Friday, 13 April 2012

II- Thoáng nhìn về hệ thống Kalachakra .
 
 
 

 
Kalachakra có thể được xem là chu kỳ thời gian .
Hệ thống Kalachakra bao gồm 3 chu kỳ :

Sự vận hành bên ngoài .
Sự vận hành bên trong .
Sự vận hành khác .
Hai dạng thức dầu tiên bao gồm thời gian thuộc niên đại và thời gian khác thực thể là những thực hành giải thoát ra khỏi sự vận hành bên ngoài và bên trong . Sự vận hành bên ngoài và bên trong . Có thể được tiếp cận như những khái niệm vũ trụ vĩ mô và vi mô trong triết học Hy lạp .
Nói cách khác , những định luật vận hành vũ trụ có giá trị với thân vật lý của con người  . Còn những thực hành về những vận hành khác được xây dựng khi chúng ta bắt đầu lưu tâm đến cấu trúc nền tảng và có thể đương đầu với những sức mạnh bên ngoài , bên trong và cuối cùng có thể chinh phục chúng . Sự giả cách này là một trong những nét khác biệt của đẳng cấp Anuttara Yoga Tantra .
Phật học định nghĩa sự vận hành là thước đo của vô thường . Thí dụ , lấy một tháng dùng đo lường những thay đổi đang can dự từ thế giới bên ngoài và thế giới bên trong . Ví dụ , có thể dùng để đo chu kỳ mặt trăng hay chu kỳ rụng trứng của người phụ nữ . Chu kỳ được hình thành bằng một tập họp những hiện tượng được lặp lại theo thứ tự định sẵn . Cho dù sự lặp lại này không dẫn từ chu kỳ này đến chu kỳ khác theo hình thức gống nhau .
Vũ trụ bị chi phối bởi những chu kỳ vận hành như thiên văn lịch sử . . . Trong khi thân vật lý bị những chu kỳ sinh học chi phối phát sinh liên quan đến những chu kỳ của tâm thức và cảm xúc .
Hơn nữa , như vũ trụ được hình thành và trải bày trong không gian bị co rút . Tự tan biến rồi tái lập . . . . Những cá nhân đến từ đời này sang đời khác theo cùng một sơ đồ như : Quan niệm , sự phát triển , trưởng thành , tuổi già rồi đến cái chết .
Thông thường , sự vận hành phát sinh tính chất tự hao mòn . Sau một số năm sự bén nhạy giác quan xuống dốc một cách thãm hại . Kể cả những chức năng trí nhớ và sức mạnh vật lý . Điều này kéo theo cái chết thân vật lý trong thời hạn nào đó .
Tiếp theo ; vì muốn kiên trì với sự đồng nhất . Điều này sẽ duy trì sự lầm lẫn trong tâm thức là : Chúng ta trở lại không ngừng với thân vật lý thô thiển . Không thể kiểm soát quá trình kết thúc và những tái sinh liên tục trong mọi hoàn cảnh . Điều này vẫn tiếp diễn cho mỗi lần ra đời . Và chúng ta mãi học lại  những gì đã học trong những đầu thai trước .
Khi một cuộc sống được trải bày theo sự vận hành . Những dấu ấn nghiệp lực để lại bằng những hành động đã được khai triển . Cuối cùng kết tinh dưới dạng trải nghiệm tương ưng vào thời gian thích hợp . Có nghĩa quan hệ với những điều kiện vận hành của vũ trụ và lịch sử .
Những trải nghiệm này đôi khi thật dễ chịu . Nhưng đa phần thì cực kỳ khó chịu . Nói cho cùng chúng ta có ảnh hưởng rất ít với những gì sẽ diễn ra trong những cuộc sống nối tiếp . Nói tóm lại , chu kỳ thời gian bên ngoài và bên trong hình thành những gì mà Phật học gọi là Samsara .
Những tái sinh tuần hoàn không thể kiểm soát những vấn đề chất đống đầy rẫy khó khăn . Những tái sinh xuất phát từ những xung động ; hệ thống Kalachakra gọi là : « Những cơn gió nghiệp » ; dính liền mật thiết với tâm thức con người . Xuất phát từ trạng thái lầm lẫn liên quan đến bản chất của hiện thực .
Mãi tự thuyết phục mình là hiện thực tương ứng với trực nhận của tâm thức bình thường . Làm ngộ nhận đã sẵn có sự đồng nhất nội tại , bền vững và thường trực . Như thế phản ứng của chúng ta là cứ bám víu vào dạng thức bướng bĩnh . Thật đáng chế nhạo .
Vì ngộ nhận về chính mình , chúng ta phóng chiếu lên người khác và lên thế giới . Điều này làm phát sinh những tư tưởng như sau : « Thật sự tôi là thế này » ; « Đối tượng này hay người nào đó thế này hay thế khác » ; « Tôi cần phải tự thích nghi với những vấn đề trong cuộc sống ( nguồn gốc khoái lạc ) hay từ khước ( nguồn gốc những phiền toái ) » .
Mọi hành động cho dù thuộc về vật lý , ngôn ngữ hay tâm thức . Đều được thiết lập trên mô hình tư tưởng hoàn toàn lầm lẫn và cứng ngắt ; chỉ có thể làm nãy sinh những tiềm năng và thái độ của nghiệp lực .
Sự vận hành bị ảnh hưởng tác động của hoàn cảnh thích nghi . Đồng thời những tiềm năng và được gọi là : « Hạt giống của nghiệp lực » ; trưởng thành dưới dạng thức xung động buộc chúng ta lặp đi lặp lại những hành động tương tự .
(  Xung động = Mô phỏng những kinh nghiệm rung động cảm giác của thân vật lý ) .
Khía cạnh xung động của thái độ con người rất dễ dàng kiểm chứng . Chỉ cần quan sát cuộc sống cá nhân  hay những hiện tượng thế giới . Chúng ta có thể trực nhận một cách dễ dàng .
Biết bao người đàn ông hay đàn bà không hề cùng đi từ hôn nhân này đến hôn nhân khác với những ảnh hưởng ràng buộc bên trong . Mỗi khi lặp lại cùng một sai lầm ? . Nhiều nước không cùng cảnh ngộ ; cùng rơi vào cuộc khủng hoảng này đến khủng hoảng khác ? . ( Cứ như thế mà lao vào như những con thiêu thân ) .
Thật ra những tiềm năng nghiệp lực phát sinh một loạt những xung động . Nghiệp lực cộng đồng tiếp nối với những phạm phải từ trước . Từ một số rất nhiều người ; bao gồm cả chúng ta . Phát sinh những xung động đặc trưng nguyên thủy của vũ trụ ; liên hệ với những hình thức cuộc sống chúng ta và những người được sinh ra .
Đồng thời , những tiềm năng nghiệp lực cộng đồng phát sinh xung động quyết định bởi định luật vật lý và sinh học của vũ trụ . Nhất là những vấn đề thuộc về điều kiện thời tiết ở những hành tinh khác biệt .
Cho đến những chu kỳ những dạng thức sống khác nhau được khai sinh . Tương tự, tiềm năng nghiệp lực giải thích những xung động bắt nguồn từ thái độ của từng hình thức một trong cuộc sống này .
Tương tự , tiềm năng nghiệp lực cá nhân nguyên thủy quyết định phát sinh xung động cho sự tái sinh một người với thân vật lý trong môi trường riêng biệt . Điều này ở giây phút chính xác của chu kỳ bên trong sau cái chết . ( Chu kỳ bên trong = sự vận hành của thân vật lý phù hợp với mỗi người ) .
Sự xung động này bắt buộc dính liền với sự tiến hóa của vũ trụ bên ngoài . Ngay giây phút hình thành luân hồi . Vì thế không thể tái sinh thành con khủng long ở thời kỳ đặc biệt của cuộc sống đã qua ; trong một môi trường cần thiết - Khu rừng nguyên sinh .
Đồng thời , tất cả những yếu tố dính liền với nghiệp lực hình thành với sự sản sinh « chỗ tập họp » . Chúng ta trải nghiệm sự trưởng thành những tiềm năng nghiệp lực xuất phát từ những kiếp trước , Dưới hình thức – « Lại một lần nữa » trong thái độ bị cưỡng bức .
Như vậy , nếu quốc gia nơi chúng ta sẽ tái sinh có những cuộc chiến lâu dài . Tự động chúng ta trở thành những những người lính . Chúng ta sẽ dội bom những làng địch và có thể bị chết trong một trận chiến nào đó . Như thế , những chu kỳ bên ngoài và bên trong hòa quyện vào nhau một cách rất phức tạp .
Tóm lại , sự vận hành không có bắt đầu và kết thúc . Đặc trưng của nó là vô thường , Hình thành những gì mà người ta gọi là độ dài lâu . Sinh ra và biến đi trong vũ trụ trọn vẹn những nền tảng văn minh và mọi dạng thức sinh hoạt trong cuộc sống .
Hình thức vũ trụ hay nền văn minh , tùy thuộc vào những hành động bao gồm tư tưởng của những con người đã sống trước đây . Đây là những giải thích sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa thân và tâm và môi trường của từng con người .
Như người nào đó , sinh ra dưới hình thức loài cá để biết những biến cố đang diễn tiến trong thành phần nước hay dưới hình thức con người để biết sự diễn tiến trong thành phần không khí . . .
Những hình tướng trong cuộc sống đều làm mồi cho sự lầm lẫn của thân , tâm và môi trường riêng của kết quả nghiệp đời trước . Thậm chí họ bị những thái độ xung động có hại chèn ép , làm giảm thiểu phần lớn khả năng có lợi cho họ và người vẫn không thể thay đổi . Như những cư dân chịu sự kinh hoàng của những trận dịch trong những thế kỷ qua . Chúng ta hoàn toàn bất lực , cho dù muốn thay đổi bất cứ điều gì mang số phận buồn thảm của họ .
tonysham05:
Tino cụ thể thêm về sự vận hành bên ngoài và bên trong ?.
karunasham:
Sự vận hành của tư tưởng ( bên trong ) của vũ trụ ( bên ngoài ) .
tonysham05:
Hiện tượng và hiện lượng ?
karunasham:
Vận hành của hiện tượng và hiện lượng
tonysham05:
Là mấu chốt Kalachakra ?
karunasham:
Tất cả là từ chổ này - Nghiệp lực.
Hiện lượng phóng xuất cái gì –
Hiện tượng sẽ hình thành cái đó .
tonysham05:
Làm thế nào để khỏi bị nghiệp lực dẩn đi ?
karunasham:
Chuyển hóa .
2 - Giải thoát  Vận Hành Bên Ngoài & Bên Trong

Như đã nói ở trên ,
Những chu kỳ vận hành khác có thực thể là những thực hành thiền định
thuộc về đẳng cấp Anuttara Yoga Tantra .
Dù vậy ; không thể đơn giản
xem chúng như sự luân chuyển của thời gian bên ngoài và bên trong .
Vì mục tiêu chúng là giải thoát chúng ta ra khỏi sự kềm tỏa . Nhưng sự giải thoát cá nhân của thời gian không có nghĩa sự vận hành không hiện hữu hay chúng ta không thể sống có ích cho những người bên ngoài .
Sự vận hành dùng để khẳng định vô thường , đồng thời dùng để đo lường hành động chư Phật trên thế giới . Sự giải thoát đối với sự vận hành bên ngoài và bên trong . Cần được hiểu như sự chiến thắng tâm thức lầm lẫn và những xung động nghiệp lực chúng ta chịu đựng . Với những tác hại do thời gian bên ngoài bên trong thao tác .
Một khi giải thoát khỏi những chu kỳ này . Chúng ta không còn bị những hoàn cảnh đối địch của hiện hữu chi phối như : Những đêm đông lạnh gía kéo dài ,  thiên thực , những cuộc chiến . . . ( Thiên thực = sự biến mất tạm thời hoặc toàn phần như mặt trời hay mặt trăng ) .
Tương tự , chúng ta không còn chịu đựng những hạn chế nội tại trong thân vật chất . Cũng như những ảnh hưởng của chu kỳ sinh học : Nạn đói , ham muốn tính dục , sự mệt mỏi , già cỗi . . . Sự lãnh hội đầy đủ về hiện thực . Giúp chúng ta có khả năng phục hồi những hình thức tốt nhất cho mọi người ; vượt ra ngoài những giới hạn thông thường do thời gian áp đặt .
Quá trình giải thoát thời gian thông thường khởi đầu bằng lễ Khai tâm Kalachakra . Với sự truyền trao quyền năng về Kalachakra . Chúng ta có được tất cả những yếu tố để dấn thân vào thực hành Mật tông . Cũng như thiền định ở giai đoạn sáng tạo , tiếp theo là giai đoạn thành tựu liên quan đến đức Phật dưới tên Kalachakra .
Giai đoạn sáng tạo cho chúng ta đi vào tâm thức rất tế nhị . Trong khi giai đoạn thành tựu cho phép chúng ta sử dụng tâm thức rất tế nhị để phân biệt hiện thực . Khi tâm thức rất tế nhị tập trung vào hiện thực không chút chểnh mảng ; sẽ loại trừ những lầm lẫn và bản năng đặc trưng .
Như vậy chúng ta sẽ đồng thời cùng giải thoát khỏi sự ràng buộc của thời gian bên ngoài và thời gian bên trong . Điều này rất có thể . Vì trong căn bản Mật tông , tâm thức ánh sáng sáng tỏ hiện diện từng giây phút trong cuộc sống như sự vận hành ; không có khởi đầu hay kết thúc .
Khi tâm thức rất tế nhị giải thoát khỏi nguyên nhân đầu tiên của những xung động . Nối tiếp với sự vận hành bên ngoài và thời gian bên trong . Nó không còn là nô lệ làm cho những xung động nẩy sinh . Nó tác động ngược lại , để cho những thân chư Phật khác biệt gọi là Kalachakra có môi trường xuất hiện .
3 - Sự lan rộng Kalachakra

Để có thể quyết định tham gia vào nghi lễ khai tâm .
Đồng thời nên hiểu biết tối thiểu về nguồn gốc ;
cũng như lịch sử phát triển những giáo huấn Kalachakra .
Như vậy chúng ta sẽ nhận ra những kỹ thuật
đã được minh chứng và đã thể hiện hữu hiệu suốt nhiều thế kỷ .
Theo truyền thống , đức Phật Shakyamuni dạy Mật tông Kalachakra đã hơn 2800 năm ở miền Nam Ấn độ ; bây giờ là nước Andra Pradesh . Trong số những người hiện diện . Cao nhất có vua những đất miền Bắc của Shambala và 97 bộ trưởng . Sau đó những giáo huấn được bảo tồn ở kinh đô Shambala .
Ở thế kỷ thứ X , hai vị thầy Ấn độ đã đến kinh đô Shambala bằng hai lộ trình khác nhau . Suốt chuyến du hành , mỗi người có một linh kiến riêng về miền đất này và đã đón nhận sự trao truyền đầy đủ về quyền năng Kalachakra . Cũng như toàn thể những giáo huấn . Sau đó phát triển ở Ấn độ theo những trình bày gần như giống nhau . Kalachakra là một trong những hệ thống Mật tông cuối cùng đã vượt trội trong lịch sử và nổi tiếng rất nhanh .
Trước tiên trong những tu viện đại học đồng bằng sông Hằng , sau đó ở Cachemire . Từ đây phát sinh 4 đường lối thực hành . Những vị thầy ở Ấn độ và ở Cachemire cũng dạy Mật tông Kalachakra ở miền bắc Birmanie , Mã Lai và Nam Dương . Nhưng những giáo huấn này đã biến mất từ những miền này vào thế kỷ XIV .
Cuối cùng , những vị thầy Ấn độ trao truyền Mật tông Kalachakra vào Tây tạng với sự dịch thuật của các dịch giả địa phương . Giữa thế kỷ XI và XIII , ba dòng chính trao truyền được hình thành . Mỗi dòng dạy tư liệu gốc khác nhau với bốn phiên bản Ấn độ . Nhưng đã có những tiểu dị do dịch thuật những văn bản tiếng Tây tạng .
Trong những dòng này , vẫn giữ lại phần nào đó sự kết hợp ba dòng nguyên thủy chính . Hơn nữa được duy trì cho đến thời đại chúng ta trong những trường phái Sakyapa , Kagyupa và Guélugpa .
Vì những người thuộc dòng Nyingma chỉ dựa những giáo huấn trên những văn bản Ấn độ đã được du nhập vào Tây tạng và được dịch trước đầu thế kỷ IX  . Nơi không tồn tại ở dòng truyền thừa trực tiếp Kalachakra .
Dù vậy , sau đó vài vị thầy Nyingma đã đón nhận lễ khai tâm Kalachakra từ những vị thầy ở những dòng khác . Đặc biệt là dòng Rimé hay phong trào không môn phái phát sinh ở thế kỷ XIX . Cũng như những bình luận của tất cả những khía cạnh giáo huấn . Hơn nữa có sự biến dạng của hệ thống Kalachakra gọi là Dzogchen hay thực hành Đại toàn thiện . Và nhờ vào những người phái Gélugpa , hệ thống Kalachakra đã có tầm vóc quan trọng hơn .
Việc nghiên cứu , thực hành và những nghi thức Kalachakra . Trước tiên được đón nhận sự chú ý thật đặc biệt ở thế kỷ XV ở Tashilhunpo ( Trung tây tạng ) , tu viện của những Đạt lai lạt ma , sau đó trở thành những Panchenlama .
Gữa thế kỷ XVII , giáo huấn lan rộng trong vùng người Mãn châu gọi là “ Nội Mông , nơi được dựng tu viện đầu tiên dành riêng cho Kalachakra . Giữa thế kỷ XVIII , có những trường Kalachakra ở cung đình Bắc Kinh , ở Tashilhunpo miền Amdo ( Đông bắc Tây tạng ) và vùng gọi là “ Ngoại Mông ” .
Suốt thế kỷ XIX , người Tây tạng và Mông cổ đã truyền trao hệ thống Kalachakra cho người Bouriate ( Mông cổ Tây bá lợi á ) . Đến phiên họ , đầu thế kỷ XX họ trao truyền cho người Kalmouk ( Mông cổ miền Volga ) và cho những người Touva ( Thổ - Mông cổ Tây bá lợi á ) . Trong những vùng người Mông cổ đã tràn ngập . Cũng như Amdo , những chi nhánh bao la những tu viện lớn được dành riêng cho thực hành Kalachakra .

Sự nồng nhiệt của những người Mông cổ và người Tây tạng ở
Amdo đã làm pháp Kalachakra có thể tự bắt nguồn và đồng hóa những quốc gia tương ưng với những vùng huyền thoại Shambala .
Hơn một thế kỷ , người Nga bắt đầu tin vào sự hiện hữu của những miền đất này . Tiếp theo những quan hệ họ đã có với những người Bouriate và những người Kalmouk . Chính như thế bà BlavatskyNicolas Roerich mang đến cho Shambala vai trò chủ yếu trong phong trào huyền bí học họ sáng tạo ra như hội Thông thiên học và Agni Yoga .
Tương tự , Agvan Dordjé . Sứ giả người Bouriat của Đạt lai lạt ma thứ XIII ở triều đình Nga hoàng ; đã thành công trong việc thuyết phục Nicolas II xây dựng ở Saint - Pétesbourg một ngôi đền vinh danh Kalachakra . Sau khi giải thích những quan hệ giữa Nga và kinh đô Shambala .
Đồng thời Kalachakra đón nhận sự chú ý thật đặc biệt cho những học viện y học và chiêm tinh học của 4 trường phái Phật học Tây tạng ; ngay ở Tây tạng , Mông cổ và trong những vùng khác của Trung Á . Lý do quan tâm này đặt trên sự kiện dùng toán học để thiết lập lịch Tây tạng . Quyết định vị trí những hành tinh khác biệt trong suốt một năm .
Cũng như phần lớn chiêm tinh học Tây tạng và một phần không thể bỏ qua về sự hiểu biết y học Tây tạng , xuất phát từ những giáo huấn Kalachakra bên ngoài và bên trong . Lịch Mông Cổ cũng xuất phát từ những giáo huấn Kalachakra bên ngoài và bên trong . Kalachakra có thể được xem là « thánh tổ » của những khoa học này .
Có thể vài độc giả đặt những câu hỏi về bản chất những quan hệ kết hợp Kalachakra với Đức Đạt Lai Lạt Ma ; và tự hỏi vì những lý do nào ngài thường xuyên trao truyền nghi lễ khai tâm ? .
Với sự khiêm cung , ngài trả lời : « Thật sự không có bất cứ quan hệ đặc biệt nào giữa dòng truyền thừa của những Đạt lai lạt ma và Kalachakra . Nhưng những Đạt lai lạt ma thật sự được xem như những tái sinh của các vì vua Shambala » .
Dù gì những Đạt lai lạt ma thứ I , II , III và VIII cũng từng mang lại lợi ích rất lớn cho hệ thống Kalachakra . Đồng thời như trường hợp Tenzin Gyatso - Đức đạt lai lạt ma đương thời .
Từ đức đạt lai lạt ma thứ VII trước thế kỷ thứ XVIII . Nghi thức Karachakra và những thực hành thiền định đi kèm là những nghi thức đặc trưng của tu viện Namgyal - Tu viện của những đức Đại lai lạt ma .
Một Đại Lai Lạt ma có thể trao truyền quyền năng Kalachakra bao nhiêu lần khi ngài muốn . Không có luật lệ nào về vấn đề này cả . Cũng như không có gì có thể minh chứng hiện tượng bên ngoài những lễ khai tâm Kalachakra ; được tổ chức thường xuyên do đức Đạt lai lạt ma đương thời trao truyền . Đơn giản ngài chỉ nói : « Thật sung sướng khi tôi thể hiện nghi thức khai tâm Kalachakra ; khi được yêu cầu khi hoàn cảnh thuận tiện » .
Từ năm 1970 , ngài đã trao truyển quyền năng Kalachakra ở nhiều nơi khác nhau ở Ấn độ . Cũng như ở Bắc Mỹ , Âu châu , Mông cổ và Úc châu . Những vị thầy lớn của bốn trường phái phật học Tây tạng cũng thường xuyên trao truyền nghi thức này . Dù ở dòng nào và do vị thầy nào . Điều quan trọng vẫn là phẫm chất của quyền năng trao truyền được phát xuất từ vị thầy chân chính .
Người ta thường nghe sự trao truyền quyền năng Kalachakra với mục tiêu tái lập nền hòa bình trên thế giới . Và cũng nhờ sự kết hợp này ; có rất nhiều người yêu thích Mật tông Kalachakra hơn những hệ thống khác của đẳng cấp Anuttara Yoga . Nhưng lý do được đặt ra thực sự là nền tảng chăng ? . Và tại sao những trao truyền Kalachakra được ban cho những cử tọa vô cùng rộng lớn này ? .
Những lễ khai tâm của những hệ thống Mật tông khác chỉ dành riêng cho những nhóm nhỏ học trò . Đức Phật Shakyamouni đã trao truyền cho vua Shambala và 97 bộ trưởng . Và khi đã đến lúc một trong những hậu duệ truyền trao cho toàn thể dân chúng Shambala .
Vì họa xâm chiếm đe dọa kinh đô và cần có sự đoàn kết của dân chúng để ngăn chận sự hủy diệt . Vì những hoàn cảnh này , đồng thời chúng ta cần tìm sự kết hợp giữa lễ khai tâm Kalachakra và hòa bình thế giới bằng tập quán trao truyền cho cử tọa rộng lớn .
Tantra Kalachkra nói rõ : « Thỉnh thoảng những bộ lạc du mục hoang dã tràn ngập thế giới văn minh với dự ý hủy diệt mọi khả năng thực hành tâm linh » . Và lần xâm chiếm tiếp theo được dự tính vào năm 2424 trong thế kỷ đương thời . Điều này đã nói rõ , sẽ khơi mào cho một cuộc chiến mới của trái đất .
Vậy Shambala sẽ xuất hiện hỗ trợ ngăn chân và vô hiệu hóa quân mọi rợ . Sau cuộc chiến thắng này , sẽ nẩy sinh kỷ nguyên hoàng kim mới . Nơi tất cả những điều kiện hoàn hảo để hội tụ phục hồi và tái tân những thực hành tâm linh . Đặc biệt là Mật tông Kalachakra . Những ai đã đón nhận lễ khai tâm Kalachakra trong những thế kỷ trước sẽ tái sinh vào thời kỳ này và nắm phần chủ động để truyền trao .
Để đón nhận trao truyền quyền năng Kalachakra , động năng tối ưu chúng ta cần có là thực hành những phương pháp thuộc về Mật tông để đạt đến tỉnh thức ngày cuộc sống này .
Nhưng vẫn có nhiều người lao đến những nơi thể hiện những lễ khai tâm với ý định mong muốn được gieo những hạt giống nghiệp lực dính liền với thời đại hoàng kim tương lai ; cho phép họ toàn thiện ngay từ giây phút này ! .
( Có nghĩa  muốn nhờ vào lễ khai tâm là đắc pháp ) . 
Trong chiều hướng Shambala đóng vai trò vượt trội trong hệ thống Kalachakra . Nhiều đôc giả cần đặt vấn đề hiện thực trong thế giới vật lý và hoàn cảnh địa lý . Huyền thoại Shangri-la do nhà văn James Hilton sáng tác diễn tả hình ảnh thiên đường vô hình trên trái đất . Chắc chắn từ nguồn gốc vương quốc « Shambala » bị làm méo mó .
Có thể hiện có hay không một « nơi » giống như Shambala ? . Nhưng điều chắc chắn không phải theo chiều hướng vật lý . Shambala không hề hiện hữu trên hành tinh này hay trên một thế giới xa xăm nào đó . Dù vậy vẫn có nghĩa là vương quốc của loài người . Nơi tất cả đồng lòng trong thực hành tâm linh . Đặc biệt là thực hành Mật tông Kalachakra .
Nhiều vị thầy đã viết những sách hướng dẫn về pháp thiền định bằng tiếng Phạn và Tây tạng , để giải thích vì sao lại cần theo . Để có thể đạt đến vương quốc Shambala .
Nhưng chuyến du hành họ diễn tả chỉ diễn đạt được một phần trong thế giới hiện tượng . Vì làm theo họ thì muốn có thể đạt đến miền đất này . Người du hành cần đọc hàng triệu chân ngôn và miệt mài với sự kiên nhẫn trong những thực hành tâm linh khác .
Nhưng chuyến du hành đến Shambala chủ yếu được nhìn như hình thức tâm linh . Lễ khai tâm Kalachakra không có chủ đích chuyên chở chúng ta đến một nơi thuộc về địa lý có tên là Shambala . Cũng như không thể giúp chúng ta tái sinh vào nơi này . Vì những thực hành đại thừa khác chỉ nhắm vào sự tỉnh thức chính mình vì lợi ích chúng sinh .
Nó chỉ gieo trong chúng ta những hạt giống cho phép đạt đến mục đích bằng thực hành và cống hiến phương cách loại trừ những chướng ngại thô lỗ nhất bên trong đã giam giữ và ngăn cách chúng ta với sự sáng tỏ rõ biết .
7- Chuẩn Bị Lễ Khai Tâm

Giả sử sự bạn thích thú với lễ khai tâm Kalachakra .
Do những thông tin góp nhặt trong những giáo huấn và lịch sử ;
kết hợp với hòa bình thế giới .
Bây giờ chỉ còn lại sự đánh giá .
Nếu thật sự đã sẵn sàng cho sự trao truyền quyền năng
và những thực hành sau đó .
Hay thích hợp hơn chỉ tham gia lễ khai tâm như quan sát viên .
Mặc dù có nhiều hiểu biết và ngưỡng mộ đặc biệt dành cho Mật tông .
Hàng trăm ngàn lễ lạy và đọc thuộc lòng những chân ngôn Vajrasattva trăm âm hay những thực hành đồng dạng khác . Chắc chắn phải có những hữu ích nào đó . Nhưng chuẩn bị chủ yếu là rèn luyện bạn trong hệ thống Lamrim - Những tập huấn tiệm tiến đặt nặng trên hạnh kiểm trên lời , những tư tưởng và những tình cảm có khả năng giúp tiến bộ trên con đường tỉnh thức .
Giai đoạn đầu tiên của Lamrim là hướng chúng ta nắm con đường sống một cách chắc chắn , lành mạnh và cực kỳ tích cực do Tam bảo ( Phật - Pháp - Tăng ) ; đối với những ai đã tiến bộ nhiều trên con đường này .
Thông thường con đường sống này được dịch với thuật ngữ « Quy y » . Đòi hỏi sự thực hành từ bên trong cho phép vượt qua và làm tốt những vấn đề . Nhất là những phẫm chất cần thiết để có thể hữu ích cho chúng sinh một cách trọn vẹn nhất .
Nắm bắt con đường sống này có nghĩa :
Chọn theo thái độ đặt nền tảng lãnh hội định luật nhân quả về hạnh kiểm và lòng xác tín nảy sinh . Để tránh đau khổ . Chúng ta thận trọng tránh những hành động hủy diệt . Để biết hạnh phúc , là làm hết khả năng để hành động trong tinh thần xây dựng và vun xới .
Sự chuẩn bị Mật tông nhằm phát triển ba thái độ tâm thức chính của con đường cũng như những quan kiến về cuộc sống : Sự từ khước , bồ đề tâm và lãnh hội về tính không . Sự từ khước ở đây có nghĩa : Chúng ta sẵn sàng từ khước những vấn đề và những nguyên nhân được quyết định bằng sự lòng kiên quyết ; và chắc chắn phải giải thoát khỏi những đau khổ mà chúng đã phát sinh .
Chẳng hạn . Để cảm nhận lòng oán hận cực độ cho sự cô độc và bất thỏa nguyện . Chúng ta cần khẳng định không chỉ từ khước quan hệ với những người có hại ; mà cũng vào những nét cá tính tiêu cực và ở hình ảnh đã có về chính mình - do sự lầm lẫn của tâm thức mang lại nhiều vấn đề trong quan hệ giữa con người .
Đạt được Bồ đề tâm có nghĩa hoàn toàn có trái tim quay về phía tỉnh thức . Với Bồ đề tâm , chúng ta quyết liệt vượt qua những khuyết điểm của mình và thực hiện những tiềm năng cho lợi ích chúng sinh .
Đây là những phẩm chất được hình thành với động cơ là tình thương và lòng từ . Nó cũng là tinh thần trách nhiệm đối với tất cả sự vồn vả chúng ta giúp đở họ . Khi nào có thể vượt qua những vấn đề riêng để thực hiện một hạnh phúc lâu dài . Và tính không đòi hỏi sự vắng bặt mọi huyễn hoặc về chủ đề lý lịch của chúng ta ( tự huyền thoại hóa ) .
Thông thường , chúng ta tin mình hiện hữu theo những mô hình không thể . Có thể nói hoàn toàn ngược lại với hiện thực . Lúc nào cũng duy trì những huyền hoặc tương đồng với những hiện tượng khác .

Chúng ta sáng tạo ra những hình ảnh huyền hoặc gần như tế nhị và phóng chiếu lên chính mình ; cùng với những sự việc và những người bên ngoài . Chẳng hạn , chúng ta tin mình là những kẻ thất bại từ khi lọt lòng . Vì bề ngoài thiếu khả năng thiết lập những quan hệ nhân sự thỏa đáng . Đồng thời cũng tin người khác hay những hoàn cảnh bên ngoài không phải là nguyên nhân khi những sự việc xấu đi .
Ở trình độ tế nhị hơn , chúng ta không ngừng bận rộn với « bản ngã » . Chúng ta hiểu một các vững chắc và e ngại : « Không được ai thương và tất cả mọi người đều có thể từ khước mình » .
Lầm lẫn huyền hoặc và hiện thực làm cho hành động có điểm khởi hành là quan kiến sai lầm về chính mình và sự thiếu tự tin do tự tạo trước khi xung đột phát sinh . Sự lo âu và vụng về đã sẵn sàng tạo điều kiện cho sự thất bại .
Như thế quan kiến về chính mình , không chỉ được xây dựng và cũng cố những phác thảo cho tiềm năng nghiệp lực để tạo ra những vấn đề quan hệ tương lai . Đồng thời cũng khởi động sự trưởng thành của những tiềm năng nghiêp lực trong hiện tại .
Vậy trước khi muốn dấn thân vào thực hành Mật tông . Chúng ta cần nắm bắt khía cạnh sai lầm về những phóng chiếu thô lỗ nhất của chính mình . Không ai sẵn có sự thất bại khi vừa lọt lòng mẹ và những quan hệ nhân sự không hề nhúng tay an bài một cách có hệ thống chỉ để làm chúng ta thất bại  .
Sự lãnh hội này đến từ phương cách đặc biệt là nhìn những sự việc với những gì mà Phật học gọi là : “ Cái nhìn chính xác từ tính không ” ( Không thiên vị ) . Do đích thân đức Phật giảng dạy trong những hệ thống triết lý nổi tiếng dưới tên là Chittamatra , Madhyamaka và Prasanguika .
Những hệ thống này đều tán thành theo nguyên lý : Tất cả những hiện tượng bao gồm cả chúng ta đều vắng bặt hiện hữu nội tại . Điều này trước tiên cần phân định với định nghĩa khái niệm về tính không cũng như trình độ tế nhị của nó về lòng xác tín và tự tin trong những phương pháp thuộc về Mật tông .
Đặc biệt là phương pháp của đẳng cấp không thể vượt qua của Anuttara Yoga - Đồng thời rất cần thiết cho thí sinh ở lễ khai tâm . Cần phải tin rằng những phương pháp này hoàn toàn thích nghi theo con đường tỉnh thức và chúng cũng hiệu quả nhất để dẫn chúng ta đi đến .
Những ai có được lòng xác tín và tin tưởng với ba thái độ của tâm thức nền tảng : Sự từ khước - Bồ đề tâm và Lãnh hội tính không . Cũng như đã tập huấn đầy đủ trong hệ thống Lamrim , sẽ được xem là “ Những chiếc bình thích hợp ” cho trao truyền quyền năng Kalachakra . Vậy mỗi người chúng ta nên tự xem xét mình đã có đủ tất cả những điều kiện tiên quyết này hay chưa .
tonysham05: Chiếc bình thích hợp ?
karunasham: Bình sạch và rỗng .
 
Thực ra , sự trao truyền quyền năng phải mất hai ngày ( đôi khi ba tháng ) .
Nhưng lúc nào cũng được chuẩn bị trước một ngày .
Trong những quá trình nguyên thủy ;
ấn tượng nhất là lễ qui y và nhận thệ nguyện Bồ tát đạo của Mật tông .
Nếu không , bạn không thể đón nhận quyền năng một cách hiệu quả . Nhưng , hãy nhớ : Tuy tham gia vào lễ khai tâm Kalachakra như quan sát viên ; đồng thời vẫn là một nguồn rất hữu ích bạn không thể bỏ qua .
Sự trao truyền quyền năng được đón nhận từ một nghi thức rất phức tạp với những mô phỏng bao trùm những hình thức đặc biệt . Thế rồi chúng ta đi sâu vào
Mandala Kalachakra ; nối tiếp một loạt những nghi thức tịnh hóa và cuộc sống tỉnh thức với sự kích hoạt những tiềm năng sẵn có .
Lễ khai tâm đáp ứng theo định luật nhân quả ; để hình thành sự thành công về thực hành về sau . Mandala Kalachakra là một dinh thự khổng lồ bốn tầng . Chứa đựng 722 hình ảnh và biểu tượng Phật nam nữ hòa hợp nằm ngay trung tâm .
Đời thời , vị thầy trao truyền quyền năng ,  xuất hiện dưới mọi khía cạnh của tất cả những hình ảnh này . Không riêng chỉ dưới khía cạnh nam nữ hòa hợp trong yếu tính Phật . Và cứ như thế , trong suốt thời gian lễ khai tâm . Chúng ta tự mô phỏng theo với tính cách cá nhân .
Đối với người truyền pháp và môi trường chung quanh cần mô phỏng một cách rất đặc biệt . Vì những giai đoạn khác nhau của lễ khai tâm rất phức tạp và đáng kể . Riêng về dạng thức mô phỏng , vẫn có thể làm lạc hướng một cách khủng khiếp đối với người sơ cơ .
Nếu bạn là dự thính viên tích cực . Có thể bạn tự mô phỏng mình là : « Chiếc bình thích hợp » . Có nghĩa bạn phát những loạt thệ nguyện khác biệt trong tâm thức và cảm nhận những mô phỏng đang thật sự xảy ra .
Thế là bạn đón nhận một cách hữu hiệu sự trao truyền quyền năng . Khi đã hình thành căn bản , sau đó sẽ thực hành tiếp tục với tâm trạng chân thành nhất trên con đường tỉnh thức được giảng giải trong nghi thức truyền trao Mật tông Kalachakra .HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH VA NI SU GESHE TASHI TSERING.14/4/2012.MHDT.

No comments:

Post a Comment