Friday, 13 April 2012

Chương II của Mật tông nền tảng Kalachakra
đề cập về những chu kỳ vận hành bên trong .
Bài giảng đặt mạnh về những sinh vật
sống trong những môi trường thích hợp với chu kỳ vận hành bên ngoài .

Nếu không có sự hiểu biết nhỏ về những chủ đề đề cập , sẽ rất khó khăn để tiếp nhận những giai đoạn của nghi lễ khai tâm và thấu suốt về ý nghĩa của nó . Chất liệu chương này rất phức tạp .


Nhưng với sự hiểu biết cô đọng về những điểm khác nhau sẽ cho phép môn sinh hiểu rõ những kỹ thuật Kalachakra khác , được trình bày ở chương V hướng dẫn họ trên con đường tỉnh thức .

1- Bốn Mô Hình Sinh Sản

Chương này mở màn bằng bài giảng
về những chu kỳ bên trong của thời gian bình thường ;
và quá trình diễn tiến về cái chết , Bardo và tái sinh .

Nói chung , Phật học nhận ra 4 mô hình sinh sản từ : Tử cung , trứng , ẩm thấp và chuyển hóa ( thai sinh , noãn sinh , thấp sinh và hóa sinh ) . Hệ thống Kalachakra nhấn mạnh sự cần thiết về tịnh hóa những thành phần và phân loại từng thành phần riêng biệt để khơi mào cho một tái sinh xuất hiện .

Như chim sinh ra từ trứng . Nên được xác định có nguồn gốc không khí ( gió ) . Vì những con chim di chuyển trong những thành phần này . Sự ra đời những động vật có vú được xem như sinh ra từ lửa . Vì những nét đặc trưng một tử cung là hơi ấm .

Sự ra đời của sâu bọ được xem như sinh ra từ nước , vì chúng nẩy nở gần những hồ vào mùa hè . Cây cỏ sinh ra được xem như sự chuyển hóa , vì tiếp theo sự chuyển hóa những hạt chôn vùi dưới đất .

Cuối cùng , sự sinh ra của những sinh vật dưới tác dụng chuyển hóa bậc cao . Có nghĩa không lệ thuộc giai đoạn thai nghén , và được xem như sinh từ không gian . Vì những sinh vật như thế tự lộ ra từ không khí vi tế mà không gặp mảy may chướng ngại nào .

Những bình luận đã giải thích tường tận . Nếu giới thực vật có mặt trong danh sách những trạng thái tái sinh . Vì những lý do tương đồng và không cần xem xét theo nghĩa đen .

Đồng thời nếu giới thực vật đã sẵn có cuộc sống , nhưng li không có tâm thức riêng biệt . Như thế có nghĩa hoàn toàn vắng bặt những dự kiến và ý chí . Do đó , chúng không thể tự lựa chọn tái sinh hay vì lầm lẫn mà tạo ra những tiềm năng nghiệp lực riêng biệt .

Chỉ có những sinh vật “ Sẵn có tính nhạy cảm ” mới có tâm thức . Và thực vật có mặt trên danh sách những mô hình tái sinh , tuy được thể hiện như thân cây và thảo mộc . Nhưng rất đáng cho chúng ta trân trọng và bảo vệ . Vì lý tưởng hòa bình trong Phật học mong muốn chúng ta chứng tỏ sự yêu thương dành cho loài người , thú vật kể cả thực vật .

Liên quan đến con người , sự ra đời là sự phối hợp chặc chẻ cả bốn sự sinh sản như : Được hỗ trợ bằng tử cung , trứng , hơi ấm và môi trường ẩm . Điều này , thoạt nhìn xem như khác thường ; nhưng không hẳn như thế . Theo thông thường , con người sinh ra từ tử cung người phụ nữ . Tuy được xem là sinh ra từ trứng cộng với sự gặp gở tinh trùng trong tử cung người phụ nữ qua môi trường ẩm ướt .

Những đứa bé được thụ tinh nhân tạo trong ống nghiệm cũng không thể khác với phạm trù này . Sự sinh sản vẫn có hỗ trợ từ môi trường ẩm thấp . Nói đúng hơn tinh trùng và trứng gặp nhau từ nhân phương thức sinh sản vô tính ( clonage ) .

Trong trường hợp ra đời do chuyển hóa cao cấp . Thân vật lý sẽ được hình thành ngay giây phút ra đời không qua những chuyển hóa từ trứng . . . . Sự sản sinh những rô bô điện tử có thể được xem như sự tương đương với mô hình khai sinh này .

Nền tảng Mật tông Kalachakra không gợi ý rõ ràng hình thức đặc biệt này của cuộc sống “ con người ” . Nhưng nếu chúng ta nghiên cứu về những mô hình khai sinh . Trong những văn bản Phật học có nói rõ và được miêu tả qua việc tìm hiểu sinh sản . Và chúng ta có được một khung cảnh đầy tri thức và đạo lý cho phép nhận định về những con người nào đó trong xã hội .



Theo những hệ thống Mật tông khác .
Chẳng hạn Mật tông của Guyasamaja .
Tính liên tục ( continium ) là tập họp những thành phần
để có thể vượt qua từ cái này đến cái kia một cách liên tục của tâm thức vi tế
và cơn gió năng lượng rất vi tế liên tục trải qua từ đời này sang đời khác .
Dù trong bất cứ mô hình tái sinh nào vẫn được duy trì trạng thái Phật .

Có thể so sánh với sóng radio lúc nào cũng không ngừng vận hành và cơn gíó năng lượng rất vi tế được xem như dòng điện cung ứng . Sóng và dòng điện không thể phân ly . Đồng thời điều này tương đồng với những tái sinh của con người trong tâm thức ở trình độ nào đó tác động .

Sự kiện căn bản tùy thuộc về những cơn gió năng lượng thô lỗ hay tế nhị không thể phân ly . Những « hạt » nghiệp , những tiềm năng và những khuynh hướng nghiệp lực trà trộn vào tính liên tục ( continuum ) của tâm thức rất vi tế và cơn gió năng lượng vi tế không tách rời .

Riêng nghiệp lực , tự chúng hợp thành những hình tướng vi tế uốn nắn dòng năng lượng gió rất vi tế . Cho đến khi đạt đến tỉnh thức chúng tự biến mất như tiếng lép bép nhiễu sóng của radio . Có nghĩa nó tự chuyển hóa về trạng thái thuần khiết nguyên thủy .

Những thệ nguyện cũng hợp thành những hình thức tế nhị trộn với tính liên tục của tâm thức để hướng về tính thuần khiết và trong sáng . Những thệ nguyện phi giáo hội hay thuộc giáo hội , đều nhìn được sự giải thoát cá nhân ( Pratimoksa ) dẫn chúng ta đi vào cuộc sống duy nhất .

Trong khi những thệ nguyện Bồ tát và Mật tông vẫn giữ tính liên tục rõ biết của chúng ta từ đời này sang đời khác . Chúng uốn nắn tâm thức cho đến khi đạt được hoàn toàn tỉnh thức . Những thệ nguyện giống như những tần số radio có thể được điều chỉnh cho thật tốt . Như vậy , như đã thấy . Sự liên tục tính của rõ biết có cá tính tuyệt đối thuộc về cá nhân .

Cho dù mỗi người có thể được xem như : « cái tôi » hay « bản ngã » ( moi ) . Và lý lịch được qui ước này sẽ lồng vào tâm thức rất vi tế trải qua từ đời này sang đời khác và trạng thái tỉnh thức lúc nào cũng được duy trì .

Hệ thống Kalachakra được trình bày từ những điểm khác nhau của dòng Guhyasamaja . Đồng thời nó được lan rộng khi sử dụng môn thuật ngữ học riêng biệt . Ví dụ : Khái niệm về những cơn gió nghiệp . Nói về sự hiện hữu những giọt sáng tạo ( Bindu ) rất vi tế cũng như sự hiện hữu của ngữ ngôn thật vi tế ( Mantra ) .

Ngữ ngôn (âm thanh ) rất vi tế hợp thành sự chấn động hay âm vang ( cộng hưởng ) một cách tự nhiên của tâm thức vi tế . Giọt rất sáng tạo vi tế ( Bindu ) hình thành từ những phần tử đất , nước , lửa và gió ở trạng thái đại ấn ( Mahamundra ) dưới hình thức cô đọng và phân ly .

Cá tính liên tục của giọt ( Bindu ) được xem như một dòng électron - những nguyên tử của trạng thái đại ấn ; dùng để truyền tải điện năng cần thiết cho sự vận hành những bước sóng của radio .



Những giọt rất vi tế ( bindu ) ;
có thể rất gần những phần tử không gian trong những quyền năng bất biến ( Éons )
của tính không phân chia hai giai đoạn biểu lộ vũ trụ không còn nguyên tử ;
theo chiều hướng vật lý không tồn tại phần tử không gian .
Có nghĩa những hạt cơ bản cô động và phân ly
ở trạng thái đại ấn đến từ vũ trụ .

Cũng như chất liệu bị hút vào lỗ đen . Những hạt cơ bản ở trạng thái đại ấn bị ảnh hưởng những định luật vật lý của vũ trụ chi phối ở trạng thái biểu lộ và được hình thành từ những phần tử và những nguyên tử đã giảm dần sự tinh khiết .

Tương tự thế , khi chúng ta đang ở trạng thái trung gian ( bardo ) giữa cái chết và sự tái sinh . Giọt sáng ( Bindu ) được cấu tạo rất vi tế tồn tại trong tính liên tục rõ biết . Nó cũng được hợp thành từ những hạt cơ bản trong trạng thái đại ấn và sẽ giải thoát những định luật về nghiệp lực chi phối của thế giới năng lượng nguyên tử

Khi những phần tử không gian từ vũ trụ được những cơn gió nghiệp từ những tập thể con người kích hoạt . Ngay giây phút này đã đánh dấu sự kết thúc quyền năng bất biến của tính không được dùng làm nhân cho sự sáng tạo vũ trụ mới .

Tương tự , khi giọt sáng bị những cơn gió nghiệp cá nhân kích hoạt . Ngay giây phút này đánh dấu trạng thái Bardo đã kết thúc để gây men cho chất liệu vật lý cần thiết cho một cuộc tái sinh . Khi sự tái sinh được thể hiện trong thân người hay thú vật . Tất cả sẽ xảy ra bằng sự gặp gở những thành phần vật lý thô là tinh trùng và trứng .

Giọt sáng ( Bindu ) như chiếc chìa khóa mở cửa tiềm năng của trứng để thụ tinh và sáng tạo sự sinh trưởng và phát triển . Quá trình dẫn đến sự sáng tạo vũ trụ có nền tảng liên tục tính như những nguyên tử trong không gian . Và quá trình này dẫn đến sự tái sinh có nền tảng là : Tính liên tục của những giọt sáng ( Bindu ) .

Trong trường hợp phát sinh một vũ trụ mới . Tính liên tục có nghĩa là : Không gian bao gồm những phần tử . Trong trường hợp tái sinh con người . Đó là những giọt sáng của hệ thống năng lượng mà chúng ta sẽ có cái thoáng nhìn ngay từ bây giờ ở những chương sau



Có nhiều phạm trù về những hiện tượng .
Cho dù sẵn có một hình tướng ;
nhưng vẫn chưa thể hình thành những phân tử hay những nguyên tử thô .

Một trong những phạm trù này thuộc về hệ thống Kalachakra là : “ Những hình tướng hay thân trống rỗng ” . Có nghĩa không hợp thành từ những phân tử hay hạt nguyên tử .

Chúng không phải là kết quả sáng tạo từ tâm thức như trong mô phỏng , giấc mơ hay trong trạng thái Bardo . Đây là sự vận hành trực tiếp từ tâm thức ánh sáng tỉnh thức và là những biểu lộ tự nhiên . Những hiện tượng này xảy ra trong những hoàn cảnh hoàn toàn đặc biệt .

Có nghĩa khi tâm thức vận hành hay không còn trong trình độ tâm thức kém tế nhị . Những văn bản khác biệt trình bày như những hình ảnh từ tấm gương thần diệu phản chiếu , dù nó không thể hiện từ tấm gương . Những hình tướng trống rỗng này được gọi là căn bản của con đường và quả hay trái .

Những dấu vết màu sắc nhìn thấy sau khi cố định mức ánh sáng rất mạnh . Chính là thí dụ rõ nét về căn bản hình tướng trống rỗng ; hợp thành từ những nguyên tử chứ không vận hành từ tưởng tượng hay biểu lộ do quan niệm . Cho dù chúng ta mở hay nhắm mắt .

Những hình tướng trống rỗng của con đường ; nổi bật suốt những chu kỳ Yoga của giai đoạn thành tựu . Khi những cơn gió năng lượng được dẫn đến kinh mạch trung ương của thân tế nhị .

Với sự thực hành mô phỏng trong giai đoạn sáng tạo . Tâm thức rất tế nhị , có khả năng vận hành trong kinh mạch trung ương . Với những hình tướng trống rỗng dưới biểu tượng hóa thần Kalachakra , được sử dụng như sự hỗ trợ thành tựu tỉnh thức .

Thực hành như thế sinh ra những hình tướng trống rỗng , từ quả của tâm thức thấu suốt trong ánh sáng tỉnh thức . Có khả năng sinh ra một thân của vô số những hình tướng trống rỗng trong biểu tượng hóa thần Kalachakra , có thể được sử dụng vì lợi ích của tất cả chúng sinh .

Chúng ta thực hành hệ thống Kalachakra ; để có thể sinh ra những hình tướng trống rỗng của con đường và quả . Có nghĩa không còn kết hợp từ những phân tử thô và thiên về khuynh hướng bản năng . Như thế có nghĩa đã thiết lập xong sự trực nhận về thế giới bên trong và ngoài bằng những hình tướng thô hợp thành từ những hạt cơ bản .

Vì lý do này , ngay cả những thành phần hợp thành chủ đề chính của hệ thống Kalachakra đã đóng vai trò chủ yếu trong lễ khai tâm . Những giai đoạn khác biệt của sự trao truyền quyền năng có đối tượng là : “ Tịnh hóa tâm thức ” , để chuyển hóa thói quen tạo lập những cảm nhận qua tri thức thành trực nhận .

Như vậy , lễ khai tâm dùng để gieo trồng trong tâm thức những hạt mầm để sau đó , nó tự sinh ra những hình tướng trống rỗng và hoàn toàn tỉnh thức của một vị Phật .



Sau khi giới thiệu những quá trình :
Sự chết , bardo và tái sinh .
Nền tảng Mật tông Kalachakra tập trung riêng biệt vào trạng thái tái sinh .
Bắt đầu phác thảo 10 giai đoạn về cuộc sống con người ,
từ quan niệm cái chết ;
và ba giai đoạn đầu liên quan đến thai noãn ( foetus ) .

Đồng thời Mật tông Guhyasamaja giải thích :

“ Những cấu thành khác biệt của Bardo tỉnh thức đi sâu vào khẩu người cha trong tương lai , xuống tận sinh thực khí thông qua tử cung người mẹ và tạo thành môi trường để xuất hiện lần sinh mới ” .

Giai đoạn này , chúng ta mô phỏng trong suốt lễ khai tâm bên trong Kalachakra . Có nghĩa như giây phút chúng ta tái sinh như những đứa con tâm linh của vị thầy Mật tông ; mà không đến cần kết hợp của quá trình sinh học .

Hãy nhớ lại những trình bày khác biệt của vũ trụ , do nền tảng Mật tông Kalachakra đề nghị theo chiều hướng riêng biệt , và hãy xem sự diễn tả quan niệm của con người để minh họa niềm nội hỉ sẵn có trong tâm thức ánh sáng tỉnh thức .

Niềm nội hỉ đồng thời cũng là niềm nội hỉ của cha và mẹ đứa trẻ trong tương lai trong sự hòa hợp thân vật lý trong tâm thức hoàn toàn sáng tỏ và chuyển hóa toàn diện . Sự diễn tả này cho chúng ta biết quan hệ mật thiết giữa niềm nội hỉ của khoái cảm ; và những tái sinh tiếp nối nhưng không được tịnh hóa kiểm chính là quá trình đau khổ của luân hồi .

Về vấn đề đạo đức tế nhị về việc ngừa và phá thai cũng được đặt ra . Dựa vào những tiêu chuẩn do những nhà tìm hiểu về sinh vật học giữ lại để xác định giây phút chính xác về sự ra đời của một cuộc sống con người .

Những văn bản Kalachakra diễn tả mười giai đoạn của cuộc sống con người tương ưng với muời hóa thân của Vishnu trong Ấn giáo . Muời hóa thân Vishnu cung cấp lời giải thích về những biến cố của Shambala ở một trình độ rất sâu sắc . Hóa thân cuối cùng của Vishnu là biểu tượng về cái chết và vị vua cuối của triều đại Kalki cũng có thể được xem như biểu tượng về cái chết

Giống như Manjushri - Yashas đã tụ họp thần dân vào trong một Mandala Kalachakra . Giống như cái chết gom những cơn gió năng lượng của thân tế nhị trong trái tim . Nơi nó được hòa tan để sinh ra những biểu lộ tâm thức rất tế nhị của ánh sáng tỉnh thức .

Hơn nữa , vua Kalki thứ 25 thắng được giặc ngoại xâm vào hậu thế , để mở đầu cho thời đại hoàng kim mới . Và cái chết tạm thời đã kết thúc tất cả những trình độ nhiễu loạn tâm thức con người . Mở đầu cho lần sinh hóa mới , và tuyên bố sự tiến bộ đang diễn tiến trên con đường tâm linh .



Sau khi giới thiệu chi tiết về sự phát triển thai noản trong tử cung người mẹ .
Mật tông Kalachakra giới thiệu về thân thô và thân tế nhị của con người .
Thân tế nhị là tổ hợp những phân tử thuần tuý tinh khiết
và vô hình dưới mắt thường .
Cho dù chúng ta nhìn bằng kính hiển vi điện tử .

Thân tế nhị hợp thành từ :

Kinh mạch trung ương cho năng lượng vận hành , sẵn có những nút thắt được gọi là Chakra , những cơn gió năng lượng , sự chấn động từ những ngữ ngôn tế nhị ( Mantra ) và những giọt sáng ( Bindu ) .

Cấu trúc của tập hợp thân vật lý con người và tập hợp vũ trụ hình thành giống nhau như mẹ và con . Đó là một tập hợp những thành phần thô ( những hành tinh ) và tế nhị ( ly tâm lực , tốc độ với những quỹ đạo ) .

Như vậy con người có hai thân bao gồm :

Tế nhị và thân thô :

Thân tế nhị hay thân ánh sáng :

Bao gồm những thành phần tế nhị như : Kinh mạch trung ương trong dạng thức ánh sáng , những cơn gió ( sự chấn động ) , ngữ ngôn bí mật ( Mantra ) và những giọt tinh tế ( Bindu ) . Đóng vai trò rất quan trọng trong hệ thống Kalachakra , kể cả lễ khai tâm . Vì thế chúng ta cần nghiên cứu một cách thật gần gủi và thân thiện .

Thân thô :

Bao gồm những « kinh mạch » hữu hình là hệ thống tuần hoàn , tiêu hóa và thần kinh , thịt xương . . . .

Như vậy thân vật lý là tổ hợp thân thô và thân tế nhị sẵn có những kinh mạch vô hình trong hình thức ánh sáng vi tế . Cho phép những gì được gọi là những cơn gió năng lượng chuyển động .

Y học Trung quốc cũng giới thiệu kinh mạch tương tự được gọi là những kinh lạc được sử dụng trong khoa châm cứu . Những nhà nghiên cứu về liệu pháp đối xứng , rất chú ý đến những con đường vô hình trong thân vật lý . Vì những thông điệp của hệ thống miễn nhiễm được dùng để bào chế bạch huyết cầu không thể tìm thấy trong hệ thống thần kinh hay trong bất cứ kinh mạch nào khác trong thân vật lý .

Từ Tây tạng chỉ định những kinh mạch năng lượng tế nhị là : Tsa cũng có nghĩa là : « Những gốc rễ » . Nếu so sánh thân vật lý với thảo mộc . Có thể nói rằng những kinh này hợp thành từ những gốc rễ vô hình .

Những kinh mạch nối liền với sự sâu sắc đặc thù của nguồn cội ( gốc rễ ) của tâm thức , những cơn gió năng lượng , ngữ ngôn tế nhị và những giọt sáng ( Bindu ) trong trạng thái rất tế nhị .

Như thế , sự thực hành trong giai đoạn thành tựu sẽ dẫn đến những Chakra ( nút thắt ) trong kinh mạch trung ương . Sau đó xuyên qua nó để đến trình độ rất tế nhị còn ẩn tàng trong trạng thái sâu thẳm trong tâm thức .

Ở trình độ thô , những cơn gió ( sự dao động ) thuộc về hơi thở lan rộng trong phổi để duy trì sự sống . Tương tự , những cơn gió năng lượng trong kinh mạch rất tế nhị ( ánh sáng ) cung cấp năng lượng cần thiết cho sự chuyển động , tiêu hóa và vận hành những cơ quan cảm giác .

Thực hành trong giai đoạn thành tựu bao gồm :

Những kỹ thuật hòa tan những cơn gió năng lượng vào trong những Chakra của kinh mạch trung ương . Quá trình này có thể so sánh như nước thấm vào lòng đất . Giả sử tâm thức bình thường không phân ly với những cơn gió năng lượng . Sự hòa tan sẽ ngấm ngầm sự rõ biết tâm thức rất tế nhị cội nguồn của ánh sáng tỉnh thức .

Trên bình diện sinh lý , ngữ ngôn phát sinh với những chấn động trong không khí từ mũi , cổ họng và hai lá phổi . Cũng thế ngữ ngôn tế nhị ( chủng tự ) xuất hiện từ hiện tượng tương tự . Nhưng chỉ xảy ra trong hệ thống năng lượng hoàn toàn tế nhị . Và y học đương đại hình như bắt đầu chú ý đến sự hiện hữu của âm vang tế nhị . Khi dùng dụng cụ đặc biệt để đo những bước sóng của não bộ .

Như thế , những phương pháp trong giai đoạn thành tựu . Có quyền năng phục hồi những âm thanh tế nhị bên trong kinh mạch năng lượng trung ương . Đồng thời thu hút những cơn gió năng lượng vận hành và hoà tan chúng vào bên trong để chuyển hóa thành ánh sáng cực kỳ vi tế .

Suốt lễ khai tâm và giai đoạn sáng tạo . Chúng ta thiết lập những nguyên nhân cần thiết cho sự thành tựu . Khi mô phỏng tố chất âm mầm từ bên trong những Chakra nút thắt ở kinh mạch trung ương .

Như những cơn gió nghiệp lực thu hút những giọt sáng chứa trong tinh trùng , trứng và những chất tiết ra từ hoa sen bí mật người nữ trong kinh mạch thân vật lý ; như một chuỗi vô tận những giọt sáng xuyên suốt trong những kinh mạch vô hình trong thân tế nhị .

Có thể sự tương ưng gần nhất của Tây phương về hiện tượng này là sự di chuyển của những tinh chất kích thích tố cung ứng cho thân vật lý . Và giai đoạn kết thúc sẽ giúp hành giả sẵn sàng cho những giọt tế nhị di chuyển theo ý muốn ; và phân bố vào kinh mạch tế nhị hỗ trợ cho tâm thức ánh sáng tỉnh thức trong sự rõ biết của niềm nội hỉ tính không .



Ngoài những giọt di chuyển trong hệ thống những kinh mạch năng lượng tế nhị . Còn bốn dạng giọt sáng bất động ( như hạt giống nằm im trong suốt cuộc sống ) . Đó là những giọt của thân vật lý , ngữ ngôn , tâm thức và rõ biết sâu sắc . Nói chính xác những Chakra nằm ở trán , cổ họng , trái tim và rún . . .

Ngược lại với giọt rất tế nhị không phân ly với tâm thức tỉnh thức . Đây là những giọt kém phần thanh tao hơn như : Thân vật lý và những cấu thành khác của hệ thống năng lượng tế nhị không thể tồn tại trong cái chết hay trạng thái Phật .

Trong trạng thái thức , mộng , giấc ngủ sâu và cực điểm khoái cảm . Những cơn gió năng lượng nghiệp lực trong từng trạng thái được tích tụ đặc biệt gồm bốn giọt sáng ( nút thắt ) của : Thân , ngữ ngôn ( chủng tự ) , tâm thức và rõ biết sâu sắc ( không ở trong kinh mạch trung ương ) .

Vậy tâm thực phóng chiếu đồng thời với những trực nhận ( Perception ) và những phân tử nguyên tử bên ngoài và bên trong . Sự vận hành này giống như một tác phẩm do hoạ sĩ thể hiện .

Khi họa sĩ nhúng cọ vào những màu sơn khác biệt , như tâm thức ngấm những cơn gió năng lượng vào trong 4 hạt tế nhị , rồi “ vẽ ” trên tấm vải trắng thành những hình dáng của thế giới do những thành phần bên ngoài và bên trong tác động .

Những cơn gió nghiệp lực được những hạt ( nút thắt ) thu hút như mạt sắt gặp nam châm . Và nó tích chứa những tiềm năng nghiệp lực phóng bức màn che làm mờ đục bốn giọt sáng cho những trải nghiệm trở thành nguồn tâm thức hoàn toàn lầm lẫn . Như thế có nghĩa chúng ta phóng chiếu dáng dấp bền vững trên căn bản giọt tỉnh thức ( bindu ) bằng ngữ ngôn lầm lẫn hình thành từ căn bản của giọt mộng ảo .

Một thứ tâm thức căn bản vô minh phóng chiếu che mờ giọt ( Bindu ) của giấc ngủ sâu và niềm nội hỉ cực điểm khoái lạc của giọt rõ biết sâu sắc . Cơ chế này sẽ xảy ra nhiều cơn gió nghiệp lực . Như thế những tái sinh khó trở lại vì quá nhiều vấn đề chướng ngại và đau khổ .

Những biểu lộ từ tâm thức dưới những hoàn cảnh như thế sinh ra ; hiển nhiên là sự lừa lọc . Vì chúng chịu ảnh hưởng những cơn gió chuyên chở nghiệp lực và đầy lầm lẫn . Nếu họa sĩ sử dụng những chiếc cọ chấm vào màu dơ bẩn . Đương nhiên tranh sẽ mang sắc thái quá tẻ nhạt .

Những biểu lộ do tâm thức bình thường sinh ra không chỉ nhận thấy được . Đồng thời cũng nghe, ngửi , nếm và sờ mó được . Vì chúng ta xem chúng hoàn toàn bền vững , trong khi nó chỉ là những phóng chiếu huyễn hoặc.

Như đã biết , chất liệu được hợp thành từ những phân tử . Như vậy tâm thức chỉ cần lắp đầy khoảng trống và kết quả thế giới chỉ hình như là cụ thể và bền vững đối với sự hiểu biết của chúng ta .

Sự hòa tan và chuyển hóa những cơn gió nghiệp lực , cộng với sự nổi bật tâm thức tỉnh thức rõ biết của niềm nội hỉ trong tính không , sẽ dẹp tan sự mờ tối tâm thức do những cơn gió năng lượng nghiệp lực , cũng như những biểu lộ bền vững , ngữ ngôn lầm lẫn . . .

Chính từ phương cách này bốn giọt tế nhị được tịnh hóa . Như thế , đối tượng chính xác của lễ khai tâm Kalachakra là thiết lập lại trật tự và tạo ra những điều kiện cần thiết để thực hiện quá trình này .

tonysham05:
Giọt tế nhị ?
karunasham:
Những nút thắc .

tonysham05:
Thân tế nhị ?
karunasham:
Thân ánh sáng

tonysham05:
Gió nghiệp lực ?
karunasham:
Những tích lủy và mê đắm

tonysham05:
Hệ thống năng lượng tế nhị ?
karunasham:
năng lượng đồng với vũ trụ . trong Mahamudra .

tonysham05:
Hai bài này nói về kỷ thuật chuyển hóa ?
karunasham:
Vâng .



Bài giảng về 4 giọt sáng riêng biệt về hệ thống Kalachakra ,
làm sáng tỏ một vài điểm chưa sáng tỏ còn lại
trong hệ thống Mật tông khác .

Chẳng hạn , phần cuối cùng yêu cầu hành giả chú ý vào Chakra nơi trán trong suốt thời thiền để ngăn không buồn ngủ . Nhưng Mật tông Kalachakra nói rõ rằng :

Chakra này là trung khu của giọt thân kết hợp với trạng thái mộng ở vùng cổ . Khi tập trung ở cổ họng trước khi ngủ thiếp cho phép chủ động trạng thái mộng và dễ dàng cho thực hành Yoga trong giấc mộng .

Về giọt tâm thức kết hợp với trạng thái không quan niệm ở giấc ngủ sâu trung khu thuộc về vùng tim . Khi tập trung vào Chakra này trong thực hành kỹ thuật ánh sáng sáng tỏ , sẽ đánh thức tâm thức rất tế nhị .

Cuối cùng , giọt rõ biết sâu sắc kết hợp với niềm nội hỉ ở trung khu rún . Khi thực hành Tummo ( ngọn lửa bên trong ) . Chakra rún dùng để phát sinh niềm nội hỉ sẵn có kết hợp với sự rõ biết sâu sắc để ứng dụng cho sự lãnh hội tính không .

Sự giới thiệu những kinh mạch năng lượng và những Chakra trong hệ thống Kalachakra khác với sự giới thiệu nhẹ nhàng về những hệ thống Mật tông khác trong đẳng cấp Anuttara Yoga , chẳng hạn như Mật tông Guhyasamaja .

Phương thức trình bày về vũ trụ theo những hệ thống Abidharma và Kalchakra hoàn toàn khác nhau . Vì không theo đuổi cùng mục tiêu . Tương tự như thế trong sự trình bày về hệ thống kinh mạch và Chakra của Mật tông Kalachakra và Guhyasamaja .

Có nghĩa Giáo huấn Kalachakra cấu trúc lại tất cả sự việc trên căn bản quan hệ tương đồng giữa thế giới bên ngoài và thế giới bên trong , để có thể xác định những kỹ thuật thiền định cho thật phù hợp .

Trong hệ thống Kalachakra , thế giới vật lý được kết hợp từ sáu thành phần song song với sáu Chakra chính . Tất cả đều nằm trên kinh mạch trung ương của thân ánh sáng như : Đỉnh đầu , trán , cổ , trái tim , rún và vùng xương mu ( pubis ) .

Trong thực hành Kalachakra , giảng sư yêu cầu học viên mô phỏng những Chakra khác nhau bằng những âm tiết mầm cũng như dĩa mặt trăng tròn ; với những màu sắc thật sống động cho từng Chakra . Để tịnh hóa những thành phần tương ưng .

Tuy những hành giả không giống nhau về cấu trúc tự nhiên . Nhưng chúng ta vẫn có thể tư duy bằng những phương cách khác nhau về hệ thống năng lượng đáp ứng cho những nhu cầu đa dạng như sự lưu thông huyết mạch - Nguyên mẫu của hệ thống năng lượng tế nhị .

Thật ra , mỗi người chúng ta đều sẵn có một gam màu đầy đủ về những hệ thống năng lượng ( Hiện tượng có thể tiếp cận một cách hiển nhiên từ trình độ khái niệm về lượng tử ) . Công việc hoàn tất cho phép vị thầy về thiền định phát hiện hệ thống năng lượng quan trọng và thích hợp nhất của từng học viên ; để có thể đạt đến trình độ rất tế nhị của tâm thức . Sau đó , họ có thể lãnh hội tốt nhất về tính không .



Y học Tây tạng phân tích nhẹ nhàng
về những kinh mạch và Chakra khác nhau
được trình bày trong hệ thống Mật tông Kalachakra và Guyasamaja .

Trong những bình luận - Desi Sanggay - Gyatso , một trong những bộ trưởng của đức Đạt lai lạt ma thứ V ( thế kỷ XVII ) đã làm sáng tỏ nhiều điểm khác biệt rất quan trọng . Nếu không , sau khi đọc những văn bản y học . Chúng ta có thể tưởng tượng và cho rằng mình đủ khả năng cần thiết để thực hành thiền định về hệ thống năng lượng tế nhị ; mà không cần đến vị thầy đủ tư cách để theo dõi và hướng dẫn . Như thế có nghĩa , tự đưa đầu vào sự nguy hiểm rất nghiêm trọng .

Y học Tây tạng và Mông cổ phần lớn xuất phát từ y học Ấn độ . Đồng thời cũng đã vay mượn những thuật ngữ của Mật tông Kalachakra . Chẳng hạn , đoạn về kinh mạch trung ương nằm ở Chakra rún gọi là Rahu ; và đoạn nằm dưới rún được gọi là Kalagni . Trong khi hai kinh mạch nằm gần kinh mạch trung ương cuộn vào nhau từ những Chakra , được chỉ định như “ Mặt trời ” và “ Mặt trăng ” .

Cũng như thế , khi bốn thân thượng giới gặp nhau ở Chakra rún như hiện tượng thiên thực của mặt trời và mặt trăng . Đồng thời tượng trưng như thiên thực trong suốt thực hành những chu kỳ vận hành khác , trong suốt sự trao truyền quyền năng .

Khi vị thầy yêu cầu chúng ta phát sinh như Phật Kalachakra đứng trên dĩa mặt trăng , mặt trời , Rahu và Kalagni chồng lên nhau như những chiếc gối trên đầu . Vào giai đoạn thành tựu , sự mô phỏng này thông suốt về sự tích lũy những cơn gió năng lượng ở Chakra rún . Nơi những năng lượng sẽ chuyển dòng , có nghĩa đi sâu vào kinh mạch trung ương để hòa tan vào đó .

Ở trình độ khác , những dĩa với những màu khác biệt :

Trắng , đỏ , đen và vàng tượng trưng cho bốn thân thượng giới . Biểu tượng riêng biệt của 4 giọt sáng của : Thân , ngữ ngôn , tâm thức và rõ biết sâu sắc được tịnh hóa . Dùng cho sự thành tựu thân , ngữ ngôn , tâm thức và rõ biết sâu sắc về niềm nội hỉ như một vị Phật .

Dĩa màu vàng được đặt chồng trên ba dĩa màu còn lại . Điều này chỉ định hình tướng trống rỗng , nguyên nhân của sự thành tựu thức khắc thân tỉnh thức Kalachakra phát sinh tại Chakra rún . Nói một cách chính xác là trung khu của giọt rõ biết sâu sắc .

tonysham05:
Tino cụ thể câu chót ?
karunasham:
Đạt đến rõ biết về thân trống rỗng và thân vật lý là thân giả ảo .

tonysham05:
Dĩa màu vàng ?
karunasham:
Thuộc về trung ương ( rún ) .
Nó phải được khai mở đầu tiên .

tonysham05: Tino đã khai triển lai rai lúc trước ? . Hành thổ ? .
karunasham: Vâng .



Chương II đã trình bày chu kỳ hàng ngày của thân vật lý của con người .
Những chu kỳ hoàn toàn tương ưng với những chu kỳ vũ trụ .
Nhưng chu kỳ quan trọng nhất vẫn là chu kỳ của hơi thở ,
vì nó liên quan mật thiết với những cơn gió năng lượng .

Thật ra , thuật ngữ năng lượng được sử dụng chỉ định cho cả hai ( trong và ngoài ) . Một ngày vận hành bên ngoài được chia thành 60 giờ ; và không một định luật sáng tỏ nào bắt buộc phải chia nó thành 24 giờ . Thậm chí năm âm lịch Tây tạng, bao gồm 360 ngày , vị chi 21600 giờ .

Tương tự , nếu những năng lượng cân bằng . Chúng ta sẽ thở 21600 lần mỗi ngày . Có nghĩa bốn giây trong một hơi thở .Cũng như mặt trời chạy quanh Bắc và Nam bán cầu 6 tháng nối tiếp ( Thiên văn học đã chứng minh độ nghiêng Bắc và Nam của quả đất ) .

Như vậy , chủ yếu chúng ta thở bằng lỗ mũi phải phân nửa thời gian và mũi trái phần nửa thời gian còn lại . Điều này có thể để tay vào mũi để kiểm chứng . Trừ trong một thời gian ngắn mỗi lần thay đổi hiện tượng . Như thế không khí di chuyển không giống nhau trong hai lỗ mũi .

Cũng như mặt trời xoay quanh 12 cung hoàng đạo trong 1 năm , giống như thay đổi một ngày 12 lần về hơi thở qua mũi . Như thế , nương vào sự tương đồng giữa những chu kỳ vận hành bên trong và bên ngoài ; Đã được hệ thống Kalachakra lặp lại trong những kỹ thuật thực hành .


Anuttara YogaTrích chương 14
Anuttara Yoga
Hành Trình Không Kết Thúc

Trungpa
( Dùng để tham khảo và bổ túc vào tài liệu Kalachakra )

Để giới thiệu dòng Prana ,
chúng ta có thể dùng ẩn dụ con ngựa đi tìm kỵ mã .
Như thế cần có một con ngựa tốt , khéo được vỗ béo và mạnh mẽ .
Ẩn dụ này không dùng để ám chỉ tốc độ chạy của con ngựa .
Có thể nói đúng hơn là nhấn mạnh về sự bền bỉ
và sức mạnh của năng lượng .

Một lần nữa , chúng ta đồng ý đi sâu vào quan hệ với thế giới đã cung ứng tất cả chất liệu sẵn có . Một xa lộ rộng lớn đã được dọn sạch , một siêu thị lớn với những trung tâm thương mại miễn phí được xây dựng ; và cung cấp đầy đủ những gì chúng ta mong muốn .

Bây giờ đã sẵn có dạng thức của năng lượng và sơ đồ về những cấu trúc . Với dòng Prana là con ngựa đang tung tăng . Hiện thân của năng lượng di chuyển trên những đường rầy được dựng sẵn ; trong môi trường đã chuẩn bị chu đáo được gọi là Nadi ( kinh mạch tế nhị hay ánh sáng ) .

Sau đó , chúng ta có : Bindu - Người kỵ mã Prana . Bindu chính là dạng thức rõ biết riêng biệt . Thiên hướng tâm thức muốn học hỏi , cố khai phá hay thường thiết lập trật tự vũ trụ được gọi là : Sem ( Sems ) từ ngữ Tây tạng . Sem là : “ Sự phản hồi từ những điểm tham khảo ” .

Dạng thức tâm thức này bằng lòng về sự xem xét và quan sát những lãnh vực năng lượng . Đơn giản Sem chỉ phản ứng từ những điểm tham khảo ; Bindu là phẩm chất tâm thức dùng để thiết lập quan hệ trực nhận về chuyến du hành . Và con ngựa chúng ta cởi là phương tiện để chuyển hóa .

Nhưng không thể nói : Con ngựa thực hiện chuyến du hành , nó chỉ chuyển động . Chính người kỵ mã sẽ thực hiện chuyến du hành vì là chủ nhân của con ngựa . Chủ nhân sẽ nhìn bên trái , phải , trứớc , sau và thưởng thức toàn cảnh . Người kỵ mã này chính là Bindu . Hay đơn giản có thể gọi là : « Sự rõ biết toàn diện » .

Như vậy , sự rõ biết hay Bindu thể hiện chuyến du hành bằng những năng lượng sẵn có trong vũ trụ . Sự rõ biết chính là phẩm chất tỉnh thức đã loại trừ nhu cầu về những điểm mốc tức thời ; và tầm nhìn nó rất rộng lớn như radar ( toàn diện ) .

Nó loại trừ nhu cầu về những điểm mốc một cách tức thời . Đài radar này được lồng vào dạng hỗ trợ cơ khí là tâm thức thực tiển hay Sem và tất cả cầu nối vào con đường rầy bằng bánh xe - dòng Prana .

Nói cách khác , chúng ta sẵn có hệ thống Radar dựng trên dàn có bánh xe để lướt trên đường rầy . Hệ thống này mang tên Bindu với hỗ trợ là Sem có bánh xe là dòng Prana và con đường rầy là Nadi . Ở đây , Bindu - hệ thống radar điểu khiển toàn diện chuyến du hành và : “ Tất cả quá trình được đặt nền tảng trên năng lượng ” .

Nhờ vào chúng , chúng ta có thể lên đường . Như thế , từ điểm cao nhất của Anuttara Yoga , chúng ta bắt đầu vượt qua chuyến du hành . Nhưng sẽ đi xa hơn việc sử dụng ba dạng thức năng lượng ( Nadi , Prana và Bindu ) .
Chúng ta cần tiến xa hơn nữa . Vượt qua sự rõ biết , tâm thức và phải trải nghiệm hoàn toàn độc vị . Có nghĩa bắt đầu bành trướng và để cho sự rộng mở lớn hơn xuất hiện . Giống như đoá hoa sen bí mật đã nở và chúng ta không còn cảm nhận về chuyến du hành nữa .
Vì thế trong Anuttara Yoga , và chử ký tắt Evam chính là biểu tượng về sự chuyển động rộng mở thật to lớn này .



Tonysham05 : Tino giảng thêm về 4 trình độ thần diệu trong Mật tông :

1)
Sự tập trung vào một điểm duy nhất.
2-
Tính đơn giản
3-
Hương vị độc nhất
4-
Không-thiền định ?

karunasham:
1-
tập trung vào chuyển hóa .
2-
Nhìn thẳng vào vấn đề không diễn giải .
3-
Chỉ một vị là hỉ lạc .
4-
Không cần thiền định mà vẫn hỉ lạc .

Đồng thời , chương II nhắc đến dạng thức riêng biệt của giọt sáng ( Bindu )
với tính đặc trưng là thu hút năng lượng của tâm thức sống động
( Bodhichitta Phạn ngữ và Bla Tạng ngữ = Bồ đề tâm )
như nam châm hút mạt sắt .

Năng lượng này cho phép giử gìn tâm thức ở trạng thái ổn định . Nếu chúng ta loại trừ tâm thức sống động sẽ kéo theo sự loạn năng như : Trầm uất hay cuồng tâm . Vì thế , giọt tâm thức sống động ( Bodhichitta ) bao gồm những tiềm năng cao nhất của dạng thức năng lượng .

Nó di chuyển trong thân thể đi một vòng trong 30 ngày . Tương ưng với chu kỳ mặt trăng theo quan kiến của Tây tạng . Vào ngày trăng rằm , nó nằm ngay đỉnh đầu . Vào những tuần trăng tối , nó chuyển xuống ở phân nữa thân ; và vào lúc tuần trăng sáng nó chuyển lên ở nữa thân còn lại .

Chu kỳ tâm thức sống rất quen thuộc trong y học Tây tạng và Mông cổ . Đúng vào thời gian và hoàn cảnh cho phép . Y sĩ dựa vào để xác định ngày tốt với những trị liệu chính xác . Chẳng hạn như điều trị phong thấp khớp bằng ngải cứu . . .

Tương tự , nhà phẩu thuật cũng chọn chu kỳ trăng khi năng lượng của tâm thức sống tập trung cao nhất phù hợp giải phẩu để bệnh nhân phục hồi sức lực nhanh chóng nhất . Có lẽ đó là lý do những chu kỳ năng lượng tâm thức sống động trùng với những chu kỳ của hệ thống miễn nhiễm .

Thật sự chúng ta chẳng biết nhiều về ảnh hưởng của mặt trăng và thủy triều . Nhưng sự trùng hợp mạnh nhất luôn trùng hợp với những ngày trăng tròn . Vậy giả định hành tinh này tác động ảnh hưởng vào năng lượng tế nhị của thân vật lý ; theo chu kỳ vận hành lên hay xuống theo chu kỳ thủy triều .

Đồng thời chu kỳ tâm thức-sống động cho phép hiểu thêm vài điểm trong giáo huấn Phật học và không thể có giải thích nào khác hơn . Trong những bản văn khuyên chúng ta không nên quan hệ tính dục vào lúc trăng rằm . Có nghĩa lúc giọt tế nhị của tâm thức sống động được tích lủy và nằm ngay đỉnh đầu .

Vì những điều kiện được hội tụ đầy đủ để chuyển hóa những cơn gió năng lượng bên trong kinh mạch trung ương . Giả sử khi niềm cực khoái phân tán những giọt sáng , trong đó có tâm thức-sống động . Đó là cơ hội tốt nhất để hòa tan những cơn gió năng lượng vào kinh mạch trung ương đi vào tâm thức tỉnh thức .

Vào những ngày rằm , năng lượng tâm thức-sống động rất mạnh ở đỉnh đầu . Điểm mấu chốt của tập họp thân ánh sáng . Đồng thời nó có thể giải thích về sự căng thẳng mà người nhạy cảm thường đau đớn vào thời gian này .

Nói chung những chu kỳ của vận hành bên trong có ảnh hưởng rất đến trạng thái sức khoẻ . Trong bình luận Mật tông Kalachakra , đức Karmapa thứ III ( thế kỷ XIV ) giải thích phương cách vì lầm lẫn bám chấp vào hiện thực sẽ dẫn đến những thái độ như thuốc độc như : Giận dữ , cứng đầu hay ngu xuẩn .

Những thái độ này là nguồn gốc của những căn bệnh . Vì nó sẽ cắt đứt sự cân bằng 3 hệ thống sinh lý riêng biệt tương ưng , được biết dưới thuật ngữ : Gió , mật và đờm dãi . Như thế , thực hành Kalachakra là loại trừ sự lầm lẫn và vô minh là nguồn gôc những vấn đề thuộc về tâm lý và những rối loạn sinh lý .

Và những kỹ thuật thiền định được đề nghị từ Mật tông có đặc tính tái cân bằng năng lượng tâm lý . Đồng thời dẫn đến việc làm thân vật lý trở về sự lành mạnh .

Tương tự những giáo huấn Kalachakra bên ngoài , cung cấp những đường nét thật chuẩn để thiết lập nền tảng hòa bình thế giới , và những gì tương ưng với sức khoẻ tâm lý và vật lý theo hệ thống Kalachakra bên trong , sẽ cống hiến cho chúng ta phương tiện vững chắc đi vào sự bình lặng của tâm thức sáng tỏ rõ biết .



Chủ đề chủ yếu cuối cùng của chương II là pháp chuyển hóa .
Có nghĩa chuyển hóa những thực thể thô xấu thành cao quý ,
để làm lợi ích cho muôn loài .
Trước tiên, chương này giới thiệu những công thức
làm nhang , khử trùng , chăm sóc y học và nghi thức cúng dường .

Đồng thời giải thích về chuyển hoá những kim loại yếu không phải vàng bằng những dược liệu . Về vấn đề này , văn bản cung cấp những giải thích về sự tịnh hóa thủy ngân . Thủy ngân được tịnh hóa là vị chính tạo thành những “ Viên thuốc quí ” trong dược phẫm Tây tạng .

Những chu kỳ vận hành bên trong đồng thời kéo theo những căn bệnh , phần lớn là hậu quả của ô nhiễm của chất hóa học , rác nguyên tử . . . Có hai căn bệnh được giới thiệu điển hình như bệnh ung thư và sida . Thủy ngân thuần khiết có đặc tính tẩy độc thân vật lý và phục hồi toàn thể những hệ thống vận hành .

Những y sĩ Tây tạng sử dụng những viên thuốc quí ; được chuẩn bị từ những công thức căn bản của Mật tông Kalachakra đề nghị , và đã thành công với một số nạn nhân bị ô nhiểm hóa học xảy ra ở Bhopal Ấn độ . Cũng như nhiều người bị nhiệm phóng xạ sau tai họa nguyên tử ở Tchernobyl . Đồng thời họ cũng kéo dài cuộc sống của một số ngươì bị ung thư và bị sida .

Song song với quá trình chuyển hóa . Những chu kỳ vận hành khác giới thiệu những phương pháp của Anuttara Yoga Tantra ; để chuyển hóa những cơn gió năng lượng phát sinh từ những cảm xúc nhiễu loạn như : Ám ảnh tính dục trở thành sự tiến bộ tâm linh .

Sự chủ động năng lượng tương ưng với từng cảm xúc cho phép hòa tan dễ dàng những cơn gió năng lượng thật đặc biệt . Rất khó dẫn vào kinh mạch năng lượng trung ương bằng phương cách bí mật và những phương cách tối bí mật .

Năng lượng chuyển hóa tính dục tác động như một liều thuốc quí báu . Theo chiều hướng đóng góp để dẫn hành giả đi vào tâm thức tỉnh thức . Và cho phép sử dụng sự rõ biết sâu sắc của niềm nội hỉ được gặt hái bằng tập trung vào tính không .

Làm nổi bật và sử dụng sự rõ biết niềm nội hỉ trong lãnh hội tính không là chủ đề mấu chốt thứ hai . Không ngừng tiếp diễn trong sự trao truyền quyền năng Kalachakra và thiền định sau đó . Đây là một vài hiểu biết sơ lược về những chu kỳ vận hành bên trong cho phép hiểu rõ những khía cạnh sinh lý mà chúng bao trùm .HET=OM MANI PADME HUM.( 3 LAN ).GESHE TASHI TSERING.( MHDT ).14/4/2012.

No comments:

Post a Comment