả năng nó sẽ mang lại hạnh phúc cho chúng ta .

Đúng ra thân vật lý trở thành dơ bẩn và làm chúng ta đau khổ vì bệnh hoạn hay bị thương tích . Dù vậy , trong Mật tông . Chúng ta nhận ra sự hiện thực sâu sắc hơn nữa về thân vật lý , cũng như sự lợi ích của nó về Bồ tát đạo .

Những người không nhận ra bản chất sâu sắc hay không muốn tìm hiểu . Có nguy cơ phản bội lại sự giúp đở của thân vật lý , và chỉ tin vào tâm thức dung tục và những cảm xúc . Đó chính là sự bất hạnh .

Khi tự hạ thấp mình như thế . Hay hơn nữa , tự tra tấn mình bằng những hành động như sự bạo dâm của thân vật lý và tâm thức . Khi bạo hành một cách ngu xuẩn thân vật lý và tâm thức , hay tự làm ô nhiễm bằng ma túy hoặc những chất kích thích do muốn tìm kiếm khoái cảm . Có nghĩa , chúng ta bắt đếu tự lao vào nền tảng của sa ngã nghiêm trọng .

9-Từ khước khái niệm tính không .

Khái niệm tính không được nghe theo chiều hướng chung trong những kinh điển về « Hoàn thiện hiểu biết » ( Bát nhã ba la mật ) . Muốn nói về tất cả mọi hiện tượng không chỉ riêng con người . Mọi mô hình có thể hay không bị huyễn hoặc về hiện tượng vắng bặt ; do những trường phái triết lý Đại thừa : Duy thức học và trường phái Trung Tính đề nghị .

Ở đây , từ khước những giáo huấn có nghĩa :
Nghi ngờ . Không xác tín hay xem thường .

Dù bất cứ hệ thống riêng biệt đại thừa nào sử dụng làm căn bản thực hành Mật tông . Cũng cần xác tín tuyệt đối những giáo huấn về tính không . Thật sự chúng ta không thể từ khước khái niệm tính không hay thực hành những kỹ thuật đi ngược lại những gì được gọi là căn bản này .

Chẳng hạn có thể tự thuyết phục . Sự mô phỏng chúng ta có những thành tựu hiện thực về vật lý . Điều này chỉ đưa đến tác dụng về đau khổ luân hồi tiếp nối , hay dẫn đến mất quân bình về tâm lý .

Sau khi tiến bộ trên con đường Mật tông . Chúng ta có thể bước qua hệ thống cao cấp trong thực hành và để ngoài lề những giáo huấn tính không do Duy thức học đề nghị . Chúng ta có thể chọn theo giáo huấn Trung quán hay lý luận về Trung quán , bỏ qua những giáo huấn tính không thuộc Y Tự Khởi ( Svatantrika ) và những giáo huấn do Cụ Duyên phái ( Prasanguika ) đề nghị .

Có nghĩa chuyển hướng về những quan niệm tính không ít biến dạng hơn những quan niệm khác . Nói như thế , không có nghĩa phải chọn theo những quan kiến sai lầm về tính không . Thực sự , chúng ta chỉ cần vươn mình lên trình độ cao hơn về sự lĩnh hội tính không .

10-Tỏ ra dễ dãi với sự ác ý .

Như ác ý với những ai xem khinh người hướng dẫn tâm linh của chúng ta ; hay những vị thầy tâm linh nói chung . Cụ thể hơn là chư Phật , Pháp và Tăng già . Nhất là nói xấu hay lên án họ .

Dù tiếp tục mong muốn họ hạnh phúc và có được nguyên nhân hạnh phúc . Vẫn có sự sa ngã nền tảng . Nếu đối đãi họ một cách khoan dung . Cho dù là hành động cũng như lời nói . Có nghĩa chỉ vì tình bạn hay ủng hộ vật chất bằng cách mua sản phẩm họ chế tạo , sách vì họ là tác giả . . .

Nếu động lực duy nhất là tình thương và lòng từ . Thêm những phương tiện làm họ ngưng lại những thái độ tiêu cực để đến trạng thái tích cực . Chúng ta có thể cố thực hiện bằng tất cả những phương pháp nhiệt huyết . Trong những hoàn cảnh này không được xem là lầm lỗi .

11-Ngưng thực hành thiền định về tính không .
Như thệ nguyện Mật tông thứ 9 .

Khái niệm tính không có thể được hiểu theo những quan kiến do Duy thức học hay Trung quán luận trình bày .

Sự lãnh hội chúng ta trở thành hữu hiệu , sẽ có sa ngã nền tảng nếu để qua một ngày không thiền định tính không . Nói chung , truyền thống đòi hỏi cần phải thiền định về tính không ít nhất 3 lần trong ngày và 3 lần trong đêm . Cần phải kiên nhẫn thực hành đến khi tâm thức đã san bằng mọi chướng ngại ngăn trở sự phát sinh tính xuyên suốt mọi nơi .

Khi tính xuyên suốt đã đạt . Tính không hình thành thường trực trong sự rõ biết . Sự kiện đặt giới hạn về lãnh hội với tin tưởng sai lầm là đã thiền định đầy đủ về tính không . Điều này sẽ ngăn chận sự thành tựu .

12-
Chuyển hướng người rời khỏi đức tin .

Điều này có nghĩa cố tình làm họ nản chí và không còn muốn dấn thân vào thực hành riêng biệt của Mật tông . Trong khi sự thực hành này hoàn toàn thích hợp với họ . Nhất là họ đã lao vào con đường đầy tự tin và đã nhận sự trao truyền quyền năng tương ưng . . .

Một dự ý như thế nếu thành công sẽ dẫn đến sa ngã hoàn toàn . Nhưng nếu họ chưa sẵn sàng cho thực hành và chúng ta chỉ nói qua loa công việc họ thực hiện trước đó . Sẽ không có lỗi , dù họ nản chí về những lời nói chúng ta .

Cảnh giác người khác do lo âu về hiện thực, nhưng không tìm cách làm giảm giá trị vì để ý đến tư lợi . Như thế chỉ tương đương với việc dừng lại không quyết định tiến thêm nữa .

13-Nghi ngờ những thực thể ;
Là thành phần nội bộ thực hành Mật tông .

Những hệ thống đẳng cấp Anuttara Yoga Mật tông đòi hỏi tham gia những giai đoạn trong nghi thức cúng dường nổi tiếng dưới tên là Tsok . Điều này có nghĩa thưởng thức thịt và rượu đặc biệt dành riêng cho nghi thức này . Những thực thể này tượng trưng cho ngũ uẩn hay những thành phần thân vật lý .

Trong hệ thống Kalachakra . Những thực thể này là những cơn gió năng lượng bình thường hay những yếu tố quấy nhiễu . Riêng trong bối cảnh Mật tông nó có khả năng nối liền chúng ta với sự rõ biết sâu sắc vì đã tách rời mọi lầm lẫn .

Sự sa ngã nền tảng là nhìn những thực thể thế này một cách chán ngấy và khinh thị . Từ chối với lý do không thích hợp với người uống trà và nghệ thuật ăn chay . Hay tiêu thụ quá nhiều do tham ăn và tâm thức bám chấp .

14-Chế nhạo phụ nữ .

Mục đích Anuttara Yoga Tantra đưa chúng ta vào ánh sáng tỉnh thức để có thể lĩnh hội tính không trong mọi sự việc và khai trừ mau chóng những lầm lẫn đặc trưng . Những yếu tố cản trở sự giải thoát và khả năng làm lợi ích cho người .

Trạng thái nội hỉ của tâm thức đặc biệt có khả năng nối liền chúng ta với ánh sáng tỉnh thức . Vì nó thu hút chúng ta về những trình độ rõ biết và năng lượng luôn luôn sâu sắc , mãnh liệt và thuần khiết hơn .

Hơn nữa , một khi rõ biết nội hỉ đưọc kết hợp với ánh sáng tỉnh thức và tập trung vào sự lãnh hội tính không , sẽ trở thành công cụ dũng mãnh nhất để loại trừ những bản chất cố hữu của trạng thái lầm lẫn .

Trong suốt quá trình có sự tập trung thẩm thấu . Chúng ta trải nghiệm niềm nội hỉ lớn dần . Vì tâm thức đã chiến thắng sự ù lì và dao động . Cùng kết quả được đạt được do sở hữu sự lãnh hội và sự thành tựu tính không sâu sắc .

Tâm thức đã chuyển hóa hết những cảm xúc và những thái độ nhiễu loạn . Niềm nội hỉ kết hợp với tính không đưa chúng ta đến trình độ nội hỉ ngày càng mãnh liệt và thuần khiết hơn . Nhất là tăng dần sức mạnh tập trung và lãnh hội về tính không .

Trong Anuttara Yoga Mật tông . Có thể làm mãnh liệt hơn về rõ biết niềm nội hỉ với sự lĩnh hội về tính không . Chính xác là nhờ vào người nữ . Người nữ cũng cùng kết quả nhờ vào người nam . Sự kết hợp này có thể xảy ra bằng thân vật lý hay qua sự mô phỏng dưới khía cạnh những hình tướng chư Phật ( nam hay nữ ) .

Để tránh mọi lầm lẫn . Nếu hành giả sẵn có khả năng . Bằng hình tướng chư Phật phát ra từ sức mạnh của sự mô phỏng . Đây là lý do coi khinh , chế nhạo , mĩa mai , nhìn với ánh mắt hạ thấp người nữ hay hình tướng chư Phật nữ , sẽ đưa đến sự sa ngã nền tảng .

Khi tỏ ra vẻ chiếu cố người nữ hay tỏ ra khinh thị và họ hiểu chúng ta nhìn họ như thế ; sẽ hình thành sự sa ngã nền tảng . Nhưng người nữ đối đãi như thế với người nam lại không rơi vào sa ngã nền tảng . Hiển nhiên , trong thực tế thái độ như thế không được khuyến khích .



Phiên bản về 14 nguyên nhân sa ngã nền tảng do mật tông Kalachakra đề nghị .
Có vài khác biệt với phiên bản những hệ thống khác
của đẳng cấp Anuttara Yoga .
Những vi phạm nền tảng thuộc hệ thống Mật tông Kalachakra
có thể được tuyên bố như sau :

1-Làm rối tâm thức vị thầy Vajra .

Lý do sa ngã không chỉ khinh thường hay chế nhạo . Chính xác là những lời chửi mắng . Không phải chỉ nói những lời tiêu cực không do lòng nhân . Nhưng dưới áp lực của cảm xúc hay trạng thái rối loạn tâm thức không chịu kềm hãm . Nếu vị thầy nghe nói về hạnh kiểm chúng ta . Ông không hài lòng và có ý định sẽ giúp chúng ta tự kiểm soát tốt hơn . Sự sa ngã này được xem như hoàn chỉnh .

2-Không để ý đến mệnh lệnh của vị thầy .

Chính xác hơn làm suy yếu thệ nguyện đã được một người đã tỉnh thức dạy và rơi vi phạm . Ở đây sự sa ngã nhằm che dấu vi phạm một trong 10 hành động tiêu cực hay phá vở những thệ nguyện , sau khi được vị thầy -Vajra hoàn toàn sáng tỏ dặn dò chúng ta từ khước .

Nguyên nhân sự vi phạm có thể do cảm xúc hay rối loạn tinh thần . Nhưng sẽ không có sự sa ngã nếu động lực là lòng nhân . Trong trường hợp trước . Cần nhận ra vị thầy Mật tông chính là Phật đã hoàn toàn rõ biết .

Vì thế ông không thể đồng ý với thái độ chúng ta và không ngừng kiểm soát . Sự sa ngã được xem là hoàn chỉnh . Nếu vị thầy không biết gì về thái độ của mình hay nếu biết cũng không tỏ ra đã không hài lòng .

3-Do giận dữ .

Cố vạch những khuyết điểm của huynh đệ trong dòng Vajra . Sự trình bày này khác biệt với những điều chung của những hệ thống khác của đẳng cấp Anuttara Yoga Mật tông .

4-Từ khước thương người sẵn có tính nhạy cảm
( cảm xúc mạnh ) .

Bình luận hướng dẫn thêm . Sự sa ngã chỉ hữu hiệu nếu thái độ kéo dài ít nhất trọn một ngày . Nhưng nếu chỉ cảm nhận sự bực tức và rút lại tình thương chỉ trong thời gian ngắn không kéo theo sự sa ngã nền tảng .

5-Từ khước Bồ đề tâm .

Sự sa ngã nền tảng . Do từ khước thiền định về những hạt vi tế của giai đoạn thành tựu ; cho phép chúng ta thực hiện tỉnh thức nhờ vào rõ biết không lay chuyển niềm nội hỉ . Sự thành tựu tiếp theo sự xuất hiện tâm thức ánh sáng tỉnh thức và phát sinh sáng tỏ rõ biết niềm nội hỉ - tính không . ( Những hệ thống khác của Anuttara Yoga Mật tông chỉ nói từ khước nguyện vọng tỉnh thức vì lợi ích mọi người ) .

Với công cụ thật dũng mãnh này . Chúng ta có thể ổn định sự rõ biết về nội hỉ - tính không . Sau khi tích lũy trong kinh mạch trung ương , nhờ vào những kỹ thuật Yoga cho kỹ thuật này - 21600 hạt vi tế - Tương đương với số giờ tính theo 1 năm trong hệ thống Kalachakra và số hơi thở hàng ngày .

Sau khi sự tích lũy đã thực hiện . Những hạt vô hình được giữ trong kinh mạch trung ương cho đến khi thành tựu tỉnh thức . Đây là lý do rõ biết về nội hỉ tối thượng được dùng như căn bản được gọi là : “ Không lay chuyển ” - Sự rõ biết phát sinh ánh sáng tỉnh thức cần thiết cho sự lãnh hội tính không .

Ánh sáng tỉnh thức từng giai đoạn sẽ tịnh hóa một cách hữu hiệu những bản năng cố hữu trong tâm thức lầm lẫn và những cơn gió nghiệp . Những hạt vô hình hòa tan với sự thành tựu bản chất Phật . Ngay giây phút này chúng ta không còn bám chặt vào thân vật lý . Vì chính chúng ta là kinh mạch trung ương hay những giọt vi tế .

Nhưng nếu để thoát ra tinh dịch thô để nhận lấy cảm xúc cực khoái của nhục thể . Sự giải phóng năng lượng sẽ làm hao tổn những hạt sáng tạo vi tế . Đây là nguyên lý rất có giá trị cho người nam cũng như người nữ .

Những hạt vi tế này , được gọi là “ Bồ đề tâm ” hay “ Những hạt hoa lài ” ; hợp thành căn bản sự thành tựu rõ biết không lay chuyển của niềm nội hỉ . Vì thế , nếu chúng ta lãng phí do tác dụng của cảm xúc cực khoái , sẽ tước đi phương tiện hữu hiệu để thành tựu tỉnh thức . Từ đó thuật ngữ “ Từ khước bồ đề tâm ” dùng để chỉ định sự hao tổn này .

Đưa đến sa ngã nền tảng nếu đã hiểu bản chất rõ biết không lay chuyển của niềm nội hỉ . Lại không thể hiện bất cứ sự ngăn chận . Không có lý do hợp lý và không sử dụng bất cứ phương tiện nào để tư duy về tỉnh thức nhờ vào nội hỉ kết hợp với cảm xúc khoái cảm nhục thể vắng bặt 4 yếu tố nghiêm trọng .

Nếu hành động tính dục không có cá tính tâm linh . Có nghĩa không có những nhận định để đi đến giải thoát hay tỉnh thức , sự giải thoát năng lượng hay những tinh chất do cảm xúc nhục thể vẫn chưa thể hợp thành sa ngã nền tảng .

Vì cảm xúc nhục thể chỉ tước đi sức sống hình tướng cần ứng dụng vào cuộc sống qua sự gìn giữ những thệ nguyện nền tảng Kalachakra . Nó cản trở mục tiêu được tỉnh thức nhanh bằng sự rõ biết của niềm nội hỉ không lay chuyển theo những giáo huấn do hệ thống Kalachakra trình bày .

Như muốn giữ tính hiện thực . Sau khi nhận thệ nguyện không cần thiết phải từ khước không có có con cái , hay tước đi khoái cảm trong hành động tính dục hay mặc cảm vì cảm nhận về nó .

Ngược lại , cần xem cảm xúc cực khoái trong cái nhìn rõ biết niềm nội hỉ không lay chuyển và quan niệm về quan hệ thể xác . Nói tóm lại , nếu không tự chủ và rõ biết về những năng lượng cảm xúc nhục thể . Đó chính là nguyên nhân của stress .

Sau khi đã nhận những thệ nguyện Mật tông . Cần gìn giử những cảm xúc do khoái cảm nhục thể từ hành động tính dục phát sinh . Trở thành trải nghiệm tâm linh hay như phương tiện giải quyết những vấn đề tâm thức . Nhất là cần chuyển hóa nó trở thành con đường dẫn đến tỉnh thức .

6-Ủng hộ quan kiến hiện thực theo kinh điển thấp .

Trật tự riêng biệt với ý muốn trêu chọc hành giả Mật tông hay kinh điển . Với lý do một trong những giáo huấn của những thừa này không được đức Phật Shakyamuni trao truyền . Sự sa ngã là xem nhẹ những giải thích về tính không do kinh điển của Đại Hoàn Thiện Hiểu Biết ( Bát nhã ba la mật ) cung cấp .

Xem chúng ít giá trị hơn những giải thích do Mật điển cung cấp và đón nhận một trong những giáo huấn khác về tính không được đức Phật trao truyền . Nhưng nguyên nhân của sự phê phán cần có cùng với thái độ phẫn nộ và tâm thức chật hẹp . Nhưng không có sa ngã nếu nguyên nhân là vô minh .

7-Tiết lộ những giáo huấn bí mật ;
Cho hành giả thiếu sự trưởng thành cần thiết để hiểu biết .

Những điều kiện sa ngã tương tự những điều kiện những hệ thống khác đã định sẵn . Ngoại trừ sự sa ngã riêng biệt về những giáo huấn liên quan đến sự có được sự rõ biết niềm nội hỉ lớn - mãnh liệt nhất của 4 niềm hoan hỉ có thể biết khi những giọt sáng được tích tụ trong kinh mạch trung ương .

8-Đối xử tệ với ngũ uẩn .

Trong những hệ thống khác của đẳng cấp Anuttara Yoga Mật tông . Sự sa ngã này là xem thường ngũ uẩn . Trong khi hệ thống Kalachakra xem có sa ngã nếu bạc đãi và xem thường ngũ uẩn . Chúng ta cần nhận ra bản chất ngũ uẩn tương tự với bản chất những hình tướng chư Phật và sự rõ biết sâu sắc . Nếu lên án ngũ uẩn sẽ làm tổn hại đến sự rõ biết về nội hỉ và ngăn cản thái độ phát sinh rõ biết về nội hỉ .

Nếu vẫn giử sự tin tưởng trong nhận định ngũ uẩn sẽ làm chúng ta đau khổ hay tổn hại . Thái độ này dẫn sa ngã , trừ khi động lực là lòng nhân ái . Sự sa ngã được xem như đầy đủ sau một hành động tự trừng phạt làm giảm thiểu trạng thái hoan hỉ theo chiều hướng thể chất hay tâm thức .

9-Không xác tín vào sự thuần khiết những hiện tượng .

Theo những hệ thống đẳng cấp Anuttara Yoga Mật tông khác , sẽ sa ngã nếu chúng ta từ khước giáo huấn về tính không của những trường phái duy thức hay Trung quán . Liên quan đến giáo huấn Kalachakra . Chúng ta không chỉ từ khước tính không thuộc về những trường phái triết học này , nhưng lại chọn theo quan kiến khác về hiện thực do chúng ta tưởng ra hay do người khác đơm đặt .

Dù vậy , công bố giáo huấn về tính không dưới hình thức đơn giản cho người sơ cơ . Không xem như là nguyên nhân sa ngã , hay đơn giản hóa khái niệm về tính không vì những lý lẽ nhân từ .

10-Giả vờ có tình thương .

Trong những hệ thống Anuttara Yoga Mật tông khác . Sự sa ngã nền tảng là tỏ ra nhã nhặn với người ác ý . Đối với Mật tông Kalachakra là có những lời dễ thương trong khi trái tim vẫn chứa những tư tưởng đê hèn .

Nói chung , chúng ta rơi vào sa ngã nếu có thái độ đạo đức giả đối với Mật tông chẳng hạn . Nếu đọc một bài về Sadhana hay tham gia vào nghi lễ với sự thờ ơ , tuy bên vẫn giữ sự thành kính bên ngoài và bí mật hành động một các tiêu cực ngược lại với những dấn thân .

11-Giả tạo khái niệm rõ biết về nội hỉ trong khi rất khó miêu tả .

Sự sa ngã nền tảng trong những hệ thống đẳng cấp Anuttara Yoga Mật tông là gián đoạn thiền định về tính không . Nhưng với hệ thống Kalachakra là từ chối sự rõ biết không lay chuyển niềm nội hỉ ở giây phút nắm bắt .

Có nghĩa trong giai đoạn thành tựu . Khi khởi lên sự rỏ biết nội hỉ trong tâm thức . Nếu chúng ta bắt đầu ù lì thay vì sử dụng cho thiền định về tính không . Sẽ rơi vào sa ngã .

12-Cố vạch những khuyết điểm
về người đã thuần khiết hay đã thành tựu .

Với những hệ thống khác của đẳng cấp Anuttara Yoga Mật tông . Sự sa ngã nền là tìm cách hủy diệt lòng tin hành giả trong quá trình riêng biệt của Mật tông và chuyển họ sang chiều hướng khác .

Trong khi Mật tông Kalachakara , sự sa ngã là tuyên bố những lời thất vọng trước hành giả thành tựu trong thực hành riêng biệt của Mật tông . Cố tìm những khuyết điểm và mỉa mai vì lòng ganh tỵ . Nếu họ hiểu lời nói của chúng ta và thật sự làm họ thất vọng . Lúc ấy sự sa ngã đã hoàn chỉnh .

13-Từ khước những thực thể kết hợp mật thiết với thực hành Mật tông .

14-Chế diễu người nữ .

Hai nguyên nhân sa ngã này tương tự với những nguyên nhân thuộc hệ thống chung với những hệ thống khác thuộc đẳng cấp Anuttara Yoga Mật tông . Những gì liên quan đến điểm này . Nói chung hệ thống Kalachakra nhấn mạnh về người nữ .



Đồng thời ,
những thệ nguyện Mật tông được trình bày
từ những hệ thống đẳng cấp Anuttara Yoga khác
và của Mật tông Kalachakra .
Nhấn mạnh sự cần từ khước vi phạm 8 hành động cục kỳ có hại .
Vì nó gạt bỏ sức sống của thực hành thiền định
và ngăn chận sự tiến bộ trên con đường tỉnh thức .

Nhưng về 46 thệ nguyện Bồ tát đạo phụ . Nếu vi phạm một trong những thệ nguyện này , dù đi kèm bốn yếu tố nghiêm trọng . Vẫn chưa thể dẫn đến đánh mất thệ nguyện Mật tông . Vì thế , không cần nghiên cứu tất cả những thệ nguyện phụ trước buổi lễ Khai tâm Kalachakra . Nhưng cần thật sáng suốt khi đề cập ngắn gọn đến vài thệ nguyện phụ . Vì chúng sẽ làm cho nhiều thí sinh trong buổi lễ khai tâm rơi vào sự hoang mang .

Một trong những thệ nguyện Mật tông phụ liên quan đến việc chọn lựa Người phối ngẫu ( Partenaire ) trong tính dục . Niềm nội hỉ do sự kết hợp thân vật lý với người nữ với người nam hay ngược lại . Tạo cảm xúc nhưng không lao vào cảm xúc nhục thể bản năng , cho phép hành giả gia tăng sự rõ biết phân biện về tính không .

Những điều có giá trị cho người nam . Đồng thời cũng có giá trị cho người nữ đã thọ nhận thệ nguyện Mật tông . Nếu đã đạt đến rõ biết nội hỉ về tính không , cũng như không còn bị những cơn gió nghiệp lực chủ động trong hành vi .

Nhờ vào những kỹ thuật Yoga cho phép lao vào cảm xúc cực độ . Chúng ta cảm nhận một cách tự nhiên và hoàn toàn ngưỡng mộ những hành giả đã thành tựu . Và quyết định mình phải đạt đến điều này .

Do đó rất quan trọng để nhận định chính xác đối tượng dự kiến trong kết hợp tính dục theo quan kiến Mật tông . Nói cách khác , đối tượng phải thật thích hợp . Đồng thời đã nhận được sự trao truyền quyền năng . Nam cũng như nữ ( phối ngẫu ) tuyệt đối tôn trọng những thệ nguyện Mật tông và thực hành thật nghiêm túc những kỹ thuật về chuyển hóa .

Điều quan trọng nhất là :

Phải giữ gìn nền tảng thệ nguyện thứ 5 của hệ thống Kalachakra . Có nghĩa tự từ khước quan hệ tính dục dung tục và xác tín khoái cảm cảm xúc cực độ phát khởi chính là bản chất tâm linh hay là phương tiện đạt đến sự giải thoát và tỉnh thức .

Hơn nữa , người phối ngẫu không phải sự kết hợp tính dục bằng bạo lực hay vì áp lực tâm lý . Cho dù rất tế nhị . Chúng ta thuyết phục họ bằng cáh tâng bốc sự tiến bộ về tâm linh . Thuyết phục giờ đây theo phương cách một Bồ tát , chắc chắn sẽ tiến bộ trên con đường Mật tông và điều này sẽ làm lợi ích cho tất cả mọi người .

Sự kết hợp tính dục hoàn toàn theo quan kiến Mật tông . Người phối ngẫu nhìn nó như một phương tiện để biểu lộ tình thương và sự âu yếm . Hai quan điểm này không hề đối nghịch nhau . Vì gia tăng sự rõ biết nội hỉ trong hành động tính dục rất cần có nền tảng của tình yêu phát xuất từ trái tim .

Vì , nếu người phối ngẫu bám víu vào khoái cảm nhục thể hoặc bị ám ảnh về tính dục . Hay chỉ thích sống trong cảm xúc cực độ của thân vật lý . Như thế cả có thể trở thành mồi ngon cho những tư tưởng hay cảm xúc nhục thể bản năng và đánh mất quan kiến Mật tông trong sự kết hợp tính dục .

Nếu tự dấn thân hay đã dấn thân trong thực hành Mật tông . Nhưng người phối ngẫu không thích dùng kỹ thuật này . Không cần bỏ rơi hay thay thế họ bằng hành giả Mật tông khác . Chúng ta không phải tìm cách ép người phối ngẫu tuân theo kỹ thuật chuyển hóa hay ép họ tuân thủ là đối trọng trong lễ khai tâm riêng cho mình .

Nhất là , tránh khai thác họ vì sự tiến bộ tâm linh của mình . Cũng tránh lừa dối và lạm dụng tình cảm ép họ phải hòa hợp vì muốn thỏa mãn khoái cảm nhục thể của bản năng . Chúng ta phải tử tế , kiên nhẫn , cảm thông và hơn hết là cần khiêm cung hòa ái vì sự thành tựu tâm linh . Nếu người phối ngẫu dễ thụ cảm . Điều cần thiết phải thật nhẹ nhàng khuyến khích họ làm việc cho sự thành tựu bằng những tiềm năng riêng biệt .

Nhưng với kỹ thuật hữu hiệu nhất không phải là phương tiện quan hệ tính dục dung tục thông thường . Như thế , nếu hai quan niệm về những quan hệ tính dục còn trái nghịch . Hố thẩm giữa hai phối ngẫu càng ngày càng nhiều dị biệt .

Thệ nguyện Mật tông phụ khác , thường đặt vấn đề cho những thực tập sinh trong lễ Khai tâm Kalachakra . Đòi hỏi đặt nền tảng hành động tính dục trên lòng biết ơn với ba vấn đề như : Duy trì tâm thức - Ngôn ngữ - Thân vật lý đồng vắng bặt mọi lầm lẫn . Nếu không niềm nội hỉ phát sinh chỉ làm gia tăng dục vọng và bám chấp . Không phải sự rõ biết về Nội hỉ - tính không .

Thứ nhất :

Trong quan hệ chuyển hóa tính dục . Cần duy trì tâm thức trong niềm nội hỉ - tính không . Không trú trong tư tưởng dung tục như : Quá lo âu và tự đặt những câu hỏi về sự hiệu năng tính dục sẽ thực hành như thế nào .

Thứ hai :

Không phải bằng lời nói từ hiện tượng tâm thức lầm lẫn về rõ biết niềm Nội hỉ - tính không . Lầm lẫn như bám chấp vào những đặc trưng của thân thể khiến ham thích nhìn bộ phận sinh dục như đối tượng kích thích sự ham muốn để có được những khoái cảm nhục thể cao độ . Để giải thoát lầm lẫn này . Nên nhìn với tâm thức : Tất cả những đối tượng dùng cho sự phát triển rõ biết về niềm Nội hỉ tính không cao nhất ( Mahamudra ) .

Thứ ba :

Thân vật lý hai phối ngẫu cần xuất hiện dưới khía cạnh hình tướng những chư Phật phát sinh từ tâm thức . Với sự sâu thẳm này sẽ thể hiện trải nghiệm nội hỉ - tính không . Nếu không , những hình tướng chư Phật không thể phát sinh trong tâm thức đang làm mồi cho dục vọng . Không thể phát sinh từ những huyễn hoặc cá nhân . Vì cảm nhận người phối ngẫu và mình dưới đường nét của khoái cảm nhục thể .

Hơn nữa , Rất tốt khi biết tự nhắc nhở :

Nếu duy trì Tâm thức . Ngôn ngữ - Thân vật lý thuần khiết trong suốt sự hòa hợp tính dục và đạt đến cảm xúc cao độ . Dù vậy , vẫn không rơi vào ngộ nhận chính khoái cảm là bản chất tâm linh hay phương tiện đạt đến giải thoát hay tỉnh thức .

Vì quan niệm này dẫn theo sa ngã khi niềm cảm xúc cao độ kích thích hay thể hiện một cách thụ động . Nếu tự mô phỏng :

Người phối ngẫu và mình dưới khía cạnh hình tướng những chư Phật . Cần chú ý giữ sự rõ biết về tính cách hiện hữu của thân mình và thân của người phối ngẫu . Cho dù họ có thực hành Mật tông hay không .

Thệ nguyện Mật tông phụ sau cùng này vẫn có thể gây ra những sự hiểu lầm . Vì thế chúng ta không nên ở chung quá 7 ngày với những Shravaka . Thuật ngữ “ Shravaka ” là những người có nhận định tồi và xấu về Mật tông và thường hay chế diễu . Càng lâu trong sự kề cận này họ có thể làm chúng ta nản chí .

Nhất là khi họ tỏ ra đối nghịch với những thực hành thiền định về Kalachakra . Nếu những “ Shravaka ” hình thành do thiên kiến và sự quen thuộc . Chúng ta không vi phạm bất cứ lỗi nào khi tiếp tục sống với họ . Tất cả những điều này muốn nhấn mạch vào điểm quan trọng :

Cần giữ bí mật tuyệt đối về thực hành Mật tông Khalachakra trước những người đối nghịch . Hay đơn giản nhất là : Không chia xẻ sự xác tín về lãnh vực này với bất cứ một ai khác .HET=OM MANI PADME HUM.( 3 LAN ).GESHE TASHI TSERING.( MHDT ).14/4/2012.

No comments:

Post a Comment