Chương II
của Mật tông nền tảng Kalachakra
đề cập về những chu kỳ vận hành bên trong .
Bài giảng đặt mạnh về những sinh vật
sống trong những môi trường thích hợp với chu kỳ vận hành bên ngoài .
Nếu không có sự hiểu biết nhỏ về những chủ đề đề cập , sẽ rất khó khăn để tiếp nhận những giai đoạn của nghi lễ khai tâm và thấu suốt về ý nghĩa của nó . Chất liệu chương này rất phức tạp .
Nhưng với sự hiểu biết cô đọng về những điểm khác nhau sẽ cho phép môn sinh hiểu rõ những kỹ thuật Kalachakra khác , được trình bày ở chương V hướng dẫn họ trên con đường tỉnh thức .
1- Bốn Mô Hình Sinh Sản
đề cập về những chu kỳ vận hành bên trong .
Bài giảng đặt mạnh về những sinh vật
sống trong những môi trường thích hợp với chu kỳ vận hành bên ngoài .
Nếu không có sự hiểu biết nhỏ về những chủ đề đề cập , sẽ rất khó khăn để tiếp nhận những giai đoạn của nghi lễ khai tâm và thấu suốt về ý nghĩa của nó . Chất liệu chương này rất phức tạp .
Nhưng với sự hiểu biết cô đọng về những điểm khác nhau sẽ cho phép môn sinh hiểu rõ những kỹ thuật Kalachakra khác , được trình bày ở chương V hướng dẫn họ trên con đường tỉnh thức .
1- Bốn Mô Hình Sinh Sản
Chương này mở màn bằng bài giảng
về những chu kỳ bên trong của thời gian bình thường ;
và quá trình diễn tiến về cái chết , Bardo và tái sinh .
về những chu kỳ bên trong của thời gian bình thường ;
và quá trình diễn tiến về cái chết , Bardo và tái sinh .
Nói chung , Phật
học nhận ra 4 mô hình sinh sản từ :
Tử cung , trứng , ẩm thấp và
chuyển hóa ( thai sinh , noãn sinh , thấp sinh và hóa sinh ) . Hệ thống Kalachakra
nhấn mạnh sự cần thiết về tịnh
hóa những thành phần và phân loại từng thành phần riêng biệt để khơi mào cho một
tái sinh xuất hiện .
Như chim sinh ra
từ trứng . Nên được xác định có nguồn gốc không khí ( gió ) . Vì những con
chim di chuyển trong những thành phần này . Sự ra đời những động vật có vú được
xem như sinh ra từ lửa . Vì những nét đặc trưng một tử cung là hơi ấm .
Sự ra đời của sâu
bọ được xem như sinh ra từ nước , vì chúng nẩy nở gần những hồ vào mùa hè . Cây
cỏ sinh ra được xem như sự chuyển hóa , vì tiếp theo sự chuyển hóa những hạt
chôn vùi dưới đất .
Cuối cùng , sự
sinh ra của những sinh vật dưới tác dụng chuyển hóa bậc cao . Có nghĩa không lệ
thuộc giai đoạn thai nghén , và được xem như sinh từ không gian . Vì những sinh
vật như thế tự lộ ra từ không khí vi tế mà không gặp mảy may chướng ngại nào .
Những bình luận đã
giải thích tường tận . Nếu giới thực vật có mặt trong danh sách những trạng thái
tái sinh . Vì những lý do tương đồng và không cần xem xét theo nghĩa đen .
Đồng thời nếu giới
thực vật đã sẵn có cuộc sống , nhưng lại không có tâm
thức riêng biệt . Như thế có nghĩa hoàn toàn vắng bặt những dự kiến và ý chí .
Do đó , chúng không thể tự lựa chọn tái sinh hay vì lầm lẫn mà tạo ra những tiềm
năng nghiệp lực riêng biệt .
Chỉ có những sinh
vật “ Sẵn có tính nhạy cảm ” mới có tâm thức . Và thực vật có mặt trên danh sách những mô hình tái
sinh , tuy được thể hiện như thân cây và thảo mộc . Nhưng rất đáng cho chúng ta
trân trọng và bảo vệ . Vì lý tưởng hòa bình trong Phật học mong muốn chúng ta
chứng tỏ sự yêu thương dành cho loài người , thú vật kể cả thực vật .
Liên quan đến con
người , sự ra đời là sự phối hợp chặc chẻ cả bốn sự sinh sản như : Được hỗ trợ bằng tử cung , trứng , hơi ấm và môi trường
ẩm . Điều này , thoạt nhìn xem như khác thường
; nhưng không hẳn như thế . Theo thông thường , con người sinh ra từ tử cung
người phụ nữ . Tuy được xem là sinh ra từ trứng cộng với sự gặp gở tinh trùng
trong tử cung người phụ nữ qua môi trường ẩm ướt .
Những đứa bé được
thụ tinh nhân tạo trong ống nghiệm cũng không thể khác với phạm trù này . Sự
sinh sản vẫn có hỗ trợ từ môi trường ẩm thấp . Nói đúng hơn tinh trùng và trứng
gặp nhau từ nhân phương thức sinh sản vô tính ( clonage ) .
Trong trường hợp
ra đời do chuyển hóa cao cấp . Thân vật lý sẽ được hình thành ngay giây
phút ra đời không qua những chuyển hóa từ trứng . . . . Sự sản sinh những rô bô
điện tử có thể được xem như sự tương đương với mô hình khai sinh này
.
Nền tảng
Mật tông
Kalachakra không gợi ý rõ
ràng hình thức đặc biệt này của cuộc sống “ con người ” .
Nhưng nếu chúng ta nghiên cứu về những mô
hình khai sinh . Trong những văn bản Phật học có nói rõ và được miêu tả qua việc
tìm hiểu sinh sản . Và chúng ta có được một khung cảnh đầy tri thức và đạo lý
cho phép nhận định về những con người nào đó trong xã hội .
Theo những hệ thống Mật tông khác .
Chẳng hạn Mật tông của Guyasamaja .
Tính liên tục ( continium ) là tập họp những thành phần
để có thể vượt qua từ cái này đến cái kia một cách liên tục của tâm thức vi tế
và cơn gió năng lượng rất vi tế liên tục trải qua từ đời này sang đời khác .
Dù trong bất cứ mô hình tái sinh nào vẫn được duy trì trạng thái Phật .
Chẳng hạn Mật tông của Guyasamaja .
Tính liên tục ( continium ) là tập họp những thành phần
để có thể vượt qua từ cái này đến cái kia một cách liên tục của tâm thức vi tế
và cơn gió năng lượng rất vi tế liên tục trải qua từ đời này sang đời khác .
Dù trong bất cứ mô hình tái sinh nào vẫn được duy trì trạng thái Phật .
Có thể so sánh với sóng radio
lúc nào cũng không ngừng vận hành và cơn gíó năng lượng rất vi tế được xem như
dòng điện cung ứng . Sóng và dòng điện không thể phân ly . Đồng thời điều này
tương đồng với những tái sinh của con người trong tâm thức ở trình độ nào đó tác
động .
Sự kiện căn bản tùy thuộc về
những cơn gió năng lượng thô lỗ hay tế nhị không thể phân ly . Những
« hạt » nghiệp , những tiềm năng và những khuynh hướng nghiệp lực
trà trộn vào tính liên tục ( continuum
) của tâm thức rất vi tế và cơn gió
năng lượng vi tế không tách rời .
Riêng nghiệp lực , tự chúng hợp
thành những hình tướng vi tế uốn nắn dòng năng lượng gió rất vi tế . Cho đến khi
đạt đến tỉnh thức chúng tự biến mất như tiếng lép bép nhiễu sóng của radio . Có
nghĩa nó tự chuyển hóa về trạng thái thuần khiết nguyên thủy .
Những thệ nguyện cũng hợp thành
những hình thức tế nhị trộn với tính liên tục của tâm thức để hướng về tính
thuần khiết và trong sáng . Những thệ nguyện phi giáo hội hay thuộc giáo hội ,
đều nhìn được sự giải thoát cá nhân ( Pratimoksa ) dẫn chúng ta đi vào cuộc sống
duy nhất .
Trong khi những thệ nguyện Bồ
tát và Mật tông vẫn giữ tính liên tục rõ biết của chúng ta từ đời này sang đời
khác . Chúng uốn nắn tâm thức cho đến khi đạt được hoàn toàn tỉnh thức . Những
thệ nguyện giống như những tần số radio có thể được điều chỉnh cho thật tốt .
Như vậy , như đã thấy . Sự liên tục tính của rõ biết có cá tính tuyệt đối thuộc
về cá nhân .
Cho dù mỗi người có thể được xem
như : « cái tôi » hay « bản ngã » ( moi ) . Và lý lịch được qui ước này sẽ lồng
vào tâm thức rất vi tế trải qua từ đời này sang đời khác và trạng thái tỉnh thức
lúc nào cũng được duy trì .
Hệ thống Kalachakra được trình bày từ những điểm khác nhau của dòng
Guhyasamaja . Đồng thời nó được lan rộng khi sử dụng môn thuật ngữ học riêng biệt .
Ví dụ : Khái niệm về những cơn gió nghiệp . Nói về sự hiện hữu những giọt sáng
tạo ( Bindu ) rất vi tế cũng như sự hiện hữu của ngữ
ngôn thật vi tế ( Mantra
) .
Ngữ ngôn
(âm thanh ) rất vi tế hợp thành sự chấn động hay âm
vang ( cộng hưởng
) một cách tự nhiên của
tâm thức vi tế . Giọt rất sáng tạo vi tế ( Bindu )
hình thành từ những phần
tử đất , nước , lửa và gió ở trạng thái đại ấn ( Mahamundra ) dưới hình thức cô đọng và phân ly .
Cá tính liên tục
của giọt ( Bindu ) được xem như một dòng électron -
những nguyên tử của trạng thái đại ấn ; dùng để truyền tải điện năng cần thiết
cho sự vận hành những bước sóng của radio .
Những giọt rất vi tế ( bindu ) ;
có thể rất gần những phần tử không gian trong những quyền năng bất biến ( Éons )
của tính không phân chia hai giai đoạn biểu lộ vũ trụ không còn nguyên tử ;
theo chiều hướng vật lý không tồn tại phần tử không gian .
Có nghĩa những hạt cơ bản cô động và phân ly
ở trạng thái đại ấn đến từ vũ trụ .
có thể rất gần những phần tử không gian trong những quyền năng bất biến ( Éons )
của tính không phân chia hai giai đoạn biểu lộ vũ trụ không còn nguyên tử ;
theo chiều hướng vật lý không tồn tại phần tử không gian .
Có nghĩa những hạt cơ bản cô động và phân ly
ở trạng thái đại ấn đến từ vũ trụ .
Cũng như chất liệu bị hút vào
lỗ đen . Những hạt cơ bản ở trạng thái đại ấn bị ảnh hưởng những định luật vật
lý của vũ trụ chi phối ở trạng thái biểu lộ và được hình thành từ những phần tử
và những nguyên tử đã giảm dần sự tinh khiết .
Tương tự thế , khi chúng ta đang
ở trạng thái trung gian ( bardo ) giữa cái chết và sự tái sinh . Giọt sáng (
Bindu ) được cấu tạo rất vi tế tồn tại trong tính liên tục rõ biết . Nó cũng
được hợp thành từ những hạt cơ bản trong trạng thái đại ấn và sẽ giải thoát
những định luật về nghiệp lực chi phối của thế giới năng lượng nguyên tử
Khi những phần tử không gian
từ vũ trụ được những cơn gió nghiệp từ những tập thể con người kích hoạt . Ngay
giây phút này đã đánh dấu sự kết thúc quyền năng bất biến của tính không được
dùng làm nhân cho sự sáng tạo vũ trụ mới .
Tương tự , khi giọt sáng bị
những cơn gió nghiệp cá nhân kích hoạt . Ngay giây phút này đánh dấu trạng thái
Bardo đã kết thúc để gây men cho chất liệu vật lý cần
thiết cho một cuộc tái sinh . Khi sự tái
sinh được thể hiện trong thân người hay thú vật . Tất cả sẽ xảy ra bằng sự gặp
gở những thành phần vật lý thô là tinh trùng và trứng .
Giọt sáng ( Bindu ) như chiếc
chìa khóa mở cửa tiềm năng của trứng để thụ tinh và sáng tạo sự sinh trưởng và
phát triển . Quá trình dẫn đến sự sáng tạo vũ trụ có nền tảng liên tục tính như
những nguyên tử trong không gian . Và quá trình này dẫn đến sự tái sinh có nền
tảng là : Tính liên tục của những giọt sáng ( Bindu ) .
Trong trường hợp phát sinh
một vũ trụ mới . Tính liên tục có nghĩa là : Không gian bao gồm những phần tử .
Trong trường hợp tái sinh con người . Đó là những giọt sáng của hệ thống năng
lượng mà chúng ta sẽ có cái thoáng nhìn ngay từ bây giờ ở những chương sau
Có nhiều phạm trù về
những hiện tượng .
Cho dù sẵn có một hình tướng ;
nhưng vẫn chưa thể hình thành những phân tử hay những nguyên tử thô .
Cho dù sẵn có một hình tướng ;
nhưng vẫn chưa thể hình thành những phân tử hay những nguyên tử thô .
Một trong những phạm trù này
thuộc về hệ thống Kalachakra là : “ Những hình tướng hay thân trống rỗng ” . Có nghĩa không hợp thành từ những phân tử hay hạt
nguyên tử .
Chúng không phải là kết quả sáng
tạo từ tâm thức như trong mô phỏng , giấc mơ hay trong trạng thái Bardo . Đây là
sự vận hành trực tiếp từ tâm thức ánh sáng tỉnh thức và là những biểu lộ tự
nhiên . Những hiện tượng này xảy ra trong những hoàn cảnh hoàn toàn đặc biệt .
Có nghĩa khi tâm thức vận hành
hay không còn trong trình độ tâm thức kém tế nhị . Những văn bản khác biệt trình
bày như những hình ảnh từ tấm gương thần diệu phản chiếu , dù nó không thể hiện
từ tấm gương . Những hình tướng trống rỗng này được gọi là căn bản của con đường
và quả hay trái .
Những dấu vết màu sắc nhìn
thấy sau khi cố định mức ánh sáng rất mạnh . Chính là thí dụ rõ nét về căn bản
hình tướng trống rỗng ; hợp thành từ những nguyên tử chứ không vận hành từ tưởng
tượng hay biểu lộ do quan niệm . Cho dù chúng ta mở hay nhắm mắt .
Những hình tướng trống rỗng
của con đường ; nổi bật suốt những chu kỳ Yoga của giai đoạn thành tựu .
Khi những cơn gió năng lượng được dẫn đến kinh mạch trung ương của thân tế nhị
.
Với sự thực hành mô phỏng trong
giai đoạn sáng tạo . Tâm thức rất tế nhị , có khả năng vận hành trong kinh mạch
trung ương . Với những hình tướng trống rỗng dưới biểu tượng hóa thần Kalachakra
, được sử dụng như sự hỗ trợ thành tựu tỉnh thức .
Thực hành như thế sinh ra
những hình tướng trống rỗng , từ quả của tâm thức thấu suốt trong ánh sáng tỉnh
thức . Có khả năng sinh ra một thân của vô số những hình tướng trống rỗng trong
biểu tượng hóa thần
Kalachakra , có thể được sử dụng vì
lợi ích của tất cả chúng sinh .
Chúng
ta thực hành hệ thống Kalachakra ; để có thể sinh ra những hình tướng trống rỗng
của con đường và quả . Có nghĩa không còn kết hợp từ những phân tử thô và thiên
về khuynh hướng bản năng . Như thế có nghĩa đã thiết lập xong sự trực nhận về
thế giới bên trong và ngoài bằng những hình tướng thô hợp thành từ những hạt cơ
bản .
Vì lý do này , ngay cả những
thành phần hợp thành chủ đề chính của hệ thống Kalachakra đã đóng vai trò
chủ yếu trong lễ khai tâm . Những giai đoạn khác biệt của sự trao truyền quyền
năng có đối tượng là : “ Tịnh hóa tâm thức ”
, để chuyển hóa thói quen tạo lập những
cảm nhận qua tri thức thành trực nhận .
Như vậy , lễ khai tâm dùng để
gieo trồng trong tâm thức những hạt mầm để sau đó , nó tự sinh ra những hình
tướng trống rỗng và hoàn toàn tỉnh thức của một vị Phật .
Sau khi giới thiệu những quá trình :
Sự chết , bardo và tái sinh .
Nền tảng Mật tông Kalachakra tập trung riêng biệt vào trạng thái tái sinh .
Bắt đầu phác thảo 10 giai đoạn về cuộc sống con người ,
từ quan niệm cái chết ;
và ba giai đoạn đầu liên quan đến thai noãn ( foetus ) .
Sự chết , bardo và tái sinh .
Nền tảng Mật tông Kalachakra tập trung riêng biệt vào trạng thái tái sinh .
Bắt đầu phác thảo 10 giai đoạn về cuộc sống con người ,
từ quan niệm cái chết ;
và ba giai đoạn đầu liên quan đến thai noãn ( foetus ) .
Đồng thời Mật tông Guhyasamaja giải thích
:
“ Những cấu thành khác biệt của
Bardo tỉnh thức đi sâu vào khẩu người cha trong tương lai , xuống tận sinh thực
khí thông qua tử cung người mẹ và tạo thành môi trường để xuất hiện lần sinh
mới ” .
Giai đoạn này , chúng ta mô phỏng
trong suốt lễ khai tâm bên trong Kalachakra . Có nghĩa như giây phút chúng ta
tái sinh như những đứa con tâm linh của vị thầy Mật tông ; mà không đến cần kết
hợp của quá trình sinh học .
Hãy nhớ lại những trình bày
khác biệt của vũ trụ , do nền tảng Mật tông
Kalachakra đề nghị theo chiều hướng riêng biệt , và hãy xem sự
diễn tả quan niệm của con người để minh họa niềm nội hỉ sẵn có trong tâm thức
ánh sáng tỉnh thức .
Niềm nội hỉ đồng thời cũng là
niềm nội hỉ của cha và mẹ đứa trẻ trong tương lai trong sự hòa hợp thân vật lý
trong tâm thức hoàn toàn sáng tỏ và chuyển hóa toàn diện . Sự diễn tả này cho
chúng ta biết quan hệ mật thiết giữa niềm nội hỉ của khoái cảm ; và những tái
sinh tiếp nối nhưng không được tịnh hóa kiểm chính là quá trình đau khổ của luân
hồi .
Về vấn đề đạo đức tế nhị về
việc ngừa và phá thai cũng được đặt ra . Dựa vào những tiêu chuẩn do những nhà
tìm hiểu về sinh vật học giữ lại để xác định giây phút chính xác về sự ra đời
của một cuộc sống con người .
Những văn bản Kalachakra diễn tả mười giai đoạn của cuộc sống con người tương
ưng với muời hóa thân của Vishnu trong Ấn
giáo . Muời hóa thân Vishnu cung cấp
lời giải thích về những biến cố của Shambala ở một
trình độ rất sâu sắc . Hóa thân cuối cùng của Vishnu
là biểu tượng về cái chết và vị vua
cuối của triều đại Kalki cũng có thể được xem như biểu tượng về cái
chết
Giống như Manjushri - Yashas đã
tụ họp thần dân vào trong một Mandala Kalachakra . Giống như cái chết gom những
cơn gió năng lượng của thân tế nhị trong trái tim . Nơi nó được hòa tan để sinh
ra những biểu lộ tâm thức rất tế nhị của ánh sáng tỉnh thức .
Hơn nữa , vua Kalki thứ 25 thắng được giặc ngoại xâm vào hậu thế , để mở
đầu cho thời đại hoàng kim mới . Và cái chết tạm thời đã kết thúc tất cả những
trình độ nhiễu loạn tâm thức con người . Mở đầu cho lần sinh hóa mới , và tuyên
bố sự tiến bộ đang diễn tiến trên con đường tâm linh .
Sau khi giới thiệu chi tiết về sự phát triển thai noản trong
tử cung người mẹ .
Mật tông Kalachakra giới thiệu về thân thô và thân tế nhị của con người .
Thân tế nhị là tổ hợp những phân tử thuần tuý tinh khiết
và vô hình dưới mắt thường .
Cho dù chúng ta nhìn bằng kính hiển vi điện tử .
Mật tông Kalachakra giới thiệu về thân thô và thân tế nhị của con người .
Thân tế nhị là tổ hợp những phân tử thuần tuý tinh khiết
và vô hình dưới mắt thường .
Cho dù chúng ta nhìn bằng kính hiển vi điện tử .
Thân tế nhị hợp thành từ :
Kinh mạch trung ương cho năng
lượng vận hành , sẵn có những nút thắt được gọi là Chakra , những cơn gió năng
lượng , sự chấn động từ những ngữ ngôn tế nhị ( Mantra ) và những giọt sáng (
Bindu ) .
Cấu trúc của tập hợp thân vật lý
con người và tập hợp vũ trụ hình thành giống nhau như mẹ và con . Đó là một tập
hợp những thành phần thô ( những hành tinh ) và tế nhị ( ly tâm lực , tốc độ với
những quỹ đạo ) .
Như vậy con người có hai thân bao gồm :
Tế nhị và thân thô :
Thân tế nhị hay thân ánh
sáng :
Bao gồm những thành phần tế nhị như : Kinh mạch trung
ương trong dạng thức ánh sáng , những cơn gió ( sự chấn động ) ,
ngữ ngôn bí mật ( Mantra ) và những giọt tinh tế ( Bindu ) .
Đóng vai trò rất quan trọng trong hệ
thống Kalachakra , kể cả lễ khai tâm . Vì thế chúng ta cần nghiên cứu một
cách thật gần gủi và thân thiện .
Thân
thô :
Bao gồm những « kinh
mạch » hữu hình là hệ
thống tuần hoàn , tiêu hóa và thần kinh , thịt xương . . . .
Như vậy thân vật lý là tổ hợp
thân thô và thân tế nhị sẵn có những kinh mạch vô hình trong hình thức ánh sáng
vi tế . Cho phép những gì được gọi là những cơn gió năng lượng chuyển động
.
Y học Trung quốc cũng giới
thiệu kinh mạch tương tự được gọi là những kinh lạc được sử dụng trong khoa châm
cứu . Những nhà nghiên cứu về liệu pháp đối xứng , rất chú ý đến những con đường
vô hình trong thân vật lý . Vì những thông điệp của hệ thống miễn nhiễm được dùng để bào chế bạch huyết
cầu không thể tìm thấy trong hệ thống thần kinh hay trong bất cứ kinh mạch nào
khác trong thân vật lý .
Từ Tây tạng chỉ định những
kinh mạch năng lượng tế nhị là : Tsa cũng có nghĩa
là : « Những
gốc rễ » . Nếu so sánh thân vật lý với thảo mộc . Có thể nói rằng
những kinh này hợp thành từ những gốc rễ vô hình .
Những kinh mạch nối liền với
sự sâu sắc đặc thù của nguồn cội ( gốc rễ
) của tâm thức , những cơn gió năng
lượng , ngữ ngôn tế nhị và những giọt sáng (
Bindu ) trong trạng thái rất tế nhị .
Như thế , sự thực hành trong giai
đoạn thành tựu sẽ dẫn đến những Chakra ( nút thắt ) trong kinh mạch trung ương .
Sau đó xuyên qua nó để đến trình độ rất tế nhị còn ẩn tàng trong trạng thái sâu
thẳm trong tâm thức .
Ở trình độ thô , những cơn
gió ( sự dao
động ) thuộc về hơi thở lan rộng trong phổi để duy trì sự
sống . Tương tự , những cơn gió năng lượng
trong kinh mạch rất tế nhị ( ánh sáng ) cung cấp năng lượng cần thiết cho sự
chuyển động , tiêu hóa và vận hành những cơ quan cảm giác .
Thực hành trong giai đoạn thành tựu bao
gồm :
Những kỹ thuật hòa tan những cơn
gió năng lượng vào trong những Chakra của kinh mạch trung ương . Quá trình này
có thể so sánh như nước thấm vào lòng đất . Giả sử tâm thức bình thường không
phân ly với những cơn gió năng lượng . Sự hòa tan sẽ ngấm ngầm sự rõ biết tâm
thức rất tế nhị cội nguồn của ánh sáng tỉnh thức .
Trên bình diện sinh lý , ngữ
ngôn phát sinh với những chấn động trong không khí từ mũi , cổ họng và hai lá
phổi . Cũng thế ngữ ngôn tế nhị ( chủng tự
) xuất hiện từ hiện tượng tương tự .
Nhưng chỉ xảy ra trong hệ thống năng lượng hoàn toàn tế nhị . Và y học đương
đại hình như bắt đầu chú ý đến sự hiện hữu của âm vang tế nhị . Khi dùng dụng cụ
đặc biệt để đo những bước sóng của não bộ .
Như thế , những phương pháp trong
giai đoạn thành tựu . Có quyền năng phục hồi những âm thanh tế nhị bên trong
kinh mạch năng lượng trung ương . Đồng thời thu hút những cơn gió năng lượng vận
hành và hoà tan chúng vào bên trong để chuyển hóa thành ánh sáng cực kỳ vi tế
.
Suốt lễ khai tâm và giai đoạn
sáng tạo . Chúng ta thiết lập những nguyên nhân cần thiết cho sự thành tựu . Khi
mô phỏng tố chất âm mầm từ bên trong những Chakra
nút thắt ở kinh mạch trung ương .
Như những cơn gió nghiệp lực thu
hút những giọt sáng chứa trong tinh trùng , trứng và những chất tiết ra từ hoa
sen bí mật người nữ trong kinh mạch thân vật lý ; như một chuỗi vô tận những
giọt sáng xuyên suốt trong những kinh mạch vô hình trong thân tế nhị
.
Có thể sự tương ưng gần nhất
của Tây phương về hiện tượng này là sự di chuyển của những tinh chất kích thích
tố cung ứng cho thân vật lý . Và giai đoạn kết thúc sẽ giúp hành giả sẵn sàng cho những
giọt tế nhị di chuyển theo ý muốn ; và phân bố vào kinh mạch tế nhị hỗ trợ cho
tâm thức ánh sáng tỉnh thức trong sự rõ biết của niềm nội hỉ tính không
.
Ngoài những giọt
di chuyển trong hệ thống những kinh mạch năng lượng tế nhị . Còn bốn dạng giọt
sáng bất động ( như hạt giống nằm
im trong suốt cuộc sống )
. Đó là những giọt của
thân vật lý , ngữ ngôn , tâm thức và rõ biết sâu sắc . Nói chính xác những
Chakra nằm ở trán , cổ họng , trái tim và rún . .
.
Ngược lại với giọt rất
tế nhị không phân ly với tâm thức tỉnh thức . Đây là những giọt kém phần thanh tao hơn như : Thân vật lý và
những cấu thành khác của hệ thống năng lượng tế nhị không thể tồn tại trong cái
chết hay trạng thái Phật .
Trong trạng thái
thức , mộng , giấc ngủ sâu và cực điểm khoái cảm . Những cơn gió năng lượng
nghiệp lực trong từng trạng thái được tích tụ đặc biệt gồm bốn giọt sáng (
nút thắt ) của : Thân , ngữ ngôn ( chủng tự ) , tâm thức và rõ biết
sâu sắc ( không ở trong kinh mạch trung ương ) .
Vậy tâm thực phóng
chiếu đồng thời với những trực nhận ( Perception )
và những phân tử nguyên tử bên ngoài và bên trong . Sự vận hành này giống như
một tác phẩm do hoạ sĩ thể hiện .
Khi họa sĩ nhúng
cọ vào những màu sơn khác biệt , như tâm thức ngấm những cơn gió năng lượng vào
trong 4 hạt tế nhị , rồi “ vẽ
” trên tấm vải trắng thành
những hình dáng của thế giới do những thành phần bên ngoài và bên trong tác động
.
Những cơn gió
nghiệp lực được những hạt ( nút thắt
) thu hút như mạt sắt gặp
nam châm . Và nó tích chứa những tiềm năng nghiệp lực phóng bức màn che làm mờ
đục bốn giọt sáng cho những trải nghiệm trở thành nguồn tâm thức hoàn toàn lầm
lẫn . Như thế có nghĩa chúng ta
phóng chiếu dáng dấp bền vững trên căn bản giọt tỉnh thức ( bindu ) bằng ngữ
ngôn lầm lẫn hình thành từ căn bản của giọt mộng ảo .
Một thứ tâm thức
căn bản vô minh phóng chiếu che mờ giọt ( Bindu ) của giấc
ngủ sâu và niềm nội hỉ cực điểm khoái lạc của giọt rõ biết sâu sắc . Cơ chế này
sẽ xảy ra nhiều cơn gió nghiệp lực . Như thế những tái sinh khó trở lại vì quá
nhiều vấn đề chướng ngại và đau khổ .
Những biểu lộ từ
tâm thức dưới những hoàn cảnh như thế sinh ra ; hiển nhiên là sự lừa lọc . Vì
chúng chịu ảnh hưởng những cơn gió chuyên chở nghiệp lực và đầy lầm lẫn . Nếu
họa sĩ sử dụng những chiếc cọ chấm vào màu dơ bẩn . Đương nhiên tranh sẽ mang sắc thái quá tẻ nhạt
.
Những biểu lộ do tâm
thức bình thường sinh ra không chỉ nhận thấy được . Đồng thời cũng nghe, ngửi ,
nếm và sờ mó được . Vì chúng ta xem chúng hoàn toàn bền vững , trong khi nó chỉ
là những phóng chiếu huyễn hoặc.
Như đã biết , chất
liệu được hợp thành từ những phân tử . Như vậy tâm thức chỉ cần lắp đầy khoảng
trống và kết quả thế giới chỉ hình như là cụ thể và bền vững đối với sự hiểu
biết của chúng ta .
Sự hòa tan và chuyển
hóa những cơn gió nghiệp lực , cộng với sự nổi bật tâm thức tỉnh thức rõ biết
của niềm nội hỉ trong tính không , sẽ dẹp tan sự mờ tối tâm thức do những cơn
gió năng lượng nghiệp lực , cũng như những biểu lộ bền vững , ngữ ngôn lầm lẫn .
. .
Chính từ phương cách
này bốn giọt tế nhị được tịnh hóa . Như thế ,
đối tượng chính xác của lễ khai tâm Kalachakra là thiết lập lại trật tự và tạo
ra những điều kiện cần thiết để thực hiện quá trình này .
tonysham05:
Giọt tế nhị ?
karunasham:
Những nút thắc .
Giọt tế nhị ?
karunasham:
Những nút thắc .
tonysham05:
Thân tế nhị ?
karunasham:
Thân ánh sáng
Thân tế nhị ?
karunasham:
Thân ánh sáng
tonysham05:
Gió nghiệp lực ?
karunasham:
Những tích lủy và mê đắm
Gió nghiệp lực ?
karunasham:
Những tích lủy và mê đắm
tonysham05:
Hệ thống năng lượng tế nhị ?
karunasham:
năng lượng đồng với vũ trụ . trong Mahamudra .
tonysham05:
Hai bài này nói về kỷ thuật chuyển hóa ?
karunasham:
Vâng .
Hệ thống năng lượng tế nhị ?
karunasham:
năng lượng đồng với vũ trụ . trong Mahamudra .
tonysham05:
Hai bài này nói về kỷ thuật chuyển hóa ?
karunasham:
Vâng .
Bài giảng về 4 giọt sáng riêng biệt về hệ thống Kalachakra
,
làm sáng tỏ một vài điểm chưa sáng tỏ còn lại
trong hệ thống Mật tông khác .
làm sáng tỏ một vài điểm chưa sáng tỏ còn lại
trong hệ thống Mật tông khác .
Chẳng hạn , phần cuối cùng
yêu cầu hành giả chú ý vào Chakra nơi trán
trong suốt thời thiền để ngăn không buồn ngủ . Nhưng Mật tông Kalachakra nói rõ rằng :
Chakra này là trung khu của giọt
thân kết hợp với trạng thái mộng ở vùng cổ . Khi tập trung ở cổ họng trước khi
ngủ thiếp cho phép chủ động trạng thái mộng và dễ dàng cho thực hành Yoga trong
giấc mộng .
Về giọt tâm thức kết hợp với
trạng thái không quan niệm ở giấc ngủ sâu trung khu thuộc về vùng tim . Khi tập
trung vào Chakra này trong thực hành kỹ thuật ánh sáng sáng tỏ , sẽ
đánh thức tâm thức rất tế nhị .
Cuối cùng , giọt rõ biết sâu
sắc kết hợp với niềm nội hỉ ở trung khu rún . Khi thực hành Tummo ( ngọn lửa bên
trong ) . Chakra rún dùng để
phát sinh niềm nội hỉ sẵn có kết hợp với sự rõ biết sâu sắc để ứng dụng cho sự
lãnh hội tính không .
Sự giới thiệu những kinh mạch
năng lượng và những Chakra trong hệ thống Kalachakra khác
với sự giới thiệu nhẹ nhàng về những hệ thống Mật tông khác trong đẳng cấp
Anuttara Yoga , chẳng hạn như Mật tông Guhyasamaja .
Phương thức trình bày về vũ
trụ theo những hệ thống Abidharma và
Kalchakra hoàn toàn khác nhau . Vì
không theo đuổi cùng mục tiêu . Tương tự như thế trong sự trình bày về hệ thống
kinh mạch và Chakra của Mật tông Kalachakra
và Guhyasamaja .
Có nghĩa Giáo huấn Kalachakra cấu trúc lại tất cả sự việc trên căn bản quan hệ
tương đồng giữa thế giới bên ngoài và thế giới bên trong , để có thể xác định
những kỹ thuật thiền định cho thật phù hợp .
Trong hệ thống Kalachakra , thế
giới vật lý được kết hợp từ sáu thành phần song song với sáu Chakra chính . Tất
cả đều nằm trên kinh mạch trung ương của thân ánh sáng như : Đỉnh đầu , trán ,
cổ , trái tim , rún và vùng xương mu ( pubis ) .
Trong thực hành
Kalachakra , giảng sư yêu cầu học viên mô phỏng những
Chakra khác nhau bằng những âm tiết mầm cũng như dĩa mặt
trăng tròn ; với những màu sắc thật sống động cho từng Chakra
. Để tịnh hóa những thành phần tương
ưng .
Tuy những hành giả không giống
nhau về cấu trúc tự nhiên . Nhưng
chúng ta vẫn có thể tư duy bằng những phương cách khác nhau về hệ thống năng
lượng đáp ứng cho những nhu cầu đa dạng như sự lưu thông huyết mạch - Nguyên mẫu
của hệ thống năng lượng tế nhị .
Thật ra , mỗi
người chúng ta đều sẵn có một gam màu đầy đủ về những hệ thống năng
lượng ( Hiện tượng có thể tiếp cận một cách hiển nhiên
từ trình độ khái niệm về lượng tử ) . Công việc hoàn
tất cho phép vị thầy về thiền định phát hiện hệ thống năng lượng quan trọng và
thích hợp nhất của từng học viên ; để có thể đạt đến trình độ rất tế nhị của tâm
thức . Sau đó , họ có thể lãnh hội tốt nhất về tính không .
Y học Tây tạng phân tích nhẹ nhàng
về những kinh mạch và Chakra khác nhau
được trình bày trong hệ thống Mật tông Kalachakra và Guyasamaja .
về những kinh mạch và Chakra khác nhau
được trình bày trong hệ thống Mật tông Kalachakra và Guyasamaja .
Trong những bình
luận - Desi Sanggay - Gyatso , một trong những bộ trưởng của đức Đạt lai
lạt ma thứ V ( thế kỷ XVII ) đã làm
sáng tỏ nhiều điểm khác biệt rất quan trọng . Nếu không , sau khi đọc những văn bản y học . Chúng ta có thể tưởng
tượng và cho rằng mình đủ khả năng cần thiết để thực hành thiền định về hệ thống
năng lượng tế nhị ; mà không cần đến vị thầy đủ tư cách để theo dõi và hướng dẫn
. Như thế có nghĩa , tự đưa đầu vào sự nguy hiểm rất nghiêm trọng
.
Y học Tây tạng và
Mông cổ phần lớn xuất phát từ y học Ấn độ . Đồng thời cũng đã vay mượn những
thuật ngữ của Mật tông
Kalachakra . Chẳng hạn ,
đoạn về kinh mạch trung ương nằm ở
Chakra rún gọi là Rahu ; và đoạn
nằm dưới rún được gọi là Kalagni . Trong khi hai kinh mạch nằm gần kinh mạch
trung ương cuộn vào nhau từ những Chakra , được chỉ định như “ Mặt trời ” và “
Mặt trăng ” .
Cũng như thế , khi
bốn thân thượng giới gặp nhau ở Chakra rún như
hiện tượng thiên thực của mặt trời và mặt trăng . Đồng thời tượng trưng như
thiên thực trong suốt thực hành những chu kỳ vận hành khác , trong suốt sự trao
truyền quyền năng .
Khi vị thầy yêu cầu
chúng ta phát sinh như Phật Kalachakra đứng trên dĩa mặt trăng , mặt trời , Rahu
và Kalagni chồng lên nhau như những chiếc gối trên đầu . Vào giai đoạn thành tựu
, sự mô phỏng này thông suốt về sự tích lũy những cơn gió năng lượng ở Chakra
rún . Nơi những năng lượng sẽ chuyển dòng , có
nghĩa đi sâu vào kinh mạch trung ương để hòa tan vào đó .
Ở trình độ khác , những dĩa với những màu khác biệt :
Trắng , đỏ , đen và
vàng tượng trưng cho bốn thân thượng giới . Biểu
tượng riêng biệt của 4 giọt sáng của : Thân , ngữ ngôn , tâm thức và rõ biết sâu
sắc được tịnh hóa . Dùng cho sự thành tựu thân , ngữ ngôn , tâm thức và rõ biết
sâu sắc về niềm nội hỉ như một vị Phật .
Dĩa màu vàng được đặt chồng trên
ba dĩa màu còn lại . Điều này chỉ định hình tướng trống rỗng , nguyên nhân của
sự thành tựu thức khắc thân tỉnh thức Kalachakra phát sinh tại Chakra rún . Nói
một cách chính xác là trung khu của giọt rõ biết sâu sắc .
tonysham05:
Tino cụ thể câu chót ?
karunasham:
Đạt đến rõ biết về thân trống rỗng và thân vật lý là thân giả ảo .
tonysham05:
Dĩa màu vàng ?karunasham:
Thuộc về trung ương ( rún ) . Nó phải được khai mở đầu tiên .
tonysham05: Tino đã khai triển lai rai lúc trước ? . Hành thổ ? .
karunasham: Vâng .
Tino cụ thể câu chót ?
karunasham:
Đạt đến rõ biết về thân trống rỗng và thân vật lý là thân giả ảo .
tonysham05:
Dĩa màu vàng ?karunasham:
Thuộc về trung ương ( rún ) . Nó phải được khai mở đầu tiên .
tonysham05: Tino đã khai triển lai rai lúc trước ? . Hành thổ ? .
karunasham: Vâng .
Chương II đã trình
bày chu kỳ hàng ngày của thân vật lý của con người .
Những chu kỳ hoàn toàn tương ưng với những chu kỳ vũ trụ .
Nhưng chu kỳ quan trọng nhất vẫn là chu kỳ của hơi thở ,
vì nó liên quan mật thiết với những cơn gió năng lượng .
Những chu kỳ hoàn toàn tương ưng với những chu kỳ vũ trụ .
Nhưng chu kỳ quan trọng nhất vẫn là chu kỳ của hơi thở ,
vì nó liên quan mật thiết với những cơn gió năng lượng .
Thật ra , thuật ngữ năng lượng được sử dụng chỉ định
cho cả hai (
trong và ngoài ) . Một ngày vận hành bên ngoài được chia thành 60 giờ ;
và không một định luật sáng tỏ
nào bắt buộc phải chia nó thành 24 giờ . Thậm chí năm âm lịch Tây tạng, bao gồm
360 ngày , vị chi 21600 giờ .
Tương tự , nếu những năng lượng cân bằng . Chúng ta sẽ thở 21600 lần
mỗi ngày . Có nghĩa bốn giây trong một hơi thở .Cũng như mặt trời chạy quanh Bắc
và Nam bán cầu 6 tháng nối tiếp
( Thiên văn học đã chứng minh độ
nghiêng Bắc và Nam của quả đất ) .
Như vậy , chủ yếu chúng ta thở bằng lỗ mũi phải phân nửa thời gian và
mũi trái phần nửa thời gian còn lại . Điều này có thể để tay vào
mũi để kiểm chứng . Trừ trong một thời gian ngắn mỗi lần thay đổi hiện tượng .
Như thế không khí di chuyển không giống nhau trong hai lỗ mũi .
Cũng như mặt trời xoay quanh 12 cung hoàng đạo trong 1 năm , giống
như thay đổi một ngày 12 lần về hơi thở qua mũi . Như thế , nương vào sự tương
đồng giữa những chu kỳ vận hành bên trong và bên ngoài ; Đã được hệ thống
Kalachakra lặp lại trong những kỹ thuật thực hành .
Anuttara
YogaTrích
chương 14
Anuttara Yoga Hành Trình Không Kết Thúc
Trungpa
( Dùng để tham khảo và bổ túc vào tài liệu Kalachakra )
Anuttara Yoga Hành Trình Không Kết Thúc
Trungpa
( Dùng để tham khảo và bổ túc vào tài liệu Kalachakra )
Để giới thiệu dòng Prana ,
chúng ta có thể dùng ẩn dụ con ngựa đi tìm kỵ mã .
Như thế cần có một con ngựa tốt , khéo được vỗ béo và mạnh mẽ .
Ẩn dụ này không dùng để ám chỉ tốc độ chạy của con ngựa .
Có thể nói đúng hơn là nhấn mạnh về sự bền bỉ
và sức mạnh của năng lượng .
chúng ta có thể dùng ẩn dụ con ngựa đi tìm kỵ mã .
Như thế cần có một con ngựa tốt , khéo được vỗ béo và mạnh mẽ .
Ẩn dụ này không dùng để ám chỉ tốc độ chạy của con ngựa .
Có thể nói đúng hơn là nhấn mạnh về sự bền bỉ
và sức mạnh của năng lượng .
Một lần nữa ,
chúng ta đồng ý đi sâu vào quan hệ với thế giới đã cung ứng tất cả chất liệu sẵn
có . Một xa lộ rộng lớn đã được dọn sạch , một siêu thị lớn với những trung tâm
thương mại miễn phí được xây dựng ; và cung cấp đầy đủ những gì chúng ta mong
muốn .
Bây giờ đã sẵn có
dạng thức của năng lượng và sơ đồ về những cấu trúc . Với dòng Prana là con ngựa đang tung tăng . Hiện thân của năng lượng di chuyển trên
những đường rầy được dựng sẵn ; trong môi trường đã chuẩn bị chu đáo được gọi là
Nadi ( kinh mạch tế nhị hay ánh
sáng ) .
Sau đó , chúng ta
có : Bindu - Người kỵ mã Prana . Bindu chính là dạng thức rõ biết riêng biệt . Thiên hướng tâm thức muốn học
hỏi , cố khai phá hay thường thiết lập trật tự vũ trụ được gọi là : Sem ( Sems )
từ ngữ Tây tạng .
Sem
là : “
Sự phản hồi từ những điểm tham khảo ” .
Dạng thức tâm thức này
bằng lòng về sự xem xét và quan sát những lãnh vực năng lượng . Đơn giản Sem chỉ
phản ứng từ những điểm tham khảo ; Bindu là phẩm chất tâm thức dùng để thiết lập
quan hệ trực nhận về chuyến du hành . Và con ngựa chúng ta cởi là phương tiện
để chuyển hóa .
Nhưng không thể
nói : Con ngựa thực hiện chuyến du hành , nó chỉ chuyển động . Chính người kỵ mã
sẽ thực hiện chuyến du hành vì là chủ nhân của con ngựa . Chủ nhân sẽ nhìn bên
trái , phải , trứớc , sau và thưởng thức toàn cảnh . Người kỵ mã này chính là
Bindu . Hay đơn giản có thể gọi là : « Sự rõ biết toàn diện »
.
Như vậy , sự rõ
biết hay Bindu thể hiện chuyến du hành bằng những năng
lượng sẵn có trong vũ trụ . Sự rõ biết chính là phẩm chất tỉnh thức đã loại trừ
nhu cầu về những điểm mốc tức thời ; và tầm nhìn nó rất rộng lớn như
radar ( toàn diện ) .
Nó loại trừ nhu
cầu về những điểm mốc một cách tức thời . Đài radar này được lồng vào dạng hỗ
trợ cơ khí là tâm thức thực tiển hay Sem và tất cả
cầu nối vào con đường rầy bằng bánh xe - dòng Prana .
Nói cách khác , chúng
ta sẵn có hệ thống Radar dựng trên dàn có bánh xe để lướt trên đường rầy .
Hệ thống này mang tên Bindu với hỗ trợ là Sem có bánh xe là dòng Prana và con
đường rầy là Nadi . Ở đây , Bindu - hệ thống radar điểu khiển toàn diện chuyến
du hành và : “ Tất cả quá trình được đặt nền tảng trên năng lượng ”
.
Nhờ vào chúng ,
chúng ta có thể lên đường . Như thế , từ điểm cao nhất của Anuttara
Yoga , chúng ta bắt đầu
vượt qua chuyến du hành . Nhưng sẽ đi xa hơn việc sử dụng ba dạng thức năng
lượng ( Nadi , Prana và Bindu ) .
Chúng ta cần tiến xa hơn nữa . Vượt qua sự rõ biết , tâm thức và phải trải nghiệm hoàn toàn độc vị . Có nghĩa bắt đầu bành trướng và để cho sự rộng mở lớn hơn xuất hiện . Giống như đoá hoa sen bí mật đã nở và chúng ta không còn cảm nhận về chuyến du hành nữa . Vì thế trong Anuttara Yoga , và chử ký tắt Evam chính là biểu tượng về sự chuyển động rộng mở thật to lớn này .
Chúng ta cần tiến xa hơn nữa . Vượt qua sự rõ biết , tâm thức và phải trải nghiệm hoàn toàn độc vị . Có nghĩa bắt đầu bành trướng và để cho sự rộng mở lớn hơn xuất hiện . Giống như đoá hoa sen bí mật đã nở và chúng ta không còn cảm nhận về chuyến du hành nữa . Vì thế trong Anuttara Yoga , và chử ký tắt Evam chính là biểu tượng về sự chuyển động rộng mở thật to lớn này .
Tonysham05 :
Tino giảng thêm về 4 trình độ
thần diệu trong Mật tông :
1)
Sự tập trung vào một điểm duy nhất.
2-
Tính đơn giản
3-
Hương vị độc nhất
4-
Không-thiền định ?
Sự tập trung vào một điểm duy nhất.
2-
Tính đơn giản
3-
Hương vị độc nhất
4-
Không-thiền định ?
karunasham:
1-
tập trung vào chuyển hóa .
2-
Nhìn thẳng vào vấn đề không diễn giải .
3-
Chỉ một vị là hỉ lạc .
4-
Không cần thiền định mà vẫn hỉ lạc .
1-
tập trung vào chuyển hóa .
2-
Nhìn thẳng vào vấn đề không diễn giải .
3-
Chỉ một vị là hỉ lạc .
4-
Không cần thiền định mà vẫn hỉ lạc .
Đồng thời
, chương II nhắc đến dạng thức riêng biệt của giọt sáng ( Bindu )
với tính đặc trưng là thu hút năng lượng của tâm thức sống động
( Bodhichitta Phạn ngữ và Bla Tạng ngữ = Bồ đề tâm )
như nam châm hút mạt sắt .
với tính đặc trưng là thu hút năng lượng của tâm thức sống động
( Bodhichitta Phạn ngữ và Bla Tạng ngữ = Bồ đề tâm )
như nam châm hút mạt sắt .
Năng lượng này cho
phép giử gìn tâm thức ở trạng thái ổn định . Nếu chúng ta loại trừ tâm thức sống
động sẽ kéo theo sự loạn năng như : Trầm uất hay cuồng tâm . Vì thế , giọt tâm
thức sống động ( Bodhichitta ) bao gồm những tiềm năng cao nhất của dạng thức năng lượng
.
Nó di chuyển trong
thân thể đi một vòng trong 30 ngày . Tương ưng với chu kỳ mặt trăng theo quan
kiến của Tây tạng . Vào ngày trăng rằm , nó nằm ngay đỉnh đầu . Vào những tuần
trăng tối , nó chuyển xuống ở phân nữa thân ; và vào lúc tuần trăng sáng nó
chuyển lên ở nữa thân còn lại .
Chu kỳ tâm thức
sống rất quen thuộc trong y học Tây tạng và Mông cổ . Đúng vào thời gian và hoàn
cảnh cho phép . Y sĩ dựa vào để xác định ngày tốt với những trị liệu chính xác .
Chẳng hạn như điều trị phong thấp khớp bằng ngải cứu . . .
Tương tự , nhà
phẩu thuật cũng chọn chu kỳ trăng khi năng lượng của tâm thức sống tập trung cao
nhất phù hợp giải phẩu để bệnh nhân phục hồi sức lực nhanh chóng nhất . Có lẽ đó
là lý do những chu kỳ năng lượng tâm thức sống động trùng với những chu kỳ của
hệ thống miễn nhiễm .
Thật sự chúng ta
chẳng biết nhiều về ảnh hưởng của mặt trăng và thủy triều . Nhưng sự trùng hợp
mạnh nhất luôn trùng hợp với những ngày trăng tròn . Vậy giả định hành tinh này
tác động ảnh hưởng vào năng lượng tế nhị của thân vật lý ; theo chu kỳ vận hành
lên hay xuống theo chu kỳ thủy triều .
Đồng thời chu kỳ
tâm thức-sống động cho phép hiểu thêm vài điểm trong giáo huấn Phật học và không
thể có giải thích nào khác hơn . Trong những bản văn khuyên chúng ta không nên quan hệ tính dục vào
lúc trăng rằm . Có nghĩa lúc giọt tế nhị của tâm thức sống động được tích lủy và
nằm ngay đỉnh đầu .
Vì những điều kiện
được hội tụ đầy đủ để chuyển hóa những cơn gió năng lượng bên trong kinh mạch
trung ương . Giả sử khi niềm cực khoái phân tán những giọt sáng , trong đó có
tâm thức-sống động . Đó là cơ hội tốt nhất để hòa tan những cơn gió năng lượng
vào kinh mạch trung ương đi vào tâm thức tỉnh thức .
Vào những ngày rằm ,
năng lượng tâm thức-sống động rất mạnh ở đỉnh đầu . Điểm mấu chốt của tập họp
thân ánh sáng . Đồng thời nó có thể giải thích về sự căng thẳng mà người nhạy
cảm thường đau đớn vào thời gian này .
Nói chung những
chu kỳ của vận hành bên trong có ảnh hưởng rất đến trạng thái sức khoẻ . Trong
bình luận Mật tông
Kalachakra , đức
Karmapa thứ III ( thế kỷ XIV
) giải thích phương cách
vì lầm lẫn bám chấp vào hiện thực sẽ dẫn đến những thái độ như thuốc độc như :
Giận dữ , cứng đầu hay ngu
xuẩn .
Những thái độ này
là nguồn gốc của những căn bệnh . Vì nó sẽ cắt đứt sự cân bằng 3 hệ thống sinh
lý riêng biệt tương ưng , được biết dưới thuật ngữ : Gió , mật và đờm dãi
. Như thế , thực hành
Kalachakra là loại trừ sự lầm lẫn và vô minh là nguồn
gôc những vấn đề thuộc về tâm lý và những rối loạn sinh lý .
Và những kỹ thuật
thiền định được đề nghị từ Mật tông có đặc tính tái cân bằng năng lượng tâm lý .
Đồng thời dẫn đến việc làm thân vật lý trở về sự lành mạnh .
Tương tự những
giáo huấn Kalachakra bên ngoài , cung cấp những đường nét thật chuẩn để thiết lập nền tảng
hòa bình thế giới , và những gì tương ưng với sức khoẻ tâm lý và vật lý theo hệ
thống Kalachakra bên
trong , sẽ cống hiến cho
chúng ta phương tiện vững chắc đi vào sự bình lặng của tâm thức sáng tỏ rõ biết
.
Chủ đề chủ yếu cuối cùng của chương II là pháp
chuyển hóa .
Có nghĩa chuyển hóa những thực thể thô xấu thành cao quý ,
để làm lợi ích cho muôn loài .
Trước tiên, chương này giới thiệu những công thức
làm nhang , khử trùng , chăm sóc y học và nghi thức cúng dường .
Có nghĩa chuyển hóa những thực thể thô xấu thành cao quý ,
để làm lợi ích cho muôn loài .
Trước tiên, chương này giới thiệu những công thức
làm nhang , khử trùng , chăm sóc y học và nghi thức cúng dường .
Đồng thời giải
thích về chuyển hoá những kim loại yếu không phải vàng bằng những dược liệu . Về
vấn đề này , văn bản cung cấp những giải thích về sự tịnh hóa thủy ngân . Thủy ngân được tịnh
hóa là vị chính tạo thành những “ Viên thuốc quí ”
trong dược phẫm Tây tạng
.
Những chu kỳ vận
hành bên trong đồng thời kéo theo những căn bệnh , phần lớn là hậu quả của ô
nhiễm của chất hóa học , rác nguyên tử . . . Có hai căn bệnh được giới thiệu
điển hình như bệnh ung thư và sida . Thủy ngân thuần khiết
có đặc tính tẩy độc thân vật
lý và phục hồi toàn thể những hệ thống vận hành .
Những y sĩ Tây
tạng sử dụng những viên thuốc quí ; được chuẩn bị từ những công thức căn bản của
Mật tông
Kalachakra đề nghị , và đã
thành công với một số nạn nhân bị ô nhiểm hóa học xảy ra ở Bhopal Ấn độ .
Cũng như nhiều người bị nhiệm phóng xạ sau tai họa nguyên tử ở Tchernobyl . Đồng thời họ
cũng kéo dài cuộc sống của một số ngươì bị ung thư và bị sida .
Song song với quá
trình chuyển hóa . Những chu kỳ vận hành khác giới thiệu những phương pháp của
Anuttara Yoga Tantra ; để chuyển hóa những cơn gió năng lượng phát sinh từ những
cảm xúc nhiễu loạn như : Ám ảnh tính dục trở thành sự tiến bộ tâm linh
.
Sự chủ động năng lượng
tương ưng với từng cảm xúc cho phép hòa tan dễ dàng những cơn gió năng lượng
thật đặc biệt . Rất khó dẫn vào kinh mạch năng lượng trung ương bằng phương cách
bí mật và những phương cách tối bí mật .
Năng lượng chuyển hóa
tính dục tác động như một liều thuốc quí báu . Theo chiều hướng đóng góp để dẫn
hành giả đi vào tâm thức tỉnh thức . Và cho phép sử dụng sự rõ biết sâu sắc của
niềm nội hỉ được gặt hái bằng tập trung vào tính không .
Làm nổi bật và sử
dụng sự rõ biết niềm nội hỉ trong lãnh hội tính không là chủ đề mấu chốt thứ hai
. Không
ngừng tiếp diễn trong sự trao truyền quyền năng Kalachakra và thiền định sau đó
. Đây là một vài hiểu biết sơ lược về những chu kỳ vận hành bên trong cho phép
hiểu rõ những khía cạnh sinh lý mà chúng bao trùm .HET=OM MANI PADME HUM.( 3 LAN ).GESHE TASHI TSERING.( MHDT ).14/4/2012.
No comments:
Post a Comment