|
|
||||||
Kalachakra có thể được xem là chu kỳ
thời gian .
Hệ thống Kalachakra bao gồm 3 chu kỳ : Sự vận hành bên ngoài . Sự vận hành bên trong . Sự vận hành khác .
Hai dạng
thức dầu tiên bao gồm thời gian thuộc niên đại và thời gian khác thực thể
là những thực hành giải thoát ra khỏi sự vận hành bên ngoài và bên trong .
Sự vận hành bên ngoài và bên trong . Có thể được tiếp cận như những khái
niệm vũ trụ vĩ mô và vi mô trong triết học Hy lạp .
Nói cách
khác , những định luật vận hành vũ trụ có giá trị với thân vật lý của con
người . Còn những thực hành về những vận hành khác được xây dựng khi
chúng ta bắt đầu lưu tâm đến cấu trúc nền tảng và có thể đương đầu với
những sức mạnh bên ngoài , bên trong và cuối cùng có thể chinh phục chúng
. Sự giả cách này là một trong những nét khác biệt của đẳng cấp
Anuttara Yoga Tantra .
Phật học
định nghĩa sự vận hành là thước đo của vô thường . Thí dụ , lấy một tháng
dùng đo lường những thay đổi đang can dự từ thế giới bên ngoài và thế giới
bên trong . Ví dụ , có thể dùng để đo chu kỳ mặt trăng hay chu kỳ rụng
trứng của người phụ nữ . Chu kỳ được hình thành bằng một tập họp những
hiện tượng được lặp lại theo thứ tự định sẵn .
Cho dù sự lặp lại này không dẫn từ chu kỳ
này đến chu kỳ khác theo hình thức gống nhau .
Vũ
trụ bị chi phối bởi những chu kỳ vận hành như thiên văn lịch sử . . .
Trong khi thân vật lý bị những chu kỳ sinh học chi phối phát sinh liên
quan đến những chu kỳ của tâm thức và cảm xúc .
Hơn nữa , như vũ trụ
được hình thành và trải bày trong không gian bị co rút . Tự tan biến rồi
tái lập . . . . Những cá nhân đến từ đời này sang đời khác theo cùng một
sơ đồ như : Quan niệm , sự phát triển , trưởng thành , tuổi già rồi đến
cái chết .
Thông thường , sự vận hành
phát sinh tính chất tự hao mòn . Sau một số năm sự bén nhạy giác quan
xuống dốc một cách thãm hại . Kể cả những chức năng trí nhớ và sức mạnh
vật lý . Điều này kéo theo cái chết thân vật lý trong thời hạn nào đó .
Tiếp theo ; vì muốn kiên
trì với sự đồng nhất . Điều này sẽ duy trì sự lầm lẫn trong tâm thức là :
Chúng ta trở lại không ngừng với thân vật lý thô thiển . Không thể kiểm
soát quá trình kết thúc và những tái sinh liên tục trong mọi hoàn cảnh .
Điều này vẫn tiếp diễn cho mỗi lần ra đời . Và chúng ta mãi học lại những
gì đã học trong những đầu thai trước .
Khi một cuộc sống được
trải bày theo sự vận hành . Những dấu ấn nghiệp lực để lại bằng những hành
động đã được khai triển . Cuối cùng kết tinh dưới dạng trải nghiệm tương
ưng vào thời gian thích hợp . Có nghĩa quan hệ với những điều kiện vận
hành của vũ trụ và lịch sử .
Những trải nghiệm này
đôi khi thật dễ chịu . Nhưng đa phần thì cực kỳ khó chịu . Nói cho cùng
chúng ta có ảnh hưởng rất ít với những gì sẽ diễn ra trong những cuộc sống
nối tiếp . Nói tóm lại , chu kỳ thời gian bên ngoài và bên trong hình
thành những gì mà Phật học gọi là
Samsara .
Những tái sinh tuần
hoàn không thể kiểm soát những vấn đề chất đống đầy rẫy khó khăn . Những
tái sinh xuất phát từ những xung động ; hệ thống
Kalachakra
gọi là :
« Những cơn gió nghiệp » ;
dính liền mật thiết với tâm thức con người . Xuất phát từ trạng thái lầm
lẫn liên quan đến bản chất của hiện thực .
Mãi tự thuyết phục mình là
hiện thực tương ứng với trực nhận của tâm thức bình thường . Làm ngộ nhận
đã sẵn có sự đồng nhất nội tại , bền vững và thường trực . Như thế phản
ứng của chúng ta là cứ bám víu vào dạng thức bướng bĩnh . Thật đáng chế
nhạo .
Vì ngộ nhận về chính
mình , chúng ta phóng chiếu lên người khác và lên thế giới . Điều này làm
phát sinh những tư tưởng như sau :
« Thật sự tôi là thế này » ; « Đối tượng này hay người nào đó thế này hay
thế khác » ; « Tôi cần phải tự thích nghi với những vấn đề trong cuộc sống
( nguồn gốc khoái lạc ) hay từ khước ( nguồn gốc những phiền toái ) » .
Mọi hành động cho dù thuộc
về vật lý , ngôn ngữ hay tâm thức . Đều được thiết lập trên mô hình tư
tưởng hoàn toàn lầm lẫn và cứng ngắt ; chỉ có thể làm nãy sinh những tiềm
năng và thái độ của nghiệp lực .
Sự vận hành bị ảnh
hưởng tác động của hoàn cảnh thích nghi . Đồng thời những tiềm năng và
được gọi là : « Hạt giống của nghiệp
lực » ; trưởng thành dưới dạng
thức xung động buộc chúng ta lặp đi lặp lại những hành động tương tự .
( Xung động = Mô phỏng những kinh nghiệm rung động cảm giác của thân vật lý ) .
Khía cạnh xung động
của thái độ con người rất dễ dàng kiểm chứng . Chỉ cần quan sát cuộc sống
cá nhân hay những hiện tượng thế giới . Chúng ta có thể trực nhận một
cách dễ dàng .
Biết bao người đàn ông
hay đàn bà không hề cùng đi từ hôn nhân này đến hôn nhân khác với những
ảnh hưởng ràng buộc bên trong . Mỗi khi lặp lại cùng một sai lầm ? . Nhiều
nước không cùng cảnh ngộ ; cùng rơi vào cuộc khủng hoảng này đến khủng
hoảng khác ? . ( Cứ như thế mà lao vào
như những con thiêu thân ) .
Thật ra những tiềm
năng nghiệp lực phát sinh một loạt những xung động . Nghiệp lực cộng đồng
tiếp nối với những phạm phải từ trước . Từ một số rất nhiều người ; bao
gồm cả chúng ta . Phát sinh những xung động đặc trưng nguyên thủy của vũ
trụ ; liên hệ với những hình thức cuộc sống chúng ta và những người được
sinh ra .
Đồng thời , những tiềm
năng nghiệp lực cộng đồng phát sinh xung động quyết định bởi định luật vật
lý và sinh học của vũ trụ . Nhất là những vấn đề thuộc về điều kiện thời
tiết ở những hành tinh khác biệt .
Cho đến những chu kỳ những
dạng thức sống khác nhau được khai sinh . Tương tự, tiềm năng nghiệp lực
giải thích những xung động bắt nguồn từ thái độ của từng hình thức một
trong cuộc sống này .
Tương tự , tiềm năng
nghiệp lực cá nhân nguyên thủy quyết định phát sinh xung động cho sự tái
sinh một người với thân vật lý trong môi trường riêng biệt . Điều này ở
giây phút chính xác của chu kỳ bên trong sau cái chết .
( Chu kỳ bên trong = sự vận hành của
thân vật lý phù hợp với mỗi người ) .
Sự xung động này bắt
buộc dính liền với sự tiến hóa của vũ trụ bên ngoài . Ngay giây phút hình
thành luân hồi . Vì thế không thể tái sinh thành con khủng long ở thời kỳ
đặc biệt của cuộc sống đã qua ; trong một môi trường cần thiết - Khu rừng
nguyên sinh .
Đồng thời , tất cả
những yếu tố dính liền với nghiệp lực hình thành với sự sản sinh
« chỗ tập họp »
. Chúng ta trải nghiệm sự trưởng thành những tiềm năng nghiệp lực xuất
phát từ những kiếp trước , Dưới hình thức –
« Lại một lần nữa »
trong thái độ bị cưỡng bức .
Như vậy , nếu quốc gia
nơi chúng ta sẽ tái sinh có những cuộc chiến lâu dài . Tự động chúng ta
trở thành những những người lính . Chúng ta sẽ dội bom những làng địch và
có thể bị chết trong một trận chiến nào đó . Như thế , những chu kỳ bên
ngoài và bên trong hòa quyện vào nhau một cách rất phức tạp .
Tóm lại , sự vận hành
không có bắt đầu và kết thúc . Đặc trưng của nó là vô thường , Hình thành
những gì mà người ta gọi là độ dài lâu . Sinh ra và biến đi trong vũ trụ
trọn vẹn những nền tảng văn minh và mọi dạng thức sinh hoạt trong cuộc
sống .
Hình thức vũ trụ hay
nền văn minh , tùy thuộc vào những hành động bao gồm tư tưởng của những
con người đã sống trước đây . Đây là những giải thích sự ảnh hưởng lẫn
nhau giữa thân và tâm và môi trường của từng con người .
Như người nào đó ,
sinh ra dưới hình thức loài cá để biết những biến cố đang diễn tiến trong
thành phần nước hay dưới hình thức con người để biết sự diễn tiến trong
thành phần không khí . . .
Những hình tướng trong
cuộc sống đều làm mồi cho sự lầm lẫn của thân , tâm và môi trường riêng
của kết quả nghiệp đời trước . Thậm chí họ bị những thái độ xung động có
hại chèn ép , làm giảm thiểu phần lớn khả năng có lợi cho họ và người vẫn
không thể thay đổi . Như những cư dân chịu sự kinh hoàng của những trận
dịch trong những thế kỷ qua . Chúng ta hoàn toàn bất lực , cho dù muốn
thay đổi bất cứ điều gì mang số phận buồn thảm của họ .
tonysham05:
Tino cụ thể thêm về sự vận hành bên ngoài và bên trong ?. karunasham: Sự vận hành của tư tưởng ( bên trong ) của vũ trụ ( bên ngoài ) . tonysham05: Hiện tượng và hiện lượng ? karunasham: Vận hành của hiện tượng và hiện lượng tonysham05: Là mấu chốt Kalachakra ? karunasham: Tất cả là từ chổ này - Nghiệp lực. Hiện lượng phóng xuất cái gì – Hiện tượng sẽ hình thành cái đó . tonysham05: Làm thế nào để khỏi bị nghiệp lực dẩn đi ? karunasham: Chuyển hóa .
2
- Giải thoát Vận Hành Bên Ngoài & Bên Trong
Như đã nói ở trên , Những chu kỳ vận hành khác có thực thể là những thực hành thiền định thuộc về đẳng cấp Anuttara Yoga Tantra . Dù vậy ; không thể đơn giản xem chúng như sự luân chuyển của thời gian bên ngoài và bên trong .
Vì mục tiêu chúng là
giải thoát chúng ta ra khỏi sự kềm tỏa . Nhưng sự giải thoát cá nhân của
thời gian không có nghĩa sự vận hành không hiện hữu hay chúng ta không thể
sống có ích cho những người bên ngoài .
Sự vận hành dùng để
khẳng định vô thường , đồng thời dùng để đo lường hành động chư Phật trên
thế giới . Sự giải thoát đối với sự vận hành bên ngoài và bên trong . Cần
được hiểu như sự chiến thắng tâm thức lầm lẫn và những xung động nghiệp
lực chúng ta chịu đựng . Với những tác hại do thời gian bên ngoài bên
trong thao tác .
Một khi giải thoát
khỏi những chu kỳ này . Chúng ta không còn bị những hoàn cảnh đối địch của
hiện hữu chi phối như : Những đêm đông lạnh gía kéo dài , thiên thực ,
những cuộc chiến . . . ( Thiên thực = sự
biến mất tạm thời hoặc toàn phần như mặt trời hay mặt trăng ) .
Tương tự , chúng ta không
còn chịu đựng những hạn chế nội tại trong thân vật chất . Cũng như những
ảnh hưởng của chu kỳ sinh học : Nạn đói , ham muốn tính dục , sự mệt mỏi ,
già cỗi . . . Sự lãnh hội đầy đủ về hiện thực . Giúp chúng ta có khả năng
phục hồi những hình thức tốt nhất cho mọi người ; vượt ra ngoài những giới
hạn thông thường do thời gian áp đặt .
Quá trình giải thoát
thời gian thông thường khởi đầu bằng lễ
Khai tâm Kalachakra
. Với sự truyền trao quyền năng về
Kalachakra
.
Chúng ta có được tất cả những
yếu
tố để dấn thân vào thực hành
Mật tông . Cũng như thiền định ở giai đoạn sáng tạo , tiếp theo là giai
đoạn thành tựu liên quan đến đức Phật dưới tên
Kalachakra
.
Giai đoạn sáng tạo cho
chúng ta đi vào tâm thức rất tế nhị . Trong khi giai đoạn thành tựu cho
phép chúng ta sử dụng tâm thức rất tế nhị để phân biệt hiện thực . Khi tâm
thức rất tế nhị tập trung vào hiện thực không chút chểnh mảng ; sẽ loại
trừ những lầm lẫn và bản năng đặc trưng .
Như vậy chúng ta sẽ
đồng thời cùng giải thoát khỏi sự ràng buộc của thời gian bên ngoài và
thời gian bên trong . Điều này rất có thể . Vì trong căn bản Mật tông ,
tâm thức ánh sáng sáng tỏ hiện diện từng giây phút trong cuộc sống như sự
vận hành ; không có khởi đầu hay kết thúc .
Khi tâm thức rất tế
nhị giải thoát khỏi nguyên nhân đầu tiên của những xung động . Nối tiếp
với sự vận hành bên ngoài và thời gian bên trong . Nó không còn là nô lệ
làm cho những xung động nẩy sinh . Nó tác động ngược lại , để cho những
thân chư Phật khác biệt gọi là
Kalachakra
có môi trường xuất hiện .
3 -
Sự lan rộng Kalachakra
Để có thể quyết định tham gia vào nghi lễ khai tâm . Đồng thời nên hiểu biết tối thiểu về nguồn gốc ; cũng như lịch sử phát triển những giáo huấn Kalachakra . Như vậy chúng ta sẽ nhận ra những kỹ thuật đã được minh chứng và đã thể hiện hữu hiệu suốt nhiều thế kỷ .
Theo truyền thống , đức
Phật Shakyamuni dạy Mật tông Kalachakra đã hơn 2800 năm ở miền Nam Ấn độ ;
bây giờ là nước Andra Pradesh . Trong số những người hiện diện . Cao nhất
có vua những đất miền Bắc của Shambala và 97 bộ trưởng . Sau đó những giáo
huấn được bảo tồn ở kinh đô Shambala .
Ở thế kỷ thứ X , hai
vị thầy Ấn độ đã đến kinh đô Shambala
bằng hai lộ trình khác nhau . Suốt chuyến du hành , mỗi người có một linh
kiến riêng về miền đất này và đã đón nhận sự trao truyền đầy đủ về quyền
năng Kalachakra
. Cũng như toàn thể
những giáo huấn . Sau đó phát triển ở Ấn độ theo những trình bày gần như
giống nhau . Kalachakra
là một trong những hệ
thống Mật tông cuối cùng đã vượt trội trong lịch sử và nổi tiếng rất nhanh
.
Trước
tiên trong những tu viện đại học đồng bằng sông Hằng , sau đó ở
Cachemire
. Từ đây phát sinh 4
đường lối thực hành . Những vị thầy ở Ấn độ và ở
Cachemire
cũng dạy Mật tông
Kalachakra
ở miền bắc Birmanie
, Mã Lai và Nam Dương . Nhưng những giáo huấn này đã biến mất từ những
miền này vào thế kỷ XIV .
Cuối
cùng , những vị thầy Ấn độ trao truyền Mật tông
Kalachakra
vào Tây tạng với sự
dịch thuật của các dịch giả địa phương . Giữa thế kỷ XI và XIII , ba dòng
chính trao truyền được hình thành . Mỗi dòng dạy tư liệu gốc khác nhau với
bốn phiên bản Ấn độ . Nhưng đã có những tiểu dị do dịch thuật những văn
bản tiếng Tây tạng .
Trong
những dòng này , vẫn giữ lại phần nào đó sự kết hợp ba dòng nguyên thủy
chính . Hơn nữa được duy trì cho đến thời đại chúng ta trong những trường
phái Sakyapa , Kagyupa và
Guélugpa .
Vì những
người thuộc dòng Nyingma
chỉ dựa những giáo
huấn trên những văn bản Ấn độ đã được du nhập vào Tây tạng và được dịch
trước đầu thế kỷ IX . Nơi không tồn tại ở dòng truyền thừa trực tiếp
Kalachakra
.
Dù vậy ,
sau đó vài vị thầy Nyingma
đã đón nhận lễ khai tâm
Kalachakra từ
những vị thầy ở những dòng khác .
Đặc biệt là dòng Rimé
hay phong trào không môn phái phát
sinh ở thế kỷ XIX . Cũng như những bình luận của tất cả những khía cạnh
giáo huấn . Hơn nữa có sự biến dạng của hệ thống
Kalachakra gọi
là Dzogchen hay thực hành Đại
toàn thiện . Và nhờ vào những người phái
Gélugpa
, hệ thống Kalachakra
đã có tầm vóc quan trọng hơn .
Việc
nghiên cứu , thực hành và những nghi thức
Kalachakra
. Trước tiên được đón
nhận sự chú ý thật đặc biệt ở thế kỷ XV ở
Tashilhunpo
( Trung tây tạng ) ,
tu viện của những Đạt lai lạt ma , sau đó trở thành những
Panchenlama
.
Gữa thế
kỷ XVII , giáo huấn lan rộng trong vùng người Mãn châu gọi là
“ Nội Mông
” , nơi được dựng tu
viện đầu tiên dành riêng cho
Kalachakra
. Giữa thế kỷ XVIII , có những trường
Kalachakra
ở cung đình Bắc Kinh , ở Tashilhunpo miền
Amdo ( Đông bắc Tây tạng )
và vùng gọi là “ Ngoại
Mông ” .
Suốt thế
kỷ XIX , người Tây tạng và Mông cổ đã truyền trao hệ thống
Kalachakra
cho người
Bouriate ( Mông cổ Tây bá lợi á )
. Đến phiên họ , đầu thế kỷ XX họ trao truyền cho người
Kalmouk ( Mông cổ miền Volga )
và cho những người Touva (
Thổ - Mông cổ Tây bá lợi á )
. Trong những vùng người Mông
cổ đã tràn ngập . Cũng như
Amdo
, những chi nhánh bao la những tu viện lớn được dành riêng cho thực hành
Kalachakra
.
Sự nồng nhiệt của những người Mông cổ và người Tây tạng ở Amdo đã làm pháp Kalachakra có thể tự bắt nguồn và đồng hóa những quốc gia tương ưng với những vùng huyền thoại Shambala .
Hơn một
thế kỷ , người Nga bắt đầu tin vào sự hiện hữu của những miền đất này .
Tiếp theo những quan hệ họ đã có với những người
Bouriate
và những người Kalmouk
. Chính như thế bà
Blavatsky và Nicolas
Roerich mang đến
cho Shambala
vai trò chủ yếu trong
phong trào huyền bí học họ sáng tạo ra như hội Thông thiên học và
Agni Yoga
.
Tương tự
, Agvan Dordjé
. Sứ giả người
Bouriat
của Đạt lai lạt ma thứ XIII ở triều đình Nga hoàng ; đã thành công trong
việc thuyết phục Nicolas II xây dựng ở
Saint - Pétesbourg
một ngôi đền vinh danh
Kalachakra
. Sau khi giải thích những quan hệ giữa Nga và kinh đô
Shambala
.
Đồng
thời Kalachakra
đón nhận sự chú ý thật đặc biệt cho những học viện y học và chiêm tinh học
của 4 trường phái Phật học Tây tạng ; ngay ở Tây tạng , Mông cổ và trong
những vùng khác của Trung Á . Lý do quan tâm này đặt trên sự kiện dùng
toán học để thiết lập lịch Tây tạng . Quyết định vị trí những hành tinh
khác biệt trong suốt một năm .
Cũng như
phần lớn chiêm tinh học Tây tạng và một phần không thể bỏ qua về sự hiểu
biết y học Tây tạng , xuất phát từ những giáo huấn
Kalachakra bên ngoài
và bên trong
. Lịch Mông Cổ cũng xuất phát
từ những giáo huấn Kalachakra bên ngoài và bên trong .
Kalachakra
có thể được xem là « thánh tổ »
của những khoa học này .
Có thể vài
độc giả đặt những câu hỏi về bản chất những quan hệ kết hợp Kalachakra
với Đức Đạt Lai Lạt Ma ; và tự hỏi vì những lý do nào ngài thường xuyên
trao truyền nghi lễ khai tâm ? .
Với sự
khiêm cung , ngài trả lời : « Thật sự không có bất cứ quan hệ đặc biệt nào
giữa dòng truyền thừa của những Đạt lai lạt ma và Kalachakra .
Nhưng những Đạt lai lạt ma thật sự được xem như những tái sinh của các vì
vua Shambala » .
Dù gì
những Đạt lai lạt ma thứ I , II , III và VIII cũng từng mang lại lợi ích
rất lớn cho hệ thống Kalachakra . Đồng thời như trường hợp
Tenzin Gyatso - Đức đạt lai lạt ma đương thời .
Từ đức đạt
lai lạt ma thứ VII trước thế kỷ thứ XVIII . Nghi thức Karachakra và
những thực hành thiền định đi kèm là những nghi thức đặc trưng của tu viện
Namgyal - Tu viện của những đức Đại lai lạt ma .
Một Đại
Lai Lạt ma có thể trao truyền quyền năng Kalachakra bao nhiêu lần
khi ngài muốn . Không có luật lệ nào về vấn đề này cả . Cũng như không có
gì có thể minh chứng hiện tượng bên ngoài những lễ khai tâm Kalachakra ;
được tổ chức thường xuyên do đức Đạt lai lạt ma đương thời trao truyền .
Đơn giản ngài chỉ nói : « Thật sung sướng khi tôi thể hiện nghi thức
khai tâm Kalachakra ; khi được yêu cầu khi hoàn cảnh thuận tiện » .
Từ năm
1970 , ngài đã trao truyển quyền năng Kalachakra ở nhiều nơi khác
nhau ở Ấn độ . Cũng như ở Bắc Mỹ , Âu châu , Mông cổ và Úc châu . Những vị
thầy lớn của bốn trường phái phật học Tây tạng cũng thường xuyên trao
truyền nghi thức này . Dù ở dòng nào và do vị thầy nào . Điều quan trọng
vẫn là phẫm chất của quyền năng trao truyền được phát xuất từ vị thầy chân
chính .
Người ta
thường nghe sự trao truyền quyền năng Kalachakra với mục tiêu tái
lập nền hòa bình trên thế giới . Và cũng nhờ sự kết hợp này ; có rất nhiều
người yêu thích Mật tông Kalachakra hơn những hệ thống khác của
đẳng cấp Anuttara Yoga . Nhưng lý do được đặt ra thực sự là nền
tảng chăng ? . Và tại sao những trao truyền Kalachakra được ban cho
những cử tọa vô cùng rộng lớn này ? .
Những lễ
khai tâm của những hệ thống Mật tông khác chỉ dành riêng cho những nhóm
nhỏ học trò . Đức Phật Shakyamouni đã trao truyền cho vua
Shambala và 97 bộ trưởng . Và khi đã đến lúc một trong những hậu duệ
truyền trao cho toàn thể dân chúng Shambala .
Vì họa xâm
chiếm đe dọa kinh đô và cần có sự đoàn kết của dân chúng để ngăn chận sự
hủy diệt . Vì những hoàn cảnh này , đồng thời chúng ta cần tìm sự kết hợp
giữa lễ khai tâm Kalachakra và hòa bình thế giới bằng tập quán trao
truyền cho cử tọa rộng lớn .
Tantra
Kalachkra nói rõ : « Thỉnh thoảng những bộ
lạc du mục hoang dã tràn ngập thế giới văn minh với dự ý hủy diệt mọi khả
năng thực hành tâm linh » . Và lần xâm
chiếm tiếp theo được dự tính vào năm 2424 trong thế kỷ đương thời . Điều
này đã nói rõ , sẽ khơi mào cho một cuộc chiến mới của trái đất .
Vậy
Shambala sẽ xuất hiện hỗ trợ ngăn chân và vô hiệu hóa quân mọi rợ .
Sau cuộc chiến thắng này , sẽ nẩy sinh kỷ nguyên hoàng kim mới . Nơi tất
cả những điều kiện hoàn hảo để hội tụ phục hồi và tái tân những thực hành
tâm linh . Đặc biệt là Mật tông Kalachakra .
Những ai đã đón nhận lễ khai tâm Kalachakra trong
những thế kỷ trước sẽ tái sinh vào thời kỳ này và nắm phần chủ động để
truyền trao .
Để đón
nhận trao truyền quyền năng Kalachakra , động năng tối ưu chúng ta
cần có là thực hành những phương pháp thuộc về Mật tông để đạt đến tỉnh
thức ngày cuộc sống này .
Nhưng vẫn
có nhiều người lao đến những nơi thể hiện những lễ khai tâm với ý định
mong muốn được gieo những hạt giống nghiệp lực dính liền với thời đại
hoàng kim tương lai ; cho phép họ toàn thiện ngay từ giây phút này ! .
Trong chiều hướng Shambala
đóng vai trò vượt trội trong hệ thống Kalachakra . Nhiều đôc giả
cần đặt vấn đề hiện thực trong thế giới vật lý và hoàn cảnh địa lý . Huyền
thoại Shangri-la do nhà văn James Hilton sáng tác diễn tả
hình ảnh thiên đường vô hình trên trái đất . Chắc chắn từ nguồn gốc vương
quốc « Shambala » bị làm méo mó .
Có thể hiện có hay không một
« nơi » giống như Shambala ? . Nhưng điều chắc chắn không phải
theo chiều hướng vật lý . Shambala không hề hiện hữu trên hành tinh
này hay trên một thế giới xa xăm nào đó . Dù vậy vẫn có nghĩa là vương
quốc của loài người . Nơi tất cả đồng lòng trong thực hành tâm linh . Đặc
biệt là thực hành Mật tông Kalachakra .
Nhiều vị thầy đã viết những sách
hướng dẫn về pháp thiền định bằng tiếng Phạn và Tây tạng , để giải thích
vì sao lại cần theo . Để có thể đạt đến vương quốc Shambala .
Nhưng chuyến du hành họ diễn tả chỉ
diễn đạt được một phần trong thế giới hiện tượng . Vì làm theo họ thì muốn
có thể đạt đến miền đất này . Người du hành cần đọc hàng triệu chân ngôn
và miệt mài với sự kiên nhẫn trong những thực hành tâm linh khác
.
Nhưng chuyến du hành đến Shambala
chủ yếu được nhìn như hình thức tâm linh . Lễ khai tâm Kalachakra
không có chủ đích chuyên chở chúng ta đến một nơi thuộc về địa lý có tên
là Shambala . Cũng như không thể giúp chúng ta tái sinh vào nơi này
. Vì những thực hành đại thừa khác chỉ nhắm vào sự tỉnh thức chính mình vì
lợi ích chúng sinh .
Nó chỉ gieo trong chúng ta những hạt
giống cho phép đạt đến mục đích bằng thực hành và cống hiến phương cách
loại trừ những chướng ngại thô lỗ nhất bên trong đã giam giữ và ngăn cách
chúng ta với sự sáng tỏ rõ biết .
7- Chuẩn Bị Lễ Khai Tâm
Giả sử sự bạn thích thú với lễ khai tâm Kalachakra . Do những thông tin góp nhặt trong những giáo huấn và lịch sử ; kết hợp với hòa bình thế giới . Bây giờ chỉ còn lại sự đánh giá . Nếu thật sự đã sẵn sàng cho sự trao truyền quyền năng và những thực hành sau đó . Hay thích hợp hơn chỉ tham gia lễ khai tâm như quan sát viên . Mặc dù có nhiều hiểu biết và ngưỡng mộ đặc biệt dành cho Mật tông .
Hàng trăm ngàn lễ lạy
và đọc thuộc lòng những chân ngôn
Vajrasattva
trăm âm hay những thực hành đồng dạng khác
. Chắc chắn phải có những hữu ích nào đó . Nhưng chuẩn bị chủ yếu là rèn
luyện bạn trong hệ thống Lamrim
- Những tập huấn tiệm tiến
đặt nặng trên hạnh kiểm trên lời , những tư tưởng và những tình cảm có khả
năng giúp tiến bộ trên con đường tỉnh thức .
Giai đoạn đầu tiên của
Lamrim
là hướng chúng ta nắm con đường sống một cách chắc chắn , lành mạnh và cực
kỳ tích cực do Tam bảo ( Phật -
Pháp - Tăng ) ; đối với những ai
đã tiến bộ nhiều trên con đường này .
Thông thường con đường
sống này được dịch với thuật ngữ « Quy
y » . Đòi hỏi sự thực hành từ
bên trong cho phép vượt qua và làm tốt những vấn đề . Nhất là những phẫm
chất cần thiết để có thể hữu ích cho chúng sinh một cách trọn vẹn nhất .
Nắm bắt con đường sống này có nghĩa :
Chọn theo thái độ đặt nền
tảng lãnh hội định luật nhân quả về hạnh kiểm và lòng xác tín nảy sinh .
Để tránh đau khổ . Chúng ta thận trọng
tránh những hành động hủy diệt . Để biết hạnh phúc , là làm hết khả năng
để hành động trong tinh thần xây dựng và vun xới .
Sự chuẩn
bị Mật tông nhằm phát triển ba thái độ tâm thức chính của con đường cũng
như những quan kiến về cuộc sống : Sự từ
khước , bồ đề tâm và lãnh hội về tính không
.
Sự từ khước ở đây có nghĩa : Chúng ta
sẵn sàng từ khước những vấn đề và những nguyên nhân được quyết định bằng
sự lòng kiên quyết ; và chắc chắn phải giải thoát khỏi những đau khổ mà
chúng đã phát sinh .
Chẳng hạn . Để cảm nhận
lòng oán hận cực độ cho sự cô độc và bất thỏa nguyện . Chúng ta cần khẳng
định không chỉ từ khước quan hệ với những người có hại ; mà cũng vào những
nét cá tính tiêu cực và ở hình ảnh đã có về chính mình - do sự lầm lẫn của
tâm thức mang lại nhiều vấn đề trong quan hệ giữa con người .
Đạt được Bồ đề tâm có
nghĩa hoàn toàn có trái tim quay về phía tỉnh thức . Với Bồ đề tâm , chúng
ta quyết liệt vượt qua những khuyết điểm của mình và thực hiện những tiềm
năng cho lợi ích chúng sinh .
Đây là những phẩm chất
được hình thành với động cơ là tình thương và lòng từ . Nó cũng là tinh
thần trách nhiệm đối với tất cả sự vồn vả chúng ta giúp đở họ . Khi nào có
thể vượt qua những vấn đề riêng để thực hiện một hạnh phúc lâu dài . Và
tính không đòi hỏi sự vắng bặt mọi huyễn hoặc về chủ đề lý lịch của chúng
ta ( tự huyền thoại hóa )
.
Thông thường , chúng ta
tin mình hiện hữu theo những mô hình không thể . Có thể nói hoàn toàn
ngược lại với hiện thực . Lúc nào cũng duy trì những huyền hoặc tương đồng
với những hiện tượng khác .
Chúng ta sáng tạo ra những hình ảnh huyền hoặc gần như tế nhị và phóng chiếu lên chính mình ; cùng với những sự việc và những người bên ngoài . Chẳng hạn , chúng ta tin mình là những kẻ thất bại từ khi lọt lòng . Vì bề ngoài thiếu khả năng thiết lập những quan hệ nhân sự thỏa đáng . Đồng thời cũng tin người khác hay những hoàn cảnh bên ngoài không phải là nguyên nhân khi những sự việc xấu đi .
Ở trình độ tế nhị hơn
, chúng ta không ngừng bận rộn với « bản
ngã » . Chúng ta hiểu một các
vững chắc và e ngại : « Không được ai
thương và tất cả mọi người đều có thể từ khước mình » .
Lầm lẫn huyền hoặc và
hiện thực làm cho hành động có điểm khởi hành là quan kiến sai lầm về
chính mình và sự thiếu tự tin do tự tạo trước khi xung đột phát sinh . Sự
lo âu và vụng về đã sẵn sàng tạo điều kiện cho sự thất bại .
Như thế quan kiến về chính
mình , không chỉ được xây dựng và cũng cố những phác thảo cho tiềm năng
nghiệp lực để tạo ra những vấn đề quan hệ tương lai .
Đồng thời cũng khởi động sự trưởng
thành của những tiềm năng nghiêp lực trong hiện tại .
Vậy trước khi muốn dấn
thân vào thực hành Mật tông .
Chúng ta cần nắm bắt khía
cạnh sai lầm về những phóng chiếu thô lỗ nhất của chính mình . Không ai
sẵn có sự thất bại khi vừa lọt lòng mẹ và những quan hệ nhân sự không hề
nhúng tay an bài một cách có hệ thống chỉ để làm chúng ta thất bại .
Sự lãnh
hội này đến từ phương cách đặc biệt là nhìn những sự việc với những gì mà
Phật học gọi là : “ Cái
nhìn chính xác từ tính không ” ( Không thiên vị )
. Do đích thân đức Phật giảng dạy trong những hệ thống triết lý nổi tiếng
dưới tên là Chittamatra ,
Madhyamaka và Prasanguika .
Những hệ
thống này đều tán thành theo nguyên lý :
Tất cả những hiện tượng bao gồm cả
chúng ta đều vắng bặt hiện hữu nội tại
. Điều này trước tiên cần
phân định với định nghĩa khái niệm về tính không cũng như trình độ tế nhị
của nó về lòng xác tín và tự tin trong những phương pháp thuộc về Mật tông
.
Đặc biệt
là phương pháp của đẳng cấp không thể vượt qua của
Anuttara Yoga
- Đồng thời rất cần
thiết cho thí sinh ở lễ khai tâm . Cần phải tin rằng những phương pháp này
hoàn toàn thích nghi theo con đường tỉnh thức và chúng cũng hiệu quả nhất
để dẫn chúng ta đi đến .
Những ai
có được lòng xác tín và tin tưởng với ba thái độ của tâm thức nền tảng :
Sự từ khước - Bồ đề tâm và
Lãnh hội tính không .
Cũng như đã tập huấn
đầy đủ trong hệ thống Lamrim , sẽ được xem là
“ Những chiếc bình thích hợp ”
cho trao truyền quyền
năng Kalachakra . Vậy mỗi người chúng ta nên tự xem xét mình đã có
đủ tất cả những điều kiện tiên quyết này hay chưa .
tonysham05: Chiếc bình thích hợp ?
karunasham: Bình sạch và rỗng .
Thực ra , sự trao truyền quyền năng phải mất hai
ngày ( đôi khi ba tháng ) .
Nhưng lúc nào cũng được chuẩn bị trước một ngày . Trong những quá trình nguyên thủy ; ấn tượng nhất là lễ qui y và nhận thệ nguyện Bồ tát đạo của Mật tông .
Nếu không , bạn không
thể đón nhận quyền năng một cách hiệu quả . Nhưng , hãy nhớ :
Tuy tham gia vào lễ khai tâm Kalachakra như quan
sát viên ; đồng thời vẫn là một nguồn rất hữu ích bạn không thể bỏ qua .
Sự trao truyền quyền năng được đón nhận từ một nghi thức rất phức tạp với những mô phỏng bao trùm những hình thức đặc biệt . Thế rồi chúng ta đi sâu vào Mandala Kalachakra ; nối tiếp một loạt những nghi thức tịnh hóa và cuộc sống tỉnh thức với sự kích hoạt những tiềm năng sẵn có .
Lễ khai tâm đáp ứng
theo định luật nhân quả ; để hình thành sự thành công về thực hành về sau
. Mandala Kalachakra
là một dinh thự khổng lồ bốn tầng . Chứa đựng 722 hình ảnh và biểu tượng
Phật nam nữ hòa hợp nằm ngay trung tâm .
Đời thời , vị thầy trao
truyền quyền năng , xuất hiện dưới mọi khía cạnh của tất cả những hình
ảnh này . Không riêng chỉ dưới khía cạnh nam nữ hòa hợp trong yếu tính
Phật . Và cứ như thế , trong suốt thời gian lễ khai tâm . Chúng ta tự mô
phỏng theo với tính cách cá nhân .
Đối với người truyền
pháp và môi trường chung quanh cần mô phỏng một cách rất đặc biệt . Vì
những giai đoạn khác nhau của lễ khai tâm rất phức tạp và đáng kể . Riêng
về dạng thức mô phỏng , vẫn có thể làm lạc hướng một cách khủng khiếp đối
với người sơ cơ .
Nếu bạn là dự thính
viên tích cực . Có thể bạn tự mô phỏng mình là :
« Chiếc bình thích hợp »
. Có nghĩa bạn phát những loạt thệ nguyện khác biệt trong tâm thức và cảm
nhận những mô phỏng đang thật sự xảy ra .
Thế là bạn đón nhận
một cách hữu hiệu sự trao truyền quyền năng . Khi đã hình thành căn bản ,
sau đó sẽ thực hành tiếp tục với tâm trạng chân thành nhất trên con đường
tỉnh thức được giảng giải trong nghi thức truyền trao
Mật tông Kalachakra
.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH VA NI SU GESHE TASHI TSERING.14/4/2012.MHDT.
|
Friday, 13 April 2012
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment