Friday, 13 April 2012


Bây giờ chúng ta bắt đầu nghiên cứu Mật tông Kalachakra .
Như đã nói , nó cực kỳ bao la đến nổi chúng ta hài lòng khi đã thoáng nhìn .
Nếu muốn nghiên cứu hay đào sâu thêm nữa cũng vô ích .
Ngay cả việc chọn ai là người trao truyền quyền năng một cách có hiệu quả .

Ngược lại rất cần thiết có sự hiểu biết tối thiểu để nghiên cứu về những chủ đề này . Đặc biệt là những giáo huấn thật thích hợp để có thể tiếp cận với lòng tôn kính . Vì giá trị của nó không thể đo lường . Mật tông Kalachakra sẽ cung cấp cho chúng ta hằng hà những giáo huấn đầy thực tiển . Cũng như về những dự kiến thuộc về cá nhân hay những cộng đồng .

Mặc dù đã quá lâu đời nhưng vẫn không mất tính thời đại . Có thể nói , nó hợp thành bộ bách khoa về những kỹ thuật xây dựng thật tế nhị hướng về một đích : Thành tựu sự tỉnh thức . Đồng thời cũng bao gồm những bình luận về xã hội và những phân tích khoa học đẩy chúng ta đến nền tảng tư duy chân chính .

Mật tông Kalachakra là những gì gọi là Mật tông theo chiều hướng sáng tỏ . Ngược lại với những Tantra khác thuộc đẳng cấp Anuttara Yoga với những ý nghĩa tối tăm đầy bí ẩn . Lý do khác biệt này được trình bày lễ khai tâm thứ tư .

Cũng như lễ khai tâm giúp bạn lãnh hội trực tiếp về hai khía cạnh hiện thực . Hệ thống Kalachakra nói về tâm thức tỉnh thức phát sinh như sự rõ biết về niềm nội hỉ và tính không . Cũng như những biểu lộ phát sinh và giải thích rõ ràng sự đồng nhất của hai khía cạnh hiện thực .

Ngược lại , những hệ thống Kalachakra khác của đẳng cấp Anuttara Yoga chỉ giải thích sự đồng nhất như phương cách đồng dạng . Thật ra , dù hệ thống Kalachakra khác với những Tantra đẳng cấp Anuttara Yoga dựa vào một vài điểm nào đó . Sự nghiên cứu có thể làm sáng tỏ những điểm bí ẩn trong những hệ thống này .

Hơn nữa , Mật tông Kalachakra được viết với ngôn ngữ sáng tỏ từ đầu đến cuối . Trong khi những Tantra khác thì không thể . Nó được viết bằng phong cách ngắn gọn và lãng mạn . Điều này đòi hỏi một hệ thống giải mã phức tạp , dù có những trình độ về những ý nghĩa khác biệt trong những hệ thống kinh điển ( Tantra ) .



Với những hoàn cảnh nào ;
Tantra Kalachkra được thể hiện bằng chữ viết ? .

Theo truyền thống - Suchandra vua Shambala , học trò chính của đức Shakyamuni trong lần trao truyền quyền năng đầu tiên ; đã soạn thành câu bằng ngôn ngữ của dân tộc mình về Tantra - nền tảng Kalachakra và bình luận dài về văn bản này .

Có một điều cần hiểu là bản khởi thảo , được thực hiện nhờ vào sự giúp đở của nhà văn phạm học với dụng ý : Cần thể hiện nhiều lỗi trong phép đặt câu kể cả sai văn phạm . Với dụng ý , nhờ vào sự thêm thắt này để tránh cho vua và dân chúng không bám vào quá đáng về phép đối xứng ( phối ngẫu ) .

Điều này không phải môn Kalachakra vắng bặt môn hình học đối xứng . Ngược lại , những thí dụ về hình học đối xứng thì tràn ngập cả cuộc sống . Dự ý của nhà văn phạm học là ngăn chặn những môn đồ trở thành nô lệ cho một quy ước cứng ngắt .

Cứ mãi chờ đợi vào tất cả sự kiện trong vũ trụ hoàn toàn đều đặn và quyết định hay họ có thể kiểm soát thế giới một cách tuyệt đối . Một trong những cố vấn của tôi xác định rõ ràng .

Sharpa Rinpoché :« Môn hình học đối xứng tuyệt đối
là cái gì đó gần như sự kiện bất thường » .

Thật ra , nhiều sự việc trong thế giới ; tự chúng đã trình bày sự tương ưng . Nhưng chúng ta lại muốn những sự việc phải hoàn toàn đối xứng . Như vậy có thể nhận ra điều này hoàn toàn là huyền hoặc và là quan kiến hoàn toàn sai lầm . Sự kiện nào đó xuất hiện vào số năm . Không nhất thiết sự kiện khác cũng như vậy . Vì cuộc sống lúc nào cũng bao hàm những bất ngờ .

Sáu vị vua nối tiếp Suchandra trước khi Manjoushi - Yashas thừa hưởng ngai vàng Shambala . Manjoushri - Yashas là vị vua đầu tiên của dòng Kalki ; tổng cộng tất cả có 25 vị . Đồng thời dòng Kalki nổi tiếng dưới tên Những Người Giữ Cửa Lâu Đài . Manjoushi - Yashas đã soạn thảo bản tóm lược về Tantra Kalachakra ; và Pundarika - Người thừa kế đồng thời là con trai của ông cũng đã soạn một bình luận dưới tựa Ánh Sáng Không Tì Vết .

Hai văn bản nền tảng này , Chilupa và Kalachkara Cổ ; được hai nhà tiên tri trao truyền sang Ấn độ và tồn tại đến ngày nay . Một và những phiên bản khác gồm 5 chương . Chương I và II nói về những chu kỳ vận hành bên ngoài và bên trong . Trong khi chương III , IV và V thì trình bày những chu kỳ vận hành khác .

Như chương III nói về trao truyền quyền năng , chương IV về giai đoạn sáng tạo và chương V giai đoạn kết thúc và thành tựu tỉnh thức . Tất cả những bình luận về sau đều theo cấu trúc tương tự . Bây giờ chúng ta cùng thoáng nhìn về thực thể của mỗi chương trong bối cảnh văn chương phong phú nhất của Kalachakra bằng tiếng Phạn và tiếng Tây tạng .



Bản tóm lược của nền tảng Mật tông Kalachakra . Trước tiên giải thích những hoàn cảnh tập trung , tiếp theo là phác thảo những hàng lớn về những tác phẩm kếch sù . Sau đó tiếp cận vấn đề trao truyền của đức Phật Shakyamuni cho vua Suchandra và sự trở về của nhà vua đến kinh đô Shambala .

Đây là nghiên cứu về địa lý cho phép chúng ta có thể định vị kinh đô Shambala . Với bối cảnh biểu tượng vũ trụ thuộc về hệ thống Kalachakra đã cung cấp và diễn giải qua những bình luận .

Biểu tượng vũ trụ theo nền tảng Mật tông Kalachakra khác biệt với biểu tượng trong những hệ thống chủ yếu khác về môn siêu hình Phật học đã đề nghị : Abhidharma hay những chủ đề đặc biệt về hiểu biết .

Vài yếu tố được cắt xén , chúng ta thấy trong những văn bản Ấn độ không thuộc hệ thống Phật học . Ví dụ khái niệm vũ trụ hằng hà được chia thành 4 chu kỳ khởi đầu trợ lực : Sự đào tạo , ổn định , tan rã và hư không . Mỗi một vũ trụ có một ngọn núi trung tâm - Đỉnh Méru , được bao quanh những châu lục , trời và địa ngục . Những khác biệt giữa hai biểu tượng Phật học đặt nặng chi tiết về những chu kỳ bốn phần :

1-Hình tướng .

2-Vóc dáng vũ trụ .

3-Đỉnh Mérou
4-Những lục địa .

Điều đáng ghi nhận là Phật học đề nghị hai biểu tượng khác nhau về vũ trụ và mi thứ lại có giá trị cho một cứu cánh riêng biệt . Nó cũng là chuyến du hành trong thế giới hiện tượng ( vật lý ) . Nhận định về những biểu tượng vũ trụ này được những nhà vật lý vũ trụ hiện thời đề nghị , với cái nhìn không đặt nặng về những vấn đề mâu thuẩn hiển hiện . Thật ra Phật học đi từ nguyên lý mô tả hiện tượng không tùy thuộc vào cá nhân của người giảng thuyết . Đồng thời nó nhắn nhủ với cử tọa về những điều tương ưng .

Đương nhiên , muốn giải thích những lý do được xem để minh chứng và gởi đi một nhóm chuyên gia khoa học lên hành tinh Mars . Thay cho những chính trị gia cần bỏ phiếu để tín nhiệm .

Chúng ta sẽ sử dụng cùng những lý lẽ để giải thích về một dự án nào đó cho những kỹ sư cần dự kiến những trang thiết bị cần thiết . Hai mô tả này cũng có giá trị và những hữu dụng như nhau . Đây là sự kiện cần giữ trong trí nhớ , vì rất hữu ích cho chúng ta lãnh hội về tính không .

Những gì thuộc hiện hữu thì vắng bặt những đặc trưng . Như vậy không chỉ có mô hình dự kiến , trực nhận hay miêu tả những sự việc . Biểu tượng vũ trụ theo trường phái triết học Abhidharma , được xem như cho phép hành giả phát triển sự rõ biết phân biệt khi tập huấn những hệ thống phức tạp chứa đựng hằng hà những sự kiện biến thiên .

Mục tiêu theo đuổi biểu tượng vũ trụ Kalachakra hoàn toàn khác biệt . Nó cung cấp cho hành giả lý thuyết tương ưng lý về trường đồng nhất . Có nghĩa , giải thích trên căn bản lý luận cấu trúc tương đồng và đồng thời vận hành : Vtrụ , thế giới hạt nhân , thân vật lý và những tái sinh đang tiếp diễn .

Nó còn cung cấp căn bản bao la bao trùm nhiều đường hướng luân hồi , trợ lực cho sự nghiên cứu và trong những thiền định ( Được đề nghị như chu kỳ Kalachakra khác sẽ được khia triển ở chương V ) để có được tỉnh thức và giải thoát . Mỗi biểu tượng của thế giới bên ngoài và thế giới bên trong theo những thuật ngữ song song gặp nhau . Cho phép hành giả sáng tỏ nền tảng chung cũng như tâm thức tỉnh thức .

Những cơn gió nghiệp gây ra những xung động phát triển một vũ trụ riêng biệt ; nối tiếp với nghiệp lực . Đến từ tâm thức tỉnh thức của một trong rất nhiều người đã sống vào những thời đại vũ trụ trước đây . Tất cả những tâm thức tỉnh thức thật sự đã hiện hữu suốt trong tiềm năng vĩnh hằng của tính không phân chia hai thời kỳ vũ trụ .

Tương tự , những gió nghiệp gây ra những xung động cần thiết cho sự tái sinh của cá nhân đến từ nghiệp lực của chính họ và từ tâm thức tỉnh thức riêng biệt . Tâm thức tỉnh thức này tồn tại trong Bardo - Thời kỳ trung gian giữa hai lần sinh tử .

Nền tảng Mật tông Kalachakra đề nghị với hành giả ; những kỹ thuật thiền định đặc cơ sở trên sự tương đồng giữa hai chu kỳ của thế giới bên ngoài và bên trong . Nhất là trên phương cách những chu kỳ lập lại từng thời kỳ căn bản ánh sáng tỉnh thức . Để cung cấp những yếu tố cần thiết để làm quay trở lại cái căn bản nền tảng . Đây là kỹ thuật riêng thuộc về những hệ thống của đẳng cấp Anuttara Yoga .

Một khi đi vào ánh sáng tỉnh thức , chúng ta có thể tự chuyển hóa tâm thức chính mình . Trong thực hành tập trung vào tính không nội tại của tất cả hiện tượng ; để đánh tan sự lầm lẫn và những gì mà bản năng làm che mờ .

Đến khi nó không tạo cơ hội cho những vấn đề và sự đau khổ nối tiếp vận hành bên ngoài và bên trong . Đây là lý do vũ trụ và thân vật lý - Mandala và thân thần linh Kalachakra được biểu trưng bằng hình thức ( biểu tượng ) với tầm vóc như nhau .


Một trong những điểm thú vị nhất của biểu tượng vũ trụ là :
Hệ thống Kalachakra đề nghị ;
có liên quan đến những phân tử trong không gian .

Nền tảng Tantra Kalachakra thường tham khảo với khái niệm mô phỏng về những phân tử nguyên tử như sáu thành phần : Ðất , nước , lửa , không gian , sự sáng tỏ rõ biết và thành phần gió ( thứ sáu ) ; không có bản chất vật lý tương đương với tâm thức nguyên thủy ánh sáng tỉnh thức . Chính là căn bản của sự biểu lộ và là chất kết dính những thành phần ít nguyên chất .

Năm thành phần ít nguyên chất tương ưng với năm dạng phân tử nguyên tử hay hạ nguyên tử : Ðất , nước , lửa , không khí , rõ biết . Và chính sự nguyên chất đi theo thứ tự để phát triển trong tính cách tạo thành .

Tế nhị nhất , là những phân tử không gian hợp thành yếu tố căn bản của chất liệu . Trong khi đất , nước , lửa và không khí ở trạng thái biểu lộ . Những phân tử không gian hợp thành hư không chia cách .

Theo hệ thống Kalachakra , những phân tử không gian dính liền mật thiết với nguyên thủy vũ trụ . Khái niệm này đã đánh thức sự hứng thú những nhà không gian vật lý đương thời . Với vài góc cạnh nào đó , nó cắt quan niệm về cấu trúc của vũ trụ chúng ta .

Mỗi vũ trụ vật lý được hợp thành từ những phân tử nguyên tử . Đến ngày nay , những nhà không gian vật lý khai triển luận đề theo khuynh hướng : Vũ trụ khởi điểm từ khái niệm “ Big bang ” .

Theo họ , giai đoạn hình thành vũ trụ được tiếp nối từ giai đoạn bành trướng với sự phối hợp của các nguyên tử . Nó diễn tiến phức tạp cho đến giai đoạn co thắt và vào giai đoạn bùng nổ cuối cùng hình thành những phân tử nguyên tử tự kết nối trong tiềm năng vĩnh hằng ( Éro ) tích trử và những tiềm năng và tan rã .

Ðối với quan kiến Phật học , đây là giai đoạn bao gồm tan rã và hình thành vũ trụ tùy theo lợi thế sẵn có của những « Éon - Tính không » . Khoa vũ trụ học tương đương với khái niệm về hiện tượng lỗ đen , cũng như sự co thắt cực điểm của một ngân hà .

Theo vũ trụ học do hệ thống Abhidharma trình bày . Những thành phần căn bản của vũ trụ chỉ có thể hiện hữu bằng những quyền năng tiềm ẩn bất biến của tính không . Và nền tảng Tantra Kalachakra nói về sự hiện hữu của những phân tử không gian suốt trong những thời kỳ này .

Thuật ngữ phân tử không gian , lấy những phân tử sơ khai của vũ trụ làm điểm nhưng không thể dính liền . Họ cũng đề cập đến những định luật thông thường về vật lý cũng không thể vận hành trong lỗ đen .

Quyền năng bất biến tính không , kết thúc giai đoạn những cơn gió nghiệp . Xuất phát từ những sinh vật đã sống trong suốt thời kỳ quyền năng bất biến của sự biểu lộ từ trước . Phát sinh xung động đủ mạnh để tạo ra sự cô động mới của những phân tử hạ nguyên tử hay tái thiết lại định luật tự nhiên ( Như tư tưởng chưa hình thành bắt đầu tư tưởng thứ nhất xuất hiện ) .

Trong giai đoạn tính không , phân tử không gian gần giống như nhân của vật chất ở trạng thái tập trung cực độ . Từ đây hình thành vũ trụ . Sự trình bày này bao trùm lợi ích đặc biệt về ánh sáng khám phá khoa học gần đây nhất .

Theo đó lỗ đen phát ra những tia làm cho vật chất bị ngốn trọn . Ðiều này gợi ý sự tương ưng giữa những chu kỳ sống của vũ trụ trong tổng thể . Ly kỳ hơn là sự kiện : Những giáo huấn Kalachakra bên trong nói về quá trình tương tự vận hành trong trạng thái Bardo .

tonysham05:
Tino cụ thể về câu chót ?
karunasham:
Tất cả vận hành trong tâm thức cũng diễn ra như thế .
Cho nên tất cả tư tưởng và nghiệp lực ;
Cũng có thể hóa giải trong tâm thức yên lặng và chuyển hóa .
tonysham05:
Khi những tư tưởng tiêu cực quá khứ dấy lên ;
Mình cứ chuyển hoá ?
karunasham:
Ðưa tất cả xuống rún ,
Đi thẳng từ rún vào cột sống và cho thoát lên đỉnh đầu .
Cần làm liên tục khi rảnh .
Dù chưa có gì dấy lên .
tonysham05:
Trạng thái tâm thức là kẻ xúi giục tất cả bệnh hoạn ?
karunasham:
Bệnh hoạn tâm thức và thân vật lý .
tonysham05:
Tư thế ngồi cắt đứt sự dao động ?
karunasham:
Chuyển hóa mới có thể .
tonysham05:
Khi ngồi chuyển hóa tốt hơn nằm ! .
karunasham:
Ðầu tiên cứ ngồi ,
Khi quen rồi thì bất kể đi đứng nằm ngồi .



Những vật lý gia không gian cho rằng :
Trong một ngân hà sẵn có trung tâm trọng lực .
Và trong những văn bản Kalachakra nói :
Vũ trụ sẵn có một trục với hình dáng ngọn núi có tên là Méru ( Tu di ) .

Ngọn núi này được bao quanh bởi những lục địa . Tất cả được giữ cân bằng trong hệ thống mặt trời , mặt trăng , những hành tinh và vì sao sao quay chung quanh . Vũ trụ được chia thành 12 lục địa , tương tứng với bầu trời được chia làm 2 cung hoàng đạo ( Zodiaque ) là nơi dành cho mặt trời , mặt trăng , những ngôi sao và hành tinh chuyển động . Nữa phía bắc lục địa Nam cực chia thành 6 miền như những vùng song song . Ấn độ được hình thành từ miền Nam cực , trong khi Shambala được hình thành từ vùng thứ 5 .

Nền tảng Tantra Kalachakra cung cấp những bài toán cho phép khẳng định độ ngắn nhất một ngày trong năm ở 6 vùng này . Dựa trên căn bản tính toán này . Kinh đô Shambala có thể được định vị ở vùng quanh núi Kailash miền tây nam Tây tạng , Một ngọn núi linh thiêng không chỉ dành cho những Phật tử mà đồng thời cho cả những tín đồ Ấn độ giáo .

Điều này được hiểu dễ dàng . Theo chiều hướng từ nguyên Tây tạng Shambala có nghiã là « Niềm nội hỉ » đặc trưng cho biểu tượng Héruka và Shiva . Dưới mắt những tín đồ Ấn giáo núi Kailash hợp thành ngai vàng của Shiva . Trong khi với Phật tử chính là nơi của Héruka .

Có vài học giả cho rằng 3 miền nằm giữa Ấn độ và Shambala - Bhotie , Li và Chin ở Tây tạng , miền Khotan Trung quốc và kinh đô Shambala có thể được tìm thấy ở đông Turkistan ( hiện thời là Xinjiang Trung quốc ) . Nhưng giả thuyết này không thể kiểm chứng .

Bhotie , Li và Chin chỉ định miền Teraï , thung lũng Katmandou và Dolpo nằm riêng biệt ở miền nam , trung tâm và tây bắc Népal . Về miền Himavan xứ tuyết là miền thứ 6 thông thường chỉ định cho Tây tạng . Nhưng núi Kailash thật sự không thể đồng hóa với Shambala trên bình diện địa lý vật lý .

Thật ra , nền tảng Tantra Kalachakra đã nói về 4 thánh địa xung quanh Vajrasana - Bodhgaya nơi tỉnh thức của đức Phật Shakyamuni : Ðỉnh năm ngọn phía đông với đỉnh Potala phía nam , Shambala phía bắc và Oddiyana phía tây . Những thánh địa này được kết hợp riêng với Manjushri , Avalokitashvara , những vì vua Kalki và Guru Rinpoché .

Có thể đồng hóa chúng như đỉnh Wutaishan miền bắc Trung quốc , đỉnh Vindhya miền nam Ấn độ , đỉnh Kailash tây nam Tây tạng và thung lũng Swat ở miền bắc Pakistan .

Nhưng nếu đi đến những nơi này , bạn không thể khám phá ra được những con người ngoại hạng hay bất cứ dấu tích nào của những dinh thự như đã được nói . và chuyến du hành đến Shambala bản chất không phải là sự tìm kiếm về vật lý mà thuộc về lãnh vực tâm linh .

tonysham05:
Shambala là niềm nội hỉ hay cộng đồng tỉnh thức ?
karunasham:
Niềm nội hỉ vô biên .
tonysham05:
Lỗ đen ?
karunasham:
Khoảng lặng .



Sau đó nền tảng Mật tông Kalachakra tiếp cận lịch sử về Shambala ,
nhất là lịch sử vị vua ngự trị đầu tiên
của đế quốc Kalki - Manjushri - Yashas .
Trong thời gian giặc ngoại xâm đe dọa xâm chiếm đất nước .

Dù những giáo huấn Kalachakra đã đến Shambala từ 7 thế kỷ trước . Nhưng chủ yếu chỉ nghiên cứu và thực hành trong hoàng cung , còn phần đông những cư dân vẫn theo Ấn giáo . Nhưng Ấn giáo đã mất nhiều tính nguyên thủy thuần khiết . Nên hệ thống phân biệt giai cấp đã trở thành rất cứng ngắt ; làm cho xã hội thiếu sự hài hòa . Đức vua hiểu những chia rẽ đang có trong cộng đồng cư dân .

Giai cấp cao từ chối ăn cùng những giai cấp thấp . Trâng tráo hơn họ lãng tránh mọi liên hệ với đẳng cấp thấp , khiến sự kháng cự ngoại xâm không thể hữu hiệu vì bị phân hóa .

Vì thế ngài quyết định hủy bỏ những giai cấp . Bằng cách tập họp tất cả thần dân trong Mandala Kalachakra do tổ tiên họ dựng lên trong hoa viên cung điện và quyết định trao truyền quyền năng cho những ai có nguyện vọng đón nhận .

Những người thuộc hệ thống tôn giáo khác sẽ tham gia lễ khai tâm như những quan sát viên . Điểm quan trọng là Manjushri - Yasha không tìm cách thuyết phục những đối tượng Ấn giáo quy y thành Phật tử . Ông giải thích : “ Tất cả những tôn giáo đều giảng dạy cùng một nguyên lý về đạo đức và nếu không tuân theo . Chắc chắn họ tự động xa rời tôn giáo riêng biệt của mình ” .

Tụ họp tất cả những thần dân trong Mandala Kalachakra không phân biệt giai cấp . Ðức vua chỉ mong muốn mỗi người tìm lại những giáo huấn của tôn giáo chính mình trong tinh thần thuần khiết nguyên thủy .

Nhờ vào căn bản này , đất nước đã thành công và gạt bỏ sự thấp kém đang rình rập trước nạn ngoại xâm . Sự kêu gọi thống nhất và hòa bình của Manjushri - Yashas bằng lễ Khai tâm Kalachakra , hiện vẫn có giá trị với thời đại chúng ta .

Thật ra không nên đòi hỏi những quan sát viên tham dự vào lễ Khai tâm Kalachakra và buộc từ khước tôn giáo truyền thống trong gia đình . Họ chỉ cần sống thích nghi theo lý tưởng đã được giảng dạy và tự cảm nhận phải đoàn kết với nhau trong tinh thần : “ Những anh và em Vajra ” , cộng đồng mới có thể tồn tại .



Một vài nhà bác học xem những người ngoại xâm
được đề cập trong những văn bản Kalachakra là người Hồi giáo .
Nhưng sự kết luận này hình như quá vội vàng và vô trách nhiệm .

Từ Phạn Meccha , có nghĩa là ngoại xâm . Thật ra để chỉ định những người không nói được tiếng Phạn , ăn thịt bò và thường có thái độ thô lỗ . Người Ấn sử dụng thuật ngữ này để định danh những luồng sóng tiếp nối xâm lược , được khởi đầu bằng những đội chiến binh của Alxandre Đại Đế .

Nếu bạn từng nghiên cứu lịch sử thế giới , sẽ nhận ra những sức mạnh xâm lược khốc liệt có tính tâm linh được hình thành theo từng chu kỳ . Cho dù trong những văn bản cung cấp nhiều điểm đặc trưng . Cho phép chúng ta liên tưởng đến người Hồi giáo có truyền thống tôn giáo đặt nền tảng ở La Mecque với những đội quân ở Bagdad . Đàn ông thì cắt bao quy đầu , đàn bà che mặt với tập quán dùng thịt bò , dê để làm thực phẩm .

Tuy thế chỉ có thể suy ra hệ thống Kalachakra chỉ nhắc đến Hồi giáo một cách tổng quát . Thật ra , thời vua Ả rập của đế quốc Abbasides nói riêng trong suốt thời kỳ cuối của thế kỷ VIII và vào đầu thế kỷ tiếp theo . Những nhóm khủng bố tấn công giáo đồ chính giáo Hồi giáo ở Bagdad , Samarkand và những nơi khác . Với mục tiêu là lật đổ đế quốc này . Thật ra , những nhóm khủng bố cũng là người Hồi giáo , nhưng họ thêm vào kinh Coran những tín điều vay mượn của những tôn giáo khác , nhất là của Thiện Ác giáo ( Manichéisme) .

Với sự kiện trong những văn bản của Kalachakra ghi danh sách những nhà tiên tri . Có nhắc đến những tên như Adam , Moïse , Jésus , Mahomet và Mahdi thiên sứ tương lai của Hồi giáo cũng như Mani - Người sáng lập Thiện ác giáo . Đã làm chúng ta lẫn lộn với đến những kẻ ngoại xâm đang đề cập là : Những nhóm khủng bố sau khi thua trận . Nhiều người trong nhóm di cư đến nơi tương ứng với miền bắc Afghanistan ngày nay . Tại đây họ thiết lập quan hệ với cộng đồng đa tôn giáo bao gồm tín đồ Phật giáo , Ấn giáo , Zoroastre và những tín đồ Hồi giáo khác . Sự xuất hiện của họ được xem như một dạng thức ngoại xâm .

Nhưng bằng sự kêu gọi như lời tuyên bố đại diện cho một cộng đồng hài hòa . Nơi mỗi người thực hành những nguyên lý đạo đức riêng của tôn giáo mình bao gồm những tín đồ Hồi giáo . Đây là điểm rất quan trọng và rất phù hợp để gợi lại so với thế giới hiện đại .

Sự thực , trong mỗi tôn giáo đều có những tín đồ cuồng tín riêng biệt . Những người theo trào lưu chính thống và nhóm chủ trương bảo tồn truyền thống , cũng như những nhóm khủng bố riêng . Thế nên , chúng ta cần tránh những lầm lẫn xem tôn giáo mình thuộc thiểu số chuyên sách động với những giáo huấn trong tinh thuần .

Đối diện với chủ nghĩa khủng bố và bạo động . Phật giáo đã đề nghị sự đoàn kết và đạo đức . Nhưng đề nghị không chỉ riêng Phật giáo đề xướng . Thật ra , nhiều nhà lãnh đạo tôn giáo hay chính trị khắp thế giới đều ủng hộ việc quay trở lại những giá trị luân lý nền tảng .

Vua Manjushri - Yashas đã khuyên thần dân nên suy nghĩ về chính phong tục tập quán của dân tộc . Nhưng nếu vì những phong tục để thể hiện trong tinh thần xâm lược hay bị xâm lược . Hậu duệ họ sẽ không thấy sự khác biệt giữa họ và kẻ xâm lược .

Trong trường hợp này , họ sẵn sàng chấp nhận bị xâm lăng . Manjushri - Yashas đồng ý với nguyên tắc cần dũng mãnh trước hiễm họa rình rập . Mỗi cá nhân hay cộng đồng trong tổng thể , không phân biệt những kẻ xâm lấn , nên tìm ra những giải pháp cho hòa bình trong tình thương nhân loại .

tonysham05:
Đoạn 7 muốn nói về đồng tính bất đồng dạng ?
karunasham:
Ôn nhu hòa ái và chỉ có yêu thương mới có thể xóa hận thù .



Với vài tia sáng của những dữ kiện vừa đề cập ở trên .
Chúng ta có thể đi từ giả thuyết với quan kiến lịch sử rằng
Shambala nằm ở phía bắc Afghanistan .

Sự kiện những tu viện nổi tiếng của vùng này đã mượn phong tục người Perse tiền Hồi giáo đã giới thiệu 12 biểu tượng hoàng đạo trên nóc đại sảnh của cung điện đã thêm vào tính đáng tin cho giải thuyết này . Vì những hình vẻ tượng trưng 12 biểu tượng hoàng đạo đồng thời bao quanh một Mandala Kalachakra .

Như đã thấy trước đây , theo những mục tiêu theo đuổi về chức năng của môn vũ trụ học do Phật giáo hình thành ; và biểu tượng Shambala không hề ra ngoài phạm vi này . Để khẳng định về ngày dài hay ngắn nhất của năm . Những vị thầy định vị Shambala ở miền núi Kailash .

Để giải thích chu kỳ những cuộc xâm lăng trong suốt lịch sử . Họ định vị nó ở phía bắc Afghanistan ngày nay , và chỉ định cứu cánh thuộc về tâm linh - Shambala được xem như trạng thái thiền định cao độ .

Để kết luận , chúng ta có thể nói Shambala là một cách thuận ngôn dùng chỉ định một nơi có thể thay đổi tùy theo nhu cầu . Vì nếu nhìn cận hơn , Shambala không hề hiện hữu ở bất cứ nào thuộc về vũ trụ vật lý .

Hiểu được điều này sẽ loại trừ tất cả những tư biện vô ích về nguồn gốc và giá trị những thực hành Kalachakra . Theo truyền thống , Đức Phật Shakyamuni đã trao truyền giáo huấn về Klachakra cách đây 2800 năm .

Sau đó nền tảng minh triết được bảo tồn ở một nơi gọi là Shambala . Sau đó được giới thiệu ở Ấn độ , nhân danh từ sự trao truyền bằng linh quán từ hai nhà hiền triết . Phần đông đối với người hiện đại . Những khẳng định như thế sẽ gặp phản đối mạnh mẽ về tính chân chính của giáo huấn Kalachakra .

Dharmakirti , một vị thầy về Phật học Ấn độ ở thế kỷ VII đã giải thích tất cả giáo huấn tương hợp với giáo huấn và chắc chắn giáo huấn này đã được đức Phật Shakyamuni truyền trao , và ngài chứng minh hiệu quả với quan điểm : Cứu cánh là sự giải thoát và tỉnh thức .

Có thể được xem như nó có nguồn gốc từ tâm thức thông suốt của đức Phật . Như vậy không có lý khi tự hỏi : Đúng đức Phật Shakyamuni là tác giả của Kalachakra hay không ? .

Vì thế , để đánh thức lòng tin trong tâm thức thông suốt . Chúng ta có thể đi từ nguyên lý đức Phật Shakyamuni , sau khi rời khỏi những vua Shambala là những phương tiện truyền trao những giáo huấn thuộc về Kalachakra .
Theo quan kiến lịch sử , có thể xem chúng có nguồn gốc riêng vào thế kỷ IX , trong những tu viện Phật giáo ở châu Á tương ứng với phía bắc
Afghanistan hiện đời . Những gì liên quan đến giáo huấn về tính không và tương thuộc vào những sự kiện điều không hề gây ra một trở ngại nào .

Thật sự giáo huấn Kalachakra hoàn toàn tương hợp với những hệ thống khác được đức Phật Shakyamuni giảng dạy , và khi mang ra thực hành cho những quả mong đợi hoàn hảo . Chính Đức Đại Lai Lạt Ma và những bậc thầy lớn về Kalachakra của thời đại chúng ta đã minh chứng một cách rõ ràng . Như vậy chúng ta có thể hoàn toàn yên tâm là : Sự trao truyền quyền năng Kalachakra chắc chắn là bước đầu của con đường tâm linh .


Để đoàn kết dân chúng
Đức vua Manjushri - Yashas noi gương đức Phật Shakyamuni ,
sử dụng ngôn ngữ và những ẩn dụ cử tọa quen thuộc trong tôn giáo mình .
Như những thần dân Ấn giáo sử dụng
những hình ảnh , quan niệm và những thuật ngữ riêng của họ .

Và Ấn giáo trình bày thuộc về triều đại Kalki . Vua Kalki tương lai đứng hàng thứ 10 và hóa thân cuối cùng Vishnu tái sinh cuối trong thời gian như một “ thiên sứ ” tạo ra vào cuộc chiến tranh kinh khủng .

Trong kinh Purana Ấn giáo , nói rằng Kalki sẽ tái sinh ở Shambala , một trong những miền nói non phía bắc Uttar Pradesh ngày nay . Nhưng cũng có thể Manjushri - Yashas mượn hình ảnh Shambala để chỉ định kinh đô của mình được mang một tên khác .

Dù sao đi nữa . Quan trọng vẫn là nhận định tương tác về hòa bình giữa những người có nền tảng văn hóa và tôn giáo khác biệt . Quả thật vô lý , khi muốn cưỡng bách mọi người nói cùng ngôn ngữ của chúng ta . Họ phải sử dụng những ẩn dụ và ôm đồm thêm những quan kiến về tôn giáo khác .

Để khuyến khích người khác rộng mở tâm thức và thọ nhận thông điệp hòa bình . Cần phải phù hợp tính chất nhạy cảm giữa họ với những khía cạnh văn hóa , tôn giáo, triết lý chính trị sẵn có . Tất cả tự nhiên hài hòa với nhận định tương tác hòa bình với tất cả những cư dân trên trái đất .



Manjushri - Yashas tiên đoán một cuộc xâm lượt vàonăm 2424
trong kỷ nguyên của chúng ta .

Trong thời đại của những sức mạnh thù địch với tính tâm linh lập lại lần nữa . Một cuộc chiến chinh phục và hủy diệt khốc liệt , không chỉ trên hành tinh chúng ta mà con bao trùm cả toàn thể thiên hà .

Vì thế ông khuyên dân chúng vào thời này phải biết đoàn kết với nhau như ông đã thực hiện sự đoàn kết những thần dân của mình . Đồng thời , ông tiên đoán những sức mạnh từ Shambala với người lãnh đạo thứ 25 của triều đại Kalki sẽ đến từ vũ trụ tranh đấu với những bộ lạc ngoại xâm và tiêu trừ họ .

Từ những tiên tri này , nhiều người đã có những giả thuyết kinh đô Shambala nằm ngoài không gian và những cư dân Shambala sẽ di chuyển bằng những đĩa bay . Để hỗ trợ cho giả thuyết họ dẫn chứng đức tin của những người Aymaras ( Những người từ phía bắc Péru ) và những người Zoulou ( Nam phi ) .

Theo họ từ nhiều ngàn năm , những người bên ngoài vũ trụ đã mang đến hành tinh chúng ta cách tính toán lịch và niên đại cũng như những nghệ thuật hay kỹ thuật khác . Cần phải thận trọng trước dạng thức viện dẫn này hoặc hình thành những kết luận vội vàng .

Vì dù Phật giáo đón nhận khả năng với lối sống có sẵn những thông tuệ ở những vùng khác của vũ trụ chúng ta . Cũng cần phải rõ biết khi mở cánh cửa cho những anh hùng đến từ không gian bên ngoài từ những dĩa bay hay cho những phù thủy bay trên những cây chổi ( Không rơi vào mê tín ) .

Những bình luận về văn bản Kalachakra giải thích hình ảnh những kẻ chống lại tính tâm linh cần được diễn dịch ở hai trình độ : “ Sự xâm lược đến từ thế giới bên ngoài và sự tấn công của những cảm xúc và những thái độ chống lại chính mình ” .

Đương nhiên nó diễn tiến trong tâm thức vì sự lầm lẫn được duy trì trên tính hiện thực . Manjushri - Yashas kể đến những vũ khí đa dạng và những sức mạnh dùng để mang lại chiến thắng và cần được hiểu như : “ Sự thành tựu tâm linh - lòng từ và cái nhìn sáng tỏ về hiện thực . . . ” .

Kaydrubjey - Nhà bình luận lớn dòng Gélugpa vào thế kỷ XV , thu hút sự chú ý chúng ta trên sự kiện rất phù hợp là : “ Không nên bằng lòng với cách đọc tượng trưng từ những văn bản ; mà nên tự nhắc nhở những văn bản chỉ mang lại những biến cố về lịch sử ” .

Những chu kỳ vận hành bên ngoài và bên trong không phải là sự hư cấu . Hình ảnh phù hợp nhất có thể mô phỏng là sự lang thang vô tổ quốc của dân Do thái trong một thời gian dài . Theo thống huyền thuật phái Juda , những điều này tượng trưng cho một chuyến du hành dài về tâm linh .

Sinh ra đã là những nô lệ của lầm lẫn . Chúng ta cần bắt đầu tự giải thoát những xiềng xích thô lỗ chính mình , rồi lang thang trong sa mạc của những tập huấn tâm linh trước khi đạt đến miền đất hứa .

Dù sự lang thang vô định diễn tiến trong lịch sử . Những gì được diễn dịch tượng trưng . Nhất thiết không cần đặt thành vấn đề . Và cũng như thế chiến Manjushri -Yashas đã tuyên bố : Không gì có thể loại trừ khả năng nó phải đến » .



Vấn đề đặt ra là chúng ta cần có thái độ thế nào ;
trước vấn đề bị đe dọa bởi chiến tranh .


Manjushri - Yashas khẳng định :

“ Chia xẻ những vốn hiểu biết về văn hóa và tâm linh ,
có thể sẽ tránh những kẻ xâm lược .
Nếu thấy những lợi ích từ lối sống thanh tao cống hiến`
chúng ta sẵn sàng chia xẻ về sự tiến bộ ” .

Có thể họ sẽ thoái mái từ khước phương thức sử dụng baọ lực . Như thế những mối đe dọa về chiến tranh sẽ tự giảm thiểu . Manjushri - Yashas đã về sự chia xẻ những hiểu biết khoa học và kỹ thuật của Shambala , và ông hoàn toàn đứng vững trước thái độ tiêu cực của một số người muốn tìm cách giử lại bí mật .

Những lời khuyên đầy minh triết vẫn còn giá trị cho đến ngày nay . Sự giáo dục và chuyển hóa cho mọi người tạo ra những cơ hội ngang nhau về tiến bộ cho từng người là những phương pháp rất mãnh liệt dùng chống lại sự hung bạo và tội ác .

Vào thời đại Manjushri - Yashas . Những nhà chiêm tinh trong triều thiết lập những bảng định vị những hành tinh khác biệt trong năm . Sau đó họ phổ biến nhận định đã được thừa nhận và tránh nói về những bài toán phức tạp . Với hàm ý muốn mọi người quên lãng những bài toán phức tạp này .

Chiến thuật này buộc người dân phải dựa vào những nhà bác học . Những người được xem là chuyên gia này thường có khuynh hướng khai thác tiền bạc và danh vọng . Họ có thể thông báo những biến cố một cách thiên vị và hoàn toàn mù mờ . Vì không một ai có thể bất cứ lúc nào thể hiện được một cách chính xác .

Trong thời gian này , ngày ra trận hay sự nổi dậy có vũ trang của dân chúng sẽ được ngăn chận một cách lập tức . Khi biết trước những dữ kiện chiêm tinh kịp thời . Những sao chiếu mệnh được ngụy trang để che dấu một mưu đồ nào đó .

Những bảng thể hiện trong triều được thiết lập hành trình với những dữ kiện sai . Và trong dân chúng không ai có thể có những hiểu biết cần thiết để kiểm chứng hay có đủ khả năng điều chỉnh lại .

Vì thế để tránh sự lạm dụng và khai thác sự ngây thơ của dân chúng . Việc cần thiết là phải phổ cập môn toán học . Đây là lý do nền tảng Mật tông Kalachakra cung cấp những dữ kiện toán học khẳng định vị trí những hành tinh đang di chuyển , những ngày có thiên thực , cũng như thiết lập lịch tương ưng với dương lịch .

Cũng như ngày hôm nay chúng ta đang vấp phải nguy cơ tương tự . Vì hoàn toàn phụ thuộc máy tính và computer nên quên mất những bài toán cơ bản nhất . Những ai từng lo lắng những sai lầm thường có trên hóa đơn điện thoại hay những hóa đơn thanh toán được thực hiện với thẻ tín dụng , rất dễ dàng nhận ra nguy hiểm này .

Như chúng ta đã thấy , vũ trụ học nền tảng Mật tông Kalachakra và những diễn tả về vũ trụ do những nhà vật lý không gian thời đại thiết lập không thể khớp một cách toàn diện . Vì những mục tiêu theo đuổi từ những lãnh vực hiểu biết thì hoàn toàn khác nhau .

Tương tự vị trí những hành tinh trên trời . Mục tiêu đầu tiên của môn thiên văn học và thiết lập lịch Kalachakra . Không phải cung cấp sách hướng dẫn cho chuyến du hành giữa các vì sao mà dành riêng cho việc nghiên cứu thiên văn học .

Manjushri - Yashas giải thích :

“ Khi không thể tránh khỏi cuộc chiến . Chúng ta cần nhờ đến thiên văn học để định vị cho những ngày tháng thích hợp cho những chiến dịch và những cuộc tấn công ” . Cũng có nghĩa , những gì có giá trị cho những cuộc chiến bên ngoài ; đồng thời có cùng giá trị cho những cuộc chiến từ bên trong .

Vì thế , nền tảng Mật tông Kalachakra trình bày tư liệu gốc rất phức tạp về những phép toán và giáo huấn thiên văn học . Một phần dùng định nghĩa những nguyên lý thiên văn Tây tạng và Mông cổ . Phần còn lại được phát xuất từ môn thiên văn học của Trung quốc .



Giả sử những chu kỳ vận hành khác đề nghị
phương pháp giải thoát chúng ta thoát khỏi
cách vận hành bên ngoài và bên trong .
Nhưng dưới sự điều khiển của nghiệp lực ,
cần sự lãnh hội đầy sáng tỏ về
quan hệ giữa nghiệp lực và thiên văn học .
Nếu không , khoa thiên văn học trở thành tập quán mê tín .

Thật ra , suốt thời Manjushri - Yashas ngự trị . Tinh thần mê tín đã lan rộng dẫn đến những lễ hiến sinh bằng thú vật và con người cho thần Mặt trời để cầu phúc . Nhận ra điều này , ngài tuyên bố :

“ Những thân vật lý thượng giới .
Không hề có bất cứ trách nhiệm nào
về những biến cố xảy ra trên trái đất ” .

Theo quan điểm trong giáo thuyết Phật học . Không biến cố nào được xác định hay khẳng định trước . Ngược lại , tất cả những nỗ lực của chúng ta thiên về sự giải thoát và tỉnh thức không còn hiệu quả . Vì chúng ta được sinh ra với một kho tàng huyền hoặc đầy những tiềm năng nghiệp lực .

Đó là là quả từ vô số tiền kiếp tạo thành . Chủ đề sinh sản và những dự báo được diễn tiến , chỉ tạo ra những phác thảo mới của nghiệp lực khi vừa được sinh ra . Nhưng thật ra cũng có vô số những yếu tố khác dùng để khẳng định những biến cố về cuộc sống của chính mình .

Hơn nữa , chủ đề thiên văn chỉ chứa một số giới hạn trong những biến số . Trong khi những hệ lụy về nghiệp lực thực sự rất phức tạp . Như Kaydrubjey định rõ :

Nếu chủ đề thiên văn có thể cung cấp những dữ kiện có thể xác định chính xác về cuộc sống của một con người hay con chó sinh ra cùng ngày và cùng nơi chốn . Tất nhiên phải có những cá tính tương đồng và sẽ theo một cuộc sống như nhau . Tương tự , nếu có những ngày được xem là tốt lành với tất cả cư dân trái đất . Tất nhiên sẽ chẳng có một ai bị thương hay chết do tai nạn hay bệnh tật vào ngày đó ! » .

Thực ra , những hình dáng thiên văn là những hoàn cảnh tạo sự chín mùi những tiềm năng của nghiệp lực . Nếu văng bặt những tiềm năng của nghiệp lực . Chắc chắn không còn điều gì đặc biệt xảy ra . Nếu chúng hiện diện , có nghĩa cần có những hoàn cảnh đặc biệt để làm cho chín mùi .



Khi giữ trong trí những điểm khác biệt .
Chúng ta sẽ có cái thoáng nhìn ngắn gọn
về tư liệu gốc của môn thiên văn học Kalachakra .
Như trong những hệ thống khác của Ấn độ ,
hệ thống Kalachakra trình bày
những mối tương đồng với thiên văn học Hy lạp cổ .

Trong đó , kể đến 12 cung hoàng đạo , tuần lễ bảy ngày và chỉ định những ngày trong tuần theo những thân vật lý thượng giới , cũng như những chuyên luận về Mặt Trời , Mặt Trăng và những hành tinh như Mercure, Vénus , Mars , Jupiter và Saturne . . .

Đồng thời nền tảng Mật tông Kalachakra để ý đến những nút thắt của mặt trăng làm chuyển vận những hành tinh . Nút thắt phía bắc gọi là Rahu trong thiên văn học Ấn độ , mang cùng tên với môn thiên văn học Kalachakra . Nút thắt phía nam gọi là Kétu trong thiên văn học Ấn độ mang tên là Kalagni .

Dù Mặt Trời và Mặt Trăng chạy dài hai dãy bầu trời gọi là cung hoàng đạo , chúng cũng không gặp nhau một cách chính xác .Và những điểm giao nhau . Nói chính xác là những gì thiên văn học Ấn độ và Tây tạng gọi là : “ Nút thắt mặt trăng ” .

Khi đến ngày rằm mới , Mặt Trời và Mặt Trăng đạt đến một trong những điểm này , sẽ xảy ra nguyệt thực và khi ngày trăng tròn . Mặt Trời và Mặt Trăng nằm ở hai điểm đối xứng thì xảy ra nhật thực .

Biểu tượng về thiên thực là chủ đề chủ yếu trong thiên văn học Kalachakra cũng như những chu kỳ vận hành bên trong hay bên ngoài ; với những môn vũ trụ học và những bài tính về những vị trí những hành tinh trên trời được xác định theo kết luận của hệ thống Kalachakra .

Thiên văn học tây phương xác định cá tính của một người bằng căn bản của ngày sinh - vị trí những hành tinh vào giờ chính xác và nơi sinh . Phân biệt cuộc đời tương lai khi so sánh vị trí của ngày sinh và những vị trí ở những giây phút khác biệt của cuộc đời .

Thiên văn học Ấn độ cũng thiết lập chủ đề về ngày sinh . Nhưng lại nhấn mạnh về những gì diễn tiến trong cuộc sống của một người và đặt nền tảng trên những chu kỳ những hành tinh khác biệt .

Thiên văn học Kalachakra chia xẻ với thiên văn học Ấn độ về đường hướng và những nét đặc trưng . Nhưng hệ thống tiên đoán đặt nền tảng trên việc sử dụng lịch và vô số những thông tin rút từ những hành trình của các vì sao .



Trong thiên văn học Kalachakra ;
những tiên đoán được thực hiện theo hai dạng thức chủ yếu :

Dạng thức thứ nhất :

Chia cung hoàng đạo thành 27 chòm sao , không là 12 hành tinh và đề cập đến đến một trong 4 hành : Đất , nước , lửa , không khí hay gió của những chòm sao vào những ngày khác biệt trong tuần .

Sự tập trung về yếu tố trong ngày và chòm sao với sự xuất hiện của Mặt trăng vào giây phút chính xác trong ngày cho phép thiết lập giờ lành cho sự xuất hành , để khởi đầu cho cuộc chiến bên ngoài hoặc sự nhập thất bên trong hay trong cuộc sống của tu viện .

Dạng thức thứ hai :

“ Sự nổi bật từ những nguyên âm ” . Mẫu tự Phạn gồm 5 gia đình nguyên âm : A - I - R - U - L . Tương ứng với 5 thành phần : Không gian , gió , lửa , nước và đất . Nguyên âm mỗi gia đình được kết hợp cùng nguyên âm đôi và một bán nguyên âm - Thí dụ : E và Ya được kết hợp với I kéo dài tạo thành : I , Ai , Ya .

Công việc này tạo thành tất cả có 30 nguyên âm . Thế rồi mỗi một nguyên âm được kết hợp thay vào cho một ngày của tháng âm lịch . Nếu ai muốn tư vấn về lời khuyên để mở cửa công ty . Nhà thiên văn học sẽ so sánh nguyên âm đầu tiên tên công ty và thành phần nguyên âm kết hợp với ngày tham vấn . Đồng thời mỗi thành phần được kết hợp với một hướng nào đó trong không gian vận hành .

Điều này cho phép nhà thiên văn học tư vấn một cách tổng quát về ngày lành để ra lệnh tấn công , hướng tấn công lý tưởng hay định cho hành giả Mật tông hướng tốt nhất trong nghi thức cúng dường bằng lửa ở cuối kỳ nhập thất .

Sự trình bày phương pháp gọi là : “ Sự nổi bật từ những nguyên âm ” ; cung cấp những phân tích về âm vị của các mẫu tự tiếng Phạn được kết hợp với một trong 5 hành . Phương pháp này tìm thấy những sự thế trong những chu kỳ vận hành bên trong . Nhưng trong những chu kỳ vận hành khác nó cũng đóng một vai trò đặc biệt quan trọng khác .

Nó hợp thành nền tảng phân tích những từ vắng bặt ý nghĩa Mantra . Đồng thời được sử dụng trong sự lãnh hội những “ hạt-gốc ” . Có nghĩa những chữ Phạn biểu thị hoặc âm tiết đầu tiên hay tên mã số về hình ảnh đức Phật hoặc về một thành phần nào đó .

Theo phương cách hạt , những chữ này tóm lược ý nghĩa tổng quát và có thể mang lại những biểu lộ đầy đủ về tính chất biểu tượng ; trong suốt sự trao truyền quyền năng và sau đó trong thực hành thiền định Mật tông .

Hành giả mô phỏng sự biểu lộ về những điểm chính xác trong thân vật lý để phát sinh những hình ảnh và những vật thể . Khi giữ trong tâm thức tương ưng với 5 gia đình nguyên âm và 5 hành . Nhưng những sự mô phỏng này cũng có thể làm chúng ta lạc hướng nếu không sáng tỏ ý nghĩa về chúng .



Phần tiếp của nền tảng Mật tông Kalachakra
trình bày những kỹ thuật sáng chế vũ khí như máy quăng-đá
và những máy bắn-lửa .
Nhiều người rất kinh ngạc khi nhìn thấy
trong những văn bản Phật học
lại nghiên cứu những kỹ thuật về chiến tranh .
Họ cho rằng hoàn toàn đi ngược với giáo huấn bất bạo động .

Nhưng đức Đạt lai lạt ma minh họa về điểm này bằng câu chuyện . Ngài kể :

« Một ngày nọ . Có hai vị sư ngồi thiền cạnh thác nước . Cùng lúc ấy một người điên điên khùng chuẩn bị lao xuống dòng nước đang cuồng nộ lao xuống vực sâu .

Hai thiền giả biết rõ người kia khó thoát khỏi , nên tìm cách phân giải , . Nhưng hoàn toàn vô ích . Một trong 2 hành giả tự nói : Mình không thể làm gì khác hơn và yên lặng quay lại công việc thiền định . Trong khi người kia đánh vào đầu người định tự tử một cú trời giáng để hắn bất tỉnh . Vì cho rằng mình không còn sự lựa chọn nào khác hơn để tránh cho hắn đừng phạm phải điều điên rồ . Thế thì , trong hai hành giả , người nào đã phạm hành động bạo động ? » .

Chắc chắn là người bỏ mất cơ hội cứu mạng sống một con người . Tương tự như thế với tất cả mọi hoàn cảnh thất vọng :

« Sau khi cạn kiệt hết mọi phương tiện cứu vãn cho hòa bình . Chúng ta không còn chấn chừ với sức mạnh . Nhưng không bao giờ vì những xúc cảm hờn giận hay oán thù » .

Chúng ta thực hiện với tinh thần thuần khiết chỉ vì con người . Nói như vậy , có nghĩa sẽ sẵn sàng chấp nhận những hậu quả về hành động bạo lực nào đó . Ngay cả điều này làm cho chúng ta vô cùng đau đớn vô cùng . Và đây là hệ quả về cách hành xử của một Bồ tát . Nói như thế không có nghĩa chúng ta biện ninh cho hành động mà phải trong tinh thần hoàn toàn sáng tỏ rõ biết .

Một khi đã chiến thắng , lập tức phải xa lánh những khí cụ phục vụ chiến tranh . Như vậy có nghĩa nên quay lại với những khí cụ của hòa bình . Vì thế chương I nền tảng Mật tông Kalachakra nói tiếp về :

Sự vinh danh cho chiến thắng là :
Hướng dẫn xây dựng những vòng quay Mantra ;
và những khí cụ phục vụ cho lễ hội .

Dạy xây dựng những đài nước trang trí để tâm thức thư giản và những kênh dẫn nước cải thiện điều kiện làm việc cho nông dân . Một môi trường hòa bình đầy hứng khởi mang đến những quan hệ hài hòa . Nếu vẫn tiếp tục sáng chế vũ khí trong thời bình . Chắc chắn sẽ gây ra niềm lo sợ và nghi ngờ trong tâm thức . Vì thế những ý kiến đề nghị hình thành những kho lưu trữ vũ khí nặng dành cho sự đe dọa .



Chương I kết thúc bằng những tiên đoán về thời đại hoàng kim mới .
Nơi nhân loại sẽ quay trở lại thực hành Kalachakra
đặt nền tảng trên khái niệm bốn kỷ nguyên vũ trụ kế tục
trong những văn bản Ấn độ vào những thời hạn khác nhau .

Nói rõ rằng : Kaliyuga ( thời đại đen tối ) đương thời sẽ kết thúc vào năm 2424 , bằng sự thất bại của những sức mạnh ngoại xâm . Thời đại hoàng kim mới trùng hợp với sự khởi đầu với những gì Tây phương gọi là kỷ nguyên Bắc Bình .

Sự thay đổi trong kỷ nguyên này được giải thích khi nhắc đến hiện tượng về : « Đường tiến những điểm phân » . Có nghĩa chuyển động ngược lại thời điểm xuân phân . Vì thế cần có khái niệm về chiêm tinh học , cũng như thiên văn học của cả hai hệ thông để có thể tham khảo .

Theo hệ thống những ngôi sao cố định của truyền thống thiên văn Ấn độ , bao gồm truyền thống Kalachakra . Khi mặt trời đi vào chòm sao Dương cưu ( Bélier ) , vị trí nó là ở O° của Dương cưu . Điều này xảy ra cùng ngày ở mỗi năm trong hệ thống Ptolémée thịnh hành ở Tây phương .

Vị trí này được tính theo dương lịch . Vậy , chòm sao hoàn toàn độc lập với sự hiện diện của mặt trời . Vị trí nó ở điểm xuân phân , có nghĩa ngày và đêm bằng nhau , được gọi là : « O° Dương cưu » .

Thật ra , vị trí này vẫn lùi rất nhẹ vào mỗi năm . Hiện nay , điểm xuân phân ở chòm sao Song ngư ( Poisson ) đứng trước Dương Cưu . Đây là đường dẫn vào chòm sao Bảo Bình . Nơi đánh dấu khởi đầu thời đại hoàng kim mới .

Như vậy , khi những người bảo vệ « Kỷ nguyên Mới » tuyên bố về ngày đến gần kề kỷ nguyên Bắc Bình . Có nghĩa nhờ vào những khái niệm thiên văn học để chứng minh quan kiến về 1000 năm Thiên chúa giáo .

Những chu kỳ bên ngoài của sự vận hành sẽ tiếp diễn vượt qua thời đại hoàng kim . Sau đó vũ trụ được phân ra 4 kỷ nguyên khác và kết thúc bằng thời đại Kaliyuga . Giây phút này , những giáo huấn Phật học đương thời sẽ biến mất trong thế giới và những giáo huấn Kalachakra sẽ thay thế . Tiếp theo 12 lục địa và những chu kỳ sẽ được lặp lại chính từ những cân nhắc này .

Chương I nền tảng Mật tông Kalachakra được kết thúc . Như có thể nhận ra , nó cung cấp vô số những lời khuyên về sự thiết lập hòa bình thế giới . Sự nghiên cứu này tuy sơ lược nhưng cực kỳ hữu ích cho những ai quyết định tham gia vào lễ Khai tâm Kalachakra hay trở thành những quan sát viên .HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH,( MHDT ).OM MANI PADME HUM.( 3 LAN ).14/4/2012.

No comments:

Post a Comment