|
|
||||||||||||
Ngày đầu trao truyền quyền năng hữu hiệu ,
mở ra như nghi thức được chuẩn bị ngày hôm trước . Bằng nghi thức súc miệng tiếp theo những buỗi lạy . Dù là dự thính viên hay quan sát viên . Ở đây chúng ta mô phỏng thành Phật Kalachakra đơn giản với một mặt và hai tay .
Đứng trước cửa
Đông màu đen của cung điện Mandala . Về đạo sư , chúng ta cố mô phỏng ông
là Phật
Kalachakra với tất cả sự phức tạp ( bốn mặt và 24 tay )
. Đạo sư cho chúng ta
những giải thích về bản chất những giấc mộng đã có . Tất cả giấc mộng với sự
hiện diện vị thầy tâm linh Mandala
Kalachakra .
Trong đó chúng ta được
thực hiện những lễ tắm gội , mặc những quần áo mới sạch sẽ . Leo một ngọn đồi
hay đi vào một ngôi đền tráng lệ như dấu hiệu thành công trong thực hành
.
Ngược lại giấc
mộng , nơi chúng ta thức bị đánh bại sẽ thấy mình đi thụt lùi xuống đồi hay
thoáng nhìn những bông hoa màu đỏ máu ( biểu tượng vết thương ) . Chứng tỏ niềm hãnh diện có những dấu hiệu bị đe dọa . Có nghĩa bị
những chồng chéo trong thực hành .
Nhưng , dù bất cứ giấc
mộng nào có thể có . Không nên mất tính hiện thực tất cả những sự việc . Cũng
như tính không và sự phát sinh phụ thuộc của một vài yếu tố . Không một thành
công hay thất bại tự hiện hữu từ chính chúng . Không gì có thể xác định trước
hay thành hình một cách cứng ngắt .
Tất cả xảy ra phụ
thuộc vào những cố gắng của chúng ta . Để tránh những chồng chéo , đạo sư
Kalachakra cúng dường bánh Torma trong nghi lễ . Sự
cúng dường này là biểu tượng sức mạnh lãnh hội về tính không . Có khả năng tiêu
diệt sự mê tín và đánh tan sự lầm lẫn trong tâm thức . Dù là dự thính viên hay
quan sát viên . Chúng ta cần giải thoát khỏi tâm thức những tư tưởng ngu xuẩn
.
Nếu, vì một lý do
nào đó , không thể tham gia vào nghi thức chuẩn bị ngày hôm trước . Cũng không
gì trầm trọng . Vì hôm nay Lama trao truyền lễ khai tâm sẽ hỏi lại việc đồng dạng chư Phật và quá
trình ngày hôm trước sẽ được lặp lại .
Ngược lại , nếu
đánh mất giai đoạn liên quan đến cỏ Kusha , giúp tạo ra vài dạng thức mộng . Tuy nó
hợp thành từ những quá trình rất quan trọng về lễ khai tâm . Không cần phải lo
âu , chúng ta không nên cố tạo ra với bất cứ giá nào . Đồng thời cho dù thiếu lễ
phân phát những sợi dây bảo vệ . Nhưng điều này không thể ngăn cấm mình chứng tỏ
yêu thương tất cả chúng sinh khi có thể .
Nghi thức lễ khai
tâm tiếp diễn bằng lễ cúng dường Mandala và tụng đọc những chân ngôn . Chúng ta cảm
thấy hoan hỉ về nhận định được trao truyền quyền năng . Một lần nữa , yêu cầu
đạo sư trao truyền đường hướng sống bền vững . Những tập huấn liên quan đến Bồ
đề nguyện và thọ nhận thệ nguyện Bồ tát đạo .
Karmavajra , trợ lý
cho Kalachakra , đưa quần áo nghi lễ cho vài môn đồ chủ yếu mặc
vào . Quần áo này giúp họ duy trì sự rõ biết về lý lịch chân thật của mình . Ai
không được nhận những quần áo cũng không nên thất vọng . Vì điều quan trọng hơn
chính là những mô phỏng - Sự kiện tự nhìn thấy dưới khía cạnh những chư Phật
không phải là lý lịch bình thường của mình trong cuộc sống .
Ngược lại , những
dự thính viên sẽ đón nhận một
ruban đỏ và một cành
hoa . Chúng ta tự buộc ruban lên trán ,
nó có chức năng như chiếc « khăn vấn đầu » (
bando ) . Về phần cành hoa , thận trọng đặt nó trên đùi mình hay
để trong túi . Nó sẽ giúp chúng ta về sau .
Những quan sát viên cũng được
đón nhận một ruban và một cành hoa .
« Khăn vấn đầu » ( bandeau ) . Cần gìn giữ trên
trán suốt nghi thức đầu tiên lễ Khai tâm
Kalachakra . Cho đến khi đạo sư cho
phép mình đi vào trong Mandala
.
Suốt giai đoạn đầu tiên và
qui theo những chỉ thị . Chúng ta đứng trước cửa Đông Mandala ; được che lại bằng
một tấm màn . Sau đó , vượt qua và đi vào bên trong tòa nhà . Vào giây phút
thích hợp , Lama sẽ yêu cầu chúng ta kéo « Bandeau » che
mắt , để có thể chiêm ngưỡng cung điện -
Mandala Kalachakra từng chi tiết một
.
Những mô phỏng sẽ phúc tạp từ
giây phút này , đánh dấn bước đầu trao truyền quyền năng hữu hiệu . Nhất là
chúng ta sẽ được yêu cầu giữ tập trung về lý lịch thật sự của mình . Đồng thời
rõ biết nơi chốn đang ở và những gì đang diễn tiến ở đây .
Sau khi phân phát
bandeau ,
quá trình ngày hôm sau sẽ được lặp lại . Đạo sư yêu cầu chúng ta quăng nhánh « Neem » vào mâm được dành riêng cho việc này . Sau đó uống một ít nước được tịnh hóa .
Những dự thính viên tích cực
và quan sát viên không mô phỏng mình trở thành Kalachakra đơn giản , mà là Kalachakra
ôm chặt người phối ngẫu . Người phối
ngẫu cũng có một gương mặt , hai tay và hai chân . Bà đứng theo truyền thống
thuộc Lama màu xanh dương hoặc
vàng .
Thông thường , người phối
ngẫu chính là Vishvamata có màu vàng . Đồng thời cũng cần mô phỏng hai hình dáng
nữ có quan hệ mật thiết với phối ngẫu chính của
Mandala ; được biết dưới
tên : « Đức
Bà Dũng Mãnh » - Shakti . Những Đức Bà này đại diện cho mười thái độ bao la .
Được gọi là Mười Điều Toàn
Thiện .
Tám người trong họ đứng thành
vòng tròn quanh phối ngẫu trung ương , trong khi hai người kia lẫn lộn
với Vishvamata . Bất cứ một trong
mười hình dáng nào cũng có thể thay thế được Vishvamata . Nhưng chính người tượng trưng cho niềm rõ biết phân
biện hay « Toàn thiện minh triết » -
Paramita màu xanh dương thường xuyên giữ vai trò này .
Vì là người sơ cơ . Chúng ta
chỉ cần tự mô phỏng mang những đường nét một trong những phối ngẫu về mặt thực
hành đến cuối nghi thức lễ Khai tâm Kalacha kra
. Và rất quan trọng để có thể hiểu được
sự mô phỏng những chư Phật được kết hợp chính xác để làm gì .
Thật sự không ai yêu cầu dự thính
viên phái nam đảm trách vai trò Phật nam hay những dự thính viên nữ đảm trách
vai trò Phật nữ hay sẽ mô phỏng ôm người khác phái . Vì sẽ đi ngược lại mục tiêu
theo đuổi trong giai đoạn này của lễ khai tâm .
Trong giai đoạn này , mỗi
người chúng ta cần phải cảm thấy mình đồng thời là Kalachakra và Vishvamata mà vẫn không đánh mất sự rõ biết sự mô phỏng tương ưng
với những hiệu quả thành tựu . Cũng không cần những tình cảm nam tính hay thuộc
riêng về nữ tính hay những tình cảm nam dạng nữ tính ở đây .
Vì những ai sống lứa đôi đã
biết thế nào là tình cảm của sự kết hợp với đối tượng ; và điều này không muốn
nói bị mất hết tính dục . Mỗi người vẫn là một con người nguyên vẹn với những
đặc thù riêng .
Tương tự , trong bối cảnh Mật
tông . Nơi chúng ta được yêu cầu phải giữ rõ biết về lý lịch riêng của chính
mình . Sự mô phỏng là phối ngẫu mãi mãi kết hợp . Tượng trưng cá tính bất phân
ly ly của phương pháp tâm thức và minh triết .
Trình độ diễn dịch đầu tiên
.Phương pháp có nghĩa lòng từ và minh
triết
hay sự rõ biết tính không . Trình độ diễn dịch thứ hai .Phương pháp có nghĩa niềm rõ biết nội hỉ ; và minh triết được giữ nguyên nghĩa . Trình độ diễn dịch thứ ba .Còn lại sự rõ biết không lay chuyển niềm nội hỉ - tính không ; và những hình dáng trống rỗng .
Như vậy tự mô phỏng thành phối ngẫu . Có nghĩa lồng
vào trọn vẹn ba trình độ diễn dịch
Từ những tình cảm tích cực ( lòng từ ) với người .
Sự lãnh hội hiện thực . Niềm hoan hỉ minh triết từ tâm thức và thân chúng ta .
Hơn nữa , tương tự với cảm
giác bình thường hình thành phối ngẫu bền chặt về tâm lý thật tích cực với đối
tượng . Điều này mang đến cả hai sự tự tin , sảng khoái và hoan hỉ . Cũng như sự
mô phỏng phối ngẫu Mật tông .
Một sự mô phỏng vắng bặt mọi dấu
vết lầm lẫn , trở thành nền tảng và một tập họp cực kỳ hữu hiệu cho sự thành tựu
rõ biết về niềm nội hỉ - tính không của chúng ta .
Vào một ngày , có người
hỏi Tsenzhab Serkhong Rinpoché
. Làm sao có thể thực hành tự mô phỏng phối ngẫu
trong khi đi , lạy hay những hoạt động thường ngày . Vì ông ta sợ người phối
ngẫu trở thành sự chướng ngại . Rinpoché đã trả lời : « Sự
kiện kết hợp với người phối ngẫu trong cuộc sống bình thường . Có thể được so
sánh với quần áo chúng ta mặc » .
Vì cho dù đang ngồi hay làm
việc nội trợ . Quần áo vẫn không thể rời và lúc nào vẫn cảm nhận mình đang mặc
quần áo . Có thể nói , quần áo là một thành phần trong cuộc sống của chúng ta .
Chúng cùng chúng ta đi và không rời , cho dù cho có làm gì đi nữa .
Thật sự không có nhận định
nhìn thấy chúng như sự hiện hữu nào khác biệt . Chúng ta luôn lãnh hội như là
một tập hợp duy nhất - Thân và quần
áo . Tương tự khi mô phỏng
thành phối ngẫu Mật tông - Kalachakra kết hợp
với Vishvata .
Trong trường hợp này :
« Chúng ta không thấy mình vừa là đàn ông hay đàn bà . Chúng ta không thấy đàn bà bằng xương bằng thịt đến từ những nhánh khác biệt của Mandala để đón nhận những trao truyền quền năng » .
Đơn giản chúng ta chỉ duy trì
sự rõ biết minh triết - tính không và người đàn bà chỉ là biểu tượng . Vì
để tìm hiểu tại sao cần thực hành để tự mô phỏng thành phối ngẫu Mật tông .
Đó là tự nhắc nhở tạo ra hình ảnh
về chính mình . Không phải là hình ảnh kết hợp với người nào khác . Những quan hệ phối ngẫu
trong cuộc sống bình thường không có chỗ trong bối cảnh thực hành Mật tông
.
Những quan sát viên , phần họ
không được tham gia vào mô phỏng những phối ngẫu kết hợp . Họ chỉ duy trì trong
tâm thức hình ảnh một Kalachakra đơn
giản cho đến kết thúc nghi thức lễ
khai tâm . Điều này để chận đường cho sự tái tràn ngập lý lịch nhiều lầm lẫn của
họ . Họ cần gìn giữ sáng tỏ rõ biết tâm thức tỉnh thức . Vì đó là nơi tập họp
những cảm tưởng riêng của vũ trụ Kalachakra
.
Khi tự mô phỏng
thành Kalachakra đơn giản
. Họ giữ sự rộng mở tâm và trái tim .
Điều này cho phép nhận được những lợi ích lớn lao của nghi thức lễ Khai tâm Kalachakra
.
Sau đó , đạo sư của chúng ta
- Phật
Kalachakra . Đưa ra những thừa nào cần thực hành như : Tiểu thừa
hay Đại thừa và mục tiêu nào cần đeo đuổi . Những dự thính viên tích cực trả lời
:
“ Họ có biểu hiệu vận mệnh thuộc
về gia đình Đaị thừa và muốn thực hiện sự rõ biết đại hỉ vì lợi ích tất cả chúng
sinh » . Sau đó , lặp lại sự dấn thân theo đường hướng sống hoàn toàn vững chắc
và tích cực . Sau đó thọ nhận lại những thệ nguyện Bồ tát đạo”
.
Những quan sát viên , nếu
muốn cũng có thể tham gia vào nghi thức này . Nhưng chỉ những dự thính viên tích
cực mới thật sự được tham gia vào giai đoạn tiếp theo . Yêu cầu , thọ nhận thệ
nguyện Mật tông và hứa hẹn quan sát hai mươi lăm mô hình hành xử chính xác chủ
động kèm theo . Riêng những quan sát viên chỉ được đứng nhìn với sự hài lòng về
chính mình .
3- Yoga toàn bộ .
Quá trình tiếp theo của lễ Khai tâm Kalachakra là Yoga toàn
bộ ,
Dùng để lặp lại sự dấn thân . Đồng thời phát triển Bồ đề tâm qui ước và bồ đề tâm sâu sắc . Vì cả hai đều cần thiết cho sự thực hành con đường Mật tông .
Có được Bồ đề tâm có nghĩa có
một tâm thức và trái tim hướng về trạng thái
Bồ đề - Giai đoạn tối ưu của sự thành
tựu tâm linh . Tập trung tâm thức vào sự phát triển Bồ đề tâm qui ước hay tương đối . Có
nghĩa muốn đạt đến tỉnh thức chỉ vì lợi ích của tất cả mọi người .
Trong khi tập
trung tâm thức có được Bồ đề tâm sâu sắc hay “ Tối ưu
” . Có nghĩa muốn có được sự rõ biết tính
không sẵn có trong trạng thái tỉnh thức – Tính không chính là nền tảng của
tất cả chúng sinh . Tỉnh thức là trạng thái rõ biết vắng bặt mọi mô hình ảo hóa không thật có .
Tất cả những khả năng
chúng ta có được với sự thành tựu phát sinh . Phụ thuộc vào sự tích lũy những dự
trữ phong phú những tiềm năng tích cực và sự rõ biết sâu sắc , dựa trên hình
dáng chư Phật và những khía cạnh đa dạng của Phật tính .
Một mặt , có thể
nhìn trong Bồ đề tâm có một trái tim và một tâm thức ngày càng bao la hơn .
Với Bồ đề
tâm qui ước , chúng ta mở rộng trái tim và mong muốn tỉnh thức để có thể hỗ trợ
tất cả mọi người . Với Bồ đề tâm sâu sắc
, tâm thức có khả năng lồng
vào tính không sẵn có ở tất cả hiện tượng . Với
Yoga toàn bộ , chúng ta thấm
nhuần trái tim và tâm thức Bồ đề
qui ước và Bồ đề sâu sắc trước khi đi vào cung điện Mandala Kalachakra .
Chúng ta mô phỏng
hình thức một vầng trăng màu trắng ở Chakra trái tim
và trở thành chày Vajra hay trượng
màu trắng . Đặt thẳng gốc trên vầng trăng . Phối ngẫu của vầng trăng này cầm
chày Vajra tỏa từ trái tim
của đạo sư
Kalachakra và hòa tan vào vầng trăng và trượng đã mô phỏng .
Điều này có tác
dụng ổn định và củng cố hai trình độ Bồ đề tâm , trong sự cảm nhận Kalachakra kết hợp với
người phối ngẫu - Vishvamata . Những loạt thệ nguyện đã thọ nhận ; và
hai trình độ Bồ đề tâm mô phỏng hình thành sự tập họp trong tâm thức tỉnh thức
cho sự trao truyền quyền năng hữu hiệu .
Những quan sát
viên đồng thời có thể rút ra những lợi ích lớn trong giai đoạn lễ khai tâm nếu
mô phỏng một vầng trăng và chày
Kim cang ở Chakra trái tim . Nhưng , dù là dự thính viên tích cực hay
quan sát viên . Chúng ta cũng được yêu cầu bảo tồn hai phẩm chất Bồ đề tâm đến
cuối nghi thức lễ khai tâm . Giai đoạn tiếp theo , chúng ta sẽ hòa tan vầng
trăng đặt trên chày kim cang trong chính mình .
Trước và sau khi đi vào Mandala .
Chúng ta phải hứa gìn giữ bí mật những quá trình lễ khai tâm . Điều này rất cần thiết .
Bằng không tâm
thức tỉnh thức không thể dùng làm nơi tập họp phù hợp cho sự trao truyền quyền
năng hữu hiệu . Như chiếc bình kín không làm mất đi một giọt nào bên trong . Do
đó , nếu được yêu cầu giữ bí mật những quá trình khác biệt cũng như những dạng
thức của sự thực hành về sau . Chính là để bảo tồn hiệu năng tính .
Có nghĩa , không phải
Mật tông chứa bất cứ điều gì mù mờ hay đáng chê trách . Nhưng kỹ thuật Mật tông
; rất cần thiết để chuyển hóa chúng ta mộtv cách sâu sắc và nếu tiết lộ , sẽ mất
đi sức mạnh của chuyển hóa .
Nếu kể lại cho
người sơ cơ mình tự mô phỏng thành Phật có bốn mặt và hai mươi bốn tay . Họ sẽ
trêu chọc và nói rằng chúng ta điên . Điều này sẽ có những phản ứng tàn phá
trên sự thực hành thiền định Mật tông ; và có nguy cơ làm chúng ta nghi ngờ lợi
ích của những tập huấn . Đây là những nguy hiểm được giải thích :
“ Chúng ta phải giữ bí
mật tuyệt đối những phương pháp thực hành Mật tông . Nếu có người hỏi về những
thiền định đang thể hiện . Chỉ có thể cung cấp những giải thích tổng quát ,
chẳng hạn như thao tác khả năng mô phỏng và làm việc cho sự hoàn thiện những
hình ảnh cá nhân , để có thể phát triển hành động trong sự sống tích cực hơn .
Trả lời càng ngắn gọn càng tốt ” .
Thực sư không ai
cần biết những phương pháp đặc trưng chúng ta thực hành hay nội dung về sự mô
phỏng . Một trong những thệ nguyện phụ của Mật tông là : “
Không phô trương những sự việc chỉ liên quan đến chính mình ” .
Vì lý do này ,
chúng ta được khuyên không treo trên tường trong phòng khách hay căn hộ riêng
những bức tranh hay những điêu khắc . Tượng trưng những thần linh Mật tông phẫn
nộ hay đang kết hợp tính dục với người phối ngẫu . Sự
kín đáo này để tránh trả lời những câu hỏi khó trả lời và những nhận xét làm
phật lòng . Càng giữ bí mật thực hành Mật tông , nó sẽ trở thành quí báu dưới
mắt chúng ta .
Không kể đến giải
thích cho những người không có tâm thức rộng rãi , cảm thông và đầy đủ để hiểu .
Vì chúng sẽ tạo những nguy cho sự hiểu lầm và làm họ bị rơi vào quan kiến đen
tối .
Nói chung , yên lặng
là phương tiện tốt nhất để tránh lầm lẫn tiếp nối không thấu hiểu . Những quan
sát viên cũng sẽ có được lợi ích khi không tiết lợ về những gì đã trải qua cũng
cùng lý do này .
Sau khi tâm thức tỉnh thức được chuẩn bị đầy đủ để đón nhận
.
Chúng ta có thể đi sâu vào cung điện Mandala Kalachakra .
Chúng ta đứng trước cửa Đông
với bandeau bịt mắt . Karmakaya - trợ tá Kalachakra sẽ hướng dẫn chúng ta
đi vòng theo chiều kim đồng hồ ở sân rộng bốn tầng bằng tất cả các hình dáng
đứng hay ngồi . Cuộc đi nhiễu ( kinh hành
) này thực hiện ở hành lang giữa sân
rộng và trung tâm Mandala . Để chứng
tỏ lòng tôn kính những đối tượng trong những giai đoạn khác nhau của lễ khai tâm
.
Sau đó , thực hiện sáu lần
ba lạy . Năm loạt những lễ lạy được thực hiện trước những vị Phật thuộc về năm
gia đình Phật - đôi khi gọi là : « Dhyani-boudha » như : Vairochana , Amogashiddhi ,
Ratnasambhava , Amitabha và Akshobhya . Lần thứ sáu được thực hiện trước đạo sư Kalachakra .
Năm chư Phật nam đứng
tầng thứ tư Mandala trong những khu riêng biệt , cùng màu với thành phần
tương ưng với đường nét của gia đình -
Akshobhya và là một với Kalachakra . Chúng ta lễ lạy họ tuần tự từ tầng trệt . Chẳng hạn ,
chúng ta lạy trước Akshobhya và đạo sư
Kalachakra ở sảnh hướng Đông .
Mỗi loạt lễ lạy , những dự
thính viên tích cực được mô phỏng dưới khía cạnh Phật tương ưng và cũng mô phỏng
phối ngẫu của vị Phật này tách rời khỏi Mandala đến hòa
tan vào từng nơi riêng biệt của thân vật lý . Thứ tự từng gia đình chư Phật ,
màu sắc và chiều hướng không gian được chỉ định thay đổi theo chức năng tùy thuộc vào hệ thống Mật tông của
Lama trao truyền lễ khai tâm . Riêng hệ thống Kalachakra hoàn toàn khác với
những hệ thống khác của đẳng cấp Anuttara Yoga Mật tông .
Như đã nói nhiều lần , sự đối
xứng hoàn toàn là một khái niệm huyễn hoặc . Mật tông Kalachakra đặt mỗi Dhyani - Boudha một màu và một hướng không gian theo thành phần tượng
trưng cho sự thô lỗ của tâm thức chúng ta .
Về lễ lạy , hệ thống
Kalachakra nói rõ : « Được thực hiện theo một thứ tự nào đó . Cũng như thứ tự sẽ
giảm dần những thành phần thô lỗ của tâm thức với mỗi vị Phật tượng trưng »
.
Nếu dựa vào bản đồ Bắc Mỹ , trước
tiên phải lễ lạy ở trung tâm trước Akshobhya ( ở New York ) màu xanh lá , với
thành phần tương ưng là không gian . Hướng Đông , trước Amoghasiddhi màu đen ,
kết hợp với thành phần không khí . Sau đó , bắt đầu kinh hành ở trên sân
cao,theo chiều kim đồng .
Mượn hành lang nằm giữa sân và
trung tâm Mandala cho đến hướng Nam ( Mễ tây cơ ) , nơi lễ lạy trước
Ratnasambhava màu trắng , kết hợp với thành phần lửa . Tiến đến hướng Bắc (
Canada ) để tôn vinh Amitabha màu trắng , kết hợp với thành phần đất . Giữ những
đường nét Vairochana , chúng ta trở về trung tâm ( New York ) màu đen , nơi lễ
lạy trước Kalachakra - đạo sư của chính mình .
Nếu tiết điệu nghi thức quá
nhanh và không theo kịp . Không gì phải hoảng sợ . Trước hết nên phát sinh và
bảo tồn một tình cảm tôn kính sâu sắc trong khi lễ lạy trước những gia đình chư
Phật khác nhau .
Khi người phối ngẫu của một vị
Phật tách rời khỏi Mandala để đến hòa tan nơi vị Phật chúng ta mô phỏng trước
đây . Có thể diễn dịch điều này như một cử chỉ chào mừng riêng về phần họ . Nếu
như cá nhân ngài tiếp cận chúng ta trong cung điện Mandala Kalachakra và chúng
ta dấn thân ở với ngài .
Những quan sát viên , do lòng
tôn kính muốn tham gia vào nghi thức riêng biệt , sẽ được thể hiện những lễ lạy
hay chứng tỏ mọi dấu ấn tôn kính với những chư Phật khác nhau- mà vẫn mô
phỏng Kalachakra đơn giản .
Trước khi theo
đuổi . Đạo
sư Kalachakra nhắc nhở lời hứa bí mật mà đã thực hiện . Nhất là, qui luật chính của
Mật tông - Không bao giờ dèm pha
đạo sư mình . Điều này tương ưng với thệ nguyện Mật tông nền tảng thứ nhất . chủ
yếu là từ khước sự xem thường vị thầy mình . Vì nghĩ rằng ông nói tầm bậy , làm
sao chúng ta có thể tin tưởng những giáo huấn của ông ? .
Nhất là chúng ta
đã từng nghĩ đến tư cách vị thầy trước khi đến những nơi chốn lễ khai tâm . Như
Tsenzhab Serkhong
Rinpoché thường nói : “
Đừng lấy thí dụ về người lao vào chiếc hồ lạnh cóng , rồi quay lại và đập vào
đá với một chiếc gậy để đảm bảo nó chắc chắn và đủ sức chịu đựng ”
.
Đạo sư Kalachakra của
chúng ta nói rằng : “ Chúng ta đã có thời gian suy nghỉ về những phẩm chất ngài
; truớc nghi thức lễ khai tâm và giờ đây đã đến giây phút trao truyền hữu hiệu
quyền năng Mật tông Kalachakra ” .
Những dự thính
viên tích cực rõ biết về cá tính nghiêm trọng những giai đoạn họ sắp sửa vượt
qua . Về những quan sát viên , họ cũng cảm nhận một tình cảm tôn kính đối với
đạo sư .
Họ không có mặt để phê
phán hay chỉ trích ông . Nhưng để được làm quen với Mật tông . Nhất là với những
giáo huấn do hệ thống Kalachakra đề nghị . Họ sẽ cảm nhận đây là cái gì đó rất
thu hút và thật chân thành .
Nói chung ,
Chúng ta chuẩn bị đón nhận sự trao truyền quyền năng khi tự mô phỏng thành những môn sinh « Dấn thân » .
Điều này có chủ ý tạo ra
những quan hệ mật thiết với Phật Kalachakra
. Sau đó , hình dáng chúng ta tạo ra sẽ
được dùng làm nơi tập họp cho những quyền năng khác biệt được trao truyền
.
Rồi vị thầy khẩn cầu những người
có sẵn rõ biết sâu sắc – « Những người minh triết » hòa tan vào từng Chakra của
chúng ta . Với hình ảnh phát sinh từ họ từng người một . Điều này có tác dụng
cũng cố những mô phỏng . Hệ thống Kalachakra đã giải thích rất rõ ràng quá trình
này .
Như đã thấy ở chương nói
về Kalachakra bên trong
. Hơi thở đi qua mũi bên trái nhiều hơn bên phải theo những giờ trong
ngày . Mỗi lần thay đổi hiện tượng , nó
tự cân bằng trong hai lỗ mũi từ một số hơi thở . Chúng , được xem
như « Những
hơi thở rỏ biết » mượn kinh mạch năng lượng trung ương của thân vi tế .
Hơi thở bình thường mưọn kinh mạch này . Suốt thời gian những hơi thở rõ biết
vận hành trong giai đoạn phát triển .
Nhưng trong thực hành giai đoạn
thành tựu . Với mục đích chuyển hóa tất cả những hơi thở và cơn gió năng lượng
thành rõ biết sâu sắc ; nhờ vào những kỹ thuật Yoga . Chủ ý thu hút năng lượng
vào bên trong kinh mạch trung ương .
Sau đó hòa tan vào sáu Chakra
chính , có tác dụng biểu lộ tâm thức tỉnh thức . Giúp chúng ta phát sinh niềm rõ
biết sâu sắc tính không . Hơi thở và những cơn gió năng lượng di chuyển trong
kinh mạch trung ương được gọi là rõ biết sâu sắc trong chiều hướng chính xác .
Chúng cho chúng ta niềm rõ
biết sâu sắc về tính không ; và được tượng trưng bằng Vajravega - Thành phần
phẫn nộ Kalachakra . Vì thế cần mô phỏng mình đang thu hút vào từng
Chakra những người sẵn có niềm rõ biết sâu sắc .
Hòa tan với những hình tướng
được mô phỏng , có tác dụng dẫn hơi thở và những cơn gió năng lượng rõ biết sâu
sắc ở bên trong kinh mạch trung ương của thân vi tế . Với mục đích theo đuổi sự
sở hữu niềm rõ biết sâu sắc tính không . Và sự rõ biết sâu sắc ánh sáng tỉnh
thức tính không sẽ phát sinh những hình tướng trống rỗng Kalachakra .
Những hình tướng trống rỗng . Hợp
thành những tập họp ổn định sự trao truyền quyền năng và thành tựu tỉnh thức của
những hình tướng đến từ sự mô phỏng . Hòa tan những con người minh triết và
Chakra phù hợp của thân vật lý để củng cố khả năng đón nhận những trao truyền
quyền năng tiếp theo .
Quá trình này dùng mô phỏng thành Vajravega màu xanh dương
.
Nhưng những quan sát viên chưa được tham gia vào sự mô phỏng này . Vajravega có bề ngoài một Kalachakra phức tạp , khuôn mặt nhìn trước rất phẫn nộ và có thêm hai tay . Tổng cộng có hai mươi sáu tay .
Những dự thính viên tích cực
mô phỏng thành phần thân vật lý và thân thượng giới thích nghi với Chakras ở rún
, trái tim , cổ và trán . Với nhưữg màu sắc của giọt vi tế tương ưng
: vàng , đen
, đỏ và trắng . Những chùm ánh sáng tỏa ra từ nguyên âm mầm , đánh
dấu bốn thân thượng giới cũng như trái tim
Kalachakra . Những chùm ánh sáng này
trở lại với bốn hình dáng chư Phật cùng những màu sắc : Vàng , đen, đỏ và
trắng . Mang những tên như : Sự chú ý sâu sắc Vajra -
Tâm thức Vajra - Ngôn ngữ Vajra và Thân Vajra
.
Sau đó hòa tan trong nguyên âm
mầm tương ưng . Quá trình này là biểu tượng thu hút những cơn gió năng lượng rõ
biết sâu sắc vào kinh mạch trung ương của thân vi tế . Sau đó hòa tan vào bốn
Chakras kết hợp với bốn giọt vi tế .
Tại đây , chúnbg ta lần đầu
tiên sẽ để ý đến sự bất đồng giữa những nghi thức khác biệt về lễ Khai tâm Kalachakra .
Butön không đề cập đến những chùm ánh sáng toả ra từ bốn
Chakras kết hợp với những giọt vi tế . Ông chỉ nhắc đến những chùm ánh sáng toả
ra từ trái tim Kalachakra .
Kongrül cũng theo quan điểm
của Butön . Ngài không đề cập đến sự mô phỏng ở rún - Trung khu thần kinh rõ biết sâu sắc
Vajra . Hai thí dụ này , chứng tỏ
những bất đồng về việc rút ngắn quá trình được đức Đạt lai lạt ma thứ VII soạn
thảo .
Tùy theo hoàn cảnh , những vị
thầy trao truyền lễ Khai tâm
Kalachakra , văn bản dựa vào những
phiên bản tóm tắt riêng của những kỹ thuật mô phỏng . Nhưng , cho dù bất cứ
phiên bản nào Lama sử dụng . Nghi thức khẩn cầu những người sẵn có niềm rõ biết sâu sắc ( Các vị thầy )
. Những dự thính viên cũng mô phỏng những thành
phần năng lượng gió và những vầng sáng lửa dưới chân họ .
Sự mô phỏng riêng biệt này được
dùng trong những thực hành dành , để đánh thức Tummo - Ngọn lửa bên trong hay
nội nhiệt bí mật ở Chakra rún . Khi được đánh thức cho phép di chuyển những cơn
gió năng lượng vào kinh mạch trung ương của thân tế nhị . Sau đó , chúng ta thấy
những người sẵn có rõ biết sâu sắc rơi như mưa dưới những đường nét Kalachakra
và Vajravega .
Và rồi hòa tan trong chúng ta .
lúc đạo sư Kalachakra lắc chiếc chuông được nắm trong tay trái . Để bảo đảm
những cơn gió khác biệt của rõ biết sâu sắc được hòa tan tốt trong sáu Chakras
tương ưng . Khi chúng ta mô phỏng
từng cá nhân từ nguyên âm - mầm tương ưng và màu sắc phù hợp .
Tầng lớp những mô
phỏng này rất khó thể hiện . Ngoại trừ những hành giả đã có sự trải nghiệm thiền
định rộng rãi và sâu sắc . Những người chưa thể hiện được sự mô phỏng , sẽ được
nhắc nhở giai đoạn nghi thức Kalachakra , nhằm phát sinh trong họ cảm nhận bốn hình
dáng những chư Phật ( Chú ý sâu sắc Vajra, Tâm Thức Vajra , Ngôn ngữ Vajra và Thân Vajra
) . Vào lúc năng lượng Kalchakra và Vajravega rơi xuống như mưa
và hòa tan vào bản thể sâu sắc nhất của họ .
Nhờ vào cơn mưa
này , chúng ta cảm nhận tất cả những năng lượng được tích lũy và tiêu dần dần .
Kết quả thực hành , dùng để củng cố hình tướng riêng biệt dưới khía cạnh năm gia
đình chư Phật . Điều này chuẩn bị cho chúng ta đón nhận những trao truyền quyền
năng tiếp theo .
Cần tránh xa mọi tư
tưởng cố thuyết phục về sự không hiện thực của những hình tướng đang mô phỏng .
Vì chúng ta rất cần sự cảm nhận sức mạnh và sự sống theo chiều hướng hiện thực
hơn lúc còn đang lầm lẫn . Chúng ta cần trực nhận được thấm nhuần như mảnh đất
sau cơn mưa xuân và được mưa làm màu mỡ .
Những quan sát
viên có thể tự hài lòng với cảm nhận cảm giác như một buổi tắm mát đầy sảng
khoái , tuy không tham gia chính thức vào sự mô phỏng . Họ vẫn có thể mô phỏng ở
một nơi khuất gió , thưởng thức sự phục hưng do cơn mưa này gây ra cho chính họ
và môi trường .
Sau khi rút bandeau ra khỏi mắt và nhận ra màu sắc đầu tiên
vừa thấy ,
sẽ cung cấp chỉ định về những thành tựu tương lai . Chúng ta đi kinh hành ba lần ở nền cao theo hướng kim đồng hồ ở hành lang lúc trước .
Đạo sư chúng ta -
Kalachakra . Với những đừng nét hỗ
trợ đi xuống tầng ba đến gần kề chúng ta . Những dự thính viên tích cực mô phỏng
ông dưới những đường nét Vajravega màu
đen đứng trước sảnh vào hướng Đông
.
Trong sự mô phỏng này , vị
thầy trao truyền quyền năng đứng trước Mandala làm bắng cát . Ông tụng đọc những
đoạn thơ ngắn gọi là những « Lời của sự
thật » , cho phép những môn sinh sáng tỏ gia đình Phật nào
họ cảm nhận tương thích nhất . Riêng những quan sát viên đứng sát góc phòng,
dưới những đường nét của một Kalachakra đơn giản .
Những môn sinh chính và một
người đại diện cho những dự thính viên tích cực . Tiến tới với chiếc hoa được
ban cho ngay buổi sáng . Với chiếc hoa giữa hai bàn tay khép lại , đơn giản họ
đặt nó vào Mandala .
Vừa đi vừa tụng đọc Mantra , để
hoa xuống mâm rồi trở lại chỗ ngồi lễ khai tâm . Góc Mandala , nơi nhánh bông
rơi xuống sẽ chỉ định đường nét đặc trưng hay biểu hiện gia đình chư Phật nào họ
cảm thấy tương thích .
Trong tương lai , mỗi Yoga
sáu thành phần trong mười chín quan hệ mật thiết của thực hành . Chúng ta sẽ
nhấn mạnh đặc biệt trên những gì mật thiết nhất với gia đình chư Phật tương ưng
.
Giả định hoa rơi vào góc Nam của
Mandala - Ratnasambhava . Chúng ta luyện tập đặc biệt vào bốn mô hình rộng lượng
có khả năng tạo ra những quan hệ mật thiết với Ratnasambhava , để dễ dàng cho sự
phát sinh niềm rõ biết sâu sắc bình đẳng tất cả chúng sinh . Đây là con đường
cho phé tiến bộ điều đặn nhất trong thời gian nào đó về con đường tỉnh thức
.
Tương tự , là dự thính viên
tích cực . Chúng ta đón nhận một cái tên bí mật , phát xuất từ tên hình dáng nam
của gia đình chư Phật này . Nếu vị Phật này là Ratnasambhava ,
pháp danh này có thể là Ratnavajra .
Tên bí mật không cần dùng trong
cơ hội lặp lại những thệ nguyện của lễ khai tâm Kalachakra về sau hay trong sự
thực hành về nghi quỹ . Và cũng không cần sử dụng trong bất cứ hoàn cảnh khác
nào khác .
Giả sử như phần đông hành giả
Mật tông đón nhận nhiều trao truyền quyền năng . Họ sẽ tự khám phá những tương
thích với những gia đình chư Phật khác . Pháp danh ban suốt lễ khai tâm không
được xem là pháp danh cuối cùng . Vì nó chỉ nhắc nhở nhu cầu riêng biệt trong
một thời gian nào đó .
Nếu trong lễ khai tâm tiếp ,
hoa rơi vào trong góc khác của Mandala . Chúng ta
sẽ đón nhận pháp danh khác đặt mạnh về mối quan hệ mật thiết trong sự thực
hành Yoga sáu phần . Đạo sư Kalachakra , trả hoa lại bằng cách đặt trên đầu chúng ta . Sự
tiếp xúc này xem như tái nối kết với niềm rõ biết nội hỉ - tính không
.
Ở chương kế , sẽ nói đến
những mô hình phát sinh niềm rõ biết , liên quan đến những quan sát viên .
Chúng ta sẽ biết làm sao họ có
thể thao tác để cảm nhận mạnh mẽ giai đoạn riêng biệt này ; và tất cả những giai
đoạn tiếp theo .
Đạo sư chúng ta - Kalachakra , quay trở lại tầng thứ ba Mandala trở về ngai lễ khai tâm . Chúng ta rút bandeau khỏi mắt và với sức mạnh mô phỏng , nhìn thật sắc bén vào tất cả những chi tiết Mandala Kalachakra . Đạo sư chúng ta - Kalachakra , sẹ diễn tả và giải thích tất cả những hình dáng của Mandala . Sau đó chúng ta tụng đọc những đoạn thơ ngắn có chức năng sáng tạo những quan hệ mật thiết với mỗi quan hệ . Ngày đầu những trao truyền quyền năng hữu hiệu nói chung sẽ được kết thúc với những giải thích như thế .HET=OM MANI PADME HUM.( 3 LAN ).GESHE TASHI TSERING.( MHDT ).14/4/2012.( MHDT ). |
Friday, 13 April 2012
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment