Friday, 13 April 2012

XI-Ngày thứ hai trao truyền
quyền năng hữu hiệu

Con đường tỉnh thức do Mật tông đề nghị nói chung .
Bao gồm ba dạng thức lễ khai tâm :
Dạng thứ nhất :
Lễ khai tâm nhân quả
Được xem như khơi mào quá trình thành thục . Sự trao truyền nhờ vào nghi thức tương tự lễ Khai tâm Kalachakra . Lễ khai tâm nhân quả , chủ ý loại trừ những chướng ngại thô lỗ nhất và gieo những hạt mầm tự nhờ vào những thực hành ở giai đoạn sáng tạo và thành tựu . Như vậy lễ khai tâm nhân quả có thể được xem như nhân của sự thành tựu tỉnh thức .
Dạng thứ hai :
Con đường được trao truyền .
Sau khi chủ động được giai đoạn thành tựu
.
Sự chủ động tiệm tiến của giai đoạn thành tựu , sẽ loại trừ những chướng ngại vi tế nhất đến tỉnh thức . Có nghĩa chúng ta giải phóng chướng ngại vi tế và con đường trao truyền quyền năng được thực hiện từ từ ; với những giai đoạn khác biệt . Như thế chúng ta lúc nào cũng tiến gần đến tỉnh thức .
Dạng thứ ba :
Kết quả hay trái .
Sự giải thoát hòa lẫn với thành tựu tỉnh thức .
Tỉnh thức loại trừ những chướng ngại . Chia cách chúng ta với thông suốt mọi sự ; với những khả năng hỗ trợ tha nhân với những phương tiện bất tận . Hơn nữa , lễ khai tâm nền tảng bao gồm căn bản . Và tâm thức tỉnh thức mang lại quyền năng thực hành một trong ba giai đoạn tỉnh thức .
Trong bốn trường phái Phật học Tây tạng . Trường phái Nyingmapa nghiên cứu đầy đủ nhất với Dzogchen hay Đại Toàn Thiện . Tâm thức tỉnh thức hoàn toàn vô sự trước mọi chướng ngại và bế tắt . Với bản chất vắng bặt mọi chướng ngại và bế tắt . Nó chỉ tạm thời bị những cơn gió nghiệp , cảm xúc và những thái độ nhiễu loạn che mờ vì chúng ta cho rằng hiện tượng là thực .
Theo chiều hướng này , có thể nói : « Sự thuần khiết tự nhiên của tâm thức tỉnh tỉnh thức là yếu tố mang lại quyền năng loại trừ những ô nhiễm liên quan đến trạng thái rõ biết dung tục » .
Nếu bóng tối lúc nào cũng cố thủ trong tâm thức tỉnh thức . Thực sự không thể tịnh hóa và không thể nào đạt đến sự tỉnh thức . Hơn nữa , tâm thức tỉnh thức bao gồm tập họp những thuộc tính của chư Phật . Cho dù đang trong trạng thái ảo tưởng .
Nói cách khác , chúng hiện hữu ở giai đoạn dấu ấn như những tiềm năng . Được chỉ định bằng thuật ngữ bản chất Phật - Phật tính . Điều này bao gồm những yếu tố khác biệt cho phép chúng ta đạt đến tỉnh thức . Sự thực hiện tiệm tiến tâm thức tỉnh thức làm phong phú thêm bản chất Phật và đi đến trưởng thành . Thế là chúng ta cho phép đến phiên mình trở thành Phật .
Suốt quá trình lễ khai tâm ngày thứ hai . Vị thầy Vajra yêu cầu dự thính viên tích cực cảm nhận liên tục tính ( continuum ) - Rõ biết dòng chảy bất tận và liên tục của tâm thức tỉnh thức . Vượt qua chứơng ngại và hạt mầm tỉnh thức được gieo vào tâm thức tỉnh lặng .
Phải biết quá trình này được dẫn đến điều gì để có thể hiểu đầy đủ ý nghĩa . Chìa khóa sự lãnh hội này hiện hữu trong mối quan hệ giữa sự trao truyền quyền năng nhân quả và sự trao truyền quyền năng sáng tạo mang đến .
Khi một trong những yếu tố Phật tính
tiếp xúc với tâm thức lầm lẫn .
Nó kích thích một trong ngũ uẩn .
Điều này sẽ phát sinh trải nghiệm bình thường .
Nếu lấy thí dụ sự rõ biết sâu sắc bình đẳng mọi chúng sinh . Uẩn này là xúc cảm có thể được xem là hạnh phúc hay nỗi buồn . Nó làm chúng ta mất khả năng phân biện sự đồng đẳng tất cả chúng sinh là gì và thản nhiên cho phép hành động trong sự chi phối toàn diện của cảm xúc .
Thái độ này được đánh dấu đầy như vừa kiêu hảnh vừa keo kiệt .Chúng ta tưởng mình cao hơn người và sẵn sàng không chia xẻ . Tính tự kỷ che mờ sự rõ biết , ngấm ngầm ngăn chận chúng ta trực nhận sự bình đẳng với chúng sinh .
Đồng thời nhìn tất cả mọi người cùng một cái nhìn . Như thế chúng ta phải chịu đựng những điều bất ngờ của tính khí . Có nghĩa buồn vui theo những thăng trầm về tình cảm của uẩn . Tịnh hóa uẩn này nhờ vào lễ khai tâm dạng nhân quả . Không có nghĩa không bao giờ tránh khỏi lầm lẫn hay niềm kiêu hãnh và keo kiết phát sinh từ lầm lẫn .
Lễ khai tâm dạng nhân quả , chỉ giúp nối liền khía cạnh Phật tính vốn là nền tảng của ngũ uẩn . Cũng như niềm rõ biết tính bình đẳng với chúng sinh . Khía cạnh này được Ratnasambhava giới thiệu trong Mandala Kalachakra , để khẳng định xúc cảm thuộc về uẩn cùng bản chất với đường nét đặc trưng của Ratnasambhava ; để nhận ra nền tảng , cũng như niềm rõ biết sâu sắc bình đẳng với tất cả chúng sinh .
Lễ khai tâm nhân quả kết hợp với lễ khai tâm khai sáng ; phát sinh trong chúng ta niềm xác tín về thực hành giai đoạn sáng tạo và đến thành tựu . Cũng như lễ khai tâm con đường và lễ khai tâm kết quả , có khả năng đánh tan mãi mãi những chướng ngại duy trì trong tâm thức do xúc cảm kết hợp với tâm thức lầm lẫn .
Hạt rõ biết sâu sắc được gieo trồng vào tâm thức .
Trong lễ khai tâm nhân quả , tương thích với tâm thức tỉnh thức .
Vì sự rõ biết sâu sắc bình đẳng chúng sinh đã sẵn có trong Phật tính .
Đây là hạt mầm hiện hữu sẵn trong dòng chảy rõ biết . Chúng ta có thể kiểm chứng theo chiều hướng nào đó . Nó đã vận hành từ lâu trong chúng ta . Cũng như , mỗi người đều có khả năng nhìn những chiếc áo sơ mi trong cửa hàng với những số khác biệt và kết luận : Những món đồ này cùng một phạm trù có tên là « Áo sơ mi » .
Hạt mầm trong lễ khai tâm nhân quả gieo trồng sẽ cũng cố hạt sáng tạo . Nên cùng vận hành để phát sinh sự rõ biết về con đường và niềm rõ biết sâu sắc thuộc kết quả về sau . Dù những hạt nhân quả và sáng tạo vận hành chung với nhau , chúng cũng phân biệt bằng một phương cách nào đó .
Có hai dạng thức những hạt sáng tạo ( hay Phật tính ) gọi là sẵng có và tiến hóa . Cả hai là bộ phận của : Tính liên tục ( continuum ) – Sự rõ biết không khởi đầu . Nhưng cái thứ nhất dưới dạng thức sẵn có , còn cái kia dưới khía cạnh tiến hóa .
Dù vậy cả hai đều là những yếu tố để thành tựu những thân khác biệt như một vị Phật . Những yếu tố sẵn có có mặt trong trạng thái Phật , dưới những hình dáng tịnh hóa cũng như những thân khác biệt khác của Phật .
Những yếu tố tiến hóa cũng được chuyển hóa thành thân Phật , nhưng biến mất ở thành tựu tỉnh thức . Nếu so sánh với hạt của cây với cây đến tuổi trưởng thành . Có thể nói : « Hạt nguyên thủy không còn hiện hữu như nó đã là » .
Quan điểm cuối cùng này gợi lên nhiều tranh cải . Vì nhiều vị thầy Mật tông xem năm dạng thức rõ biết sâu sắc như những Phật tính sẵn có . Lý do viện dẫn là duy trì trong trạng thái Phật , dù dưới một hình dáng tịnh hóa cũng như năm dạng thức rõ biết sâu sắc của một vị Phật .
Hạt nhân quả được gieo trồng trong tâm thức chúng ta suốt lễ Khai tâm Mật tông là : Điểm khởi hành cho sự tịnh hóa . Cho phép chúng vận hành hữu hiệu hơn . Theo chiều hướng này . Có thể nói : Hạt nhân quả cung cấp môi trường cần thiết cho hạt sáng tạo tưởng thành . Những yếu tố tiến hóa bao gồm kho lưu trử tiềm năng tích cực rất phong phú và sự rõ biết sâu sắc .
Với tỉnh thức , chúng chuyển hóa tiềm năng tích cực thành thân hình tướng ( Rupakaya ) - Sự rõ biết sâu sắc bao trùm mọi sự việc . Có nghĩa không hình tướng ( Dharmakaya ) và tan biến vào ánh sáng .
Những hạt mầm gieo trồng trong tâm thức những dự thính viên suốt lễ khai tâm Mật tông . Đóng góp sự chín mùi những hạt trong kho lưu trữ tiềm năng tích cực và niềm rõ biết sâu sắc . Đồng thời loại trừ những chướng ngại ngăn chận sự phát triển . Nhưng còn một khía cạnh khác của Phật tính , có thể trợ giúp sự trao truyền quyền năng . Đó là : Tâm thức tỉnh thức .
Chính nó cho phép khía cạnh nhân quả và sáng tạo được thọ nhận bởi ảnh hưởng của chư Phật . Nhờ vào tâm thức ánh sáng tỉnh thức . Những hạt nhân quả được gieo trồng trong tâm thức với sự trao truyền quyền năng . Có thể chuyển hóa thành những hạt sáng tạo nơi thân Phật .
Có thể nói : Những yếu tố sẵn có nhờ vào tâm thức tỉnh thức ; sẽ khởi động quá trình tịnh hóa . Riêng những yếu tố tiến hóa , chúng sẽ khởi động cho sự phát triển những hạt sáng tạo .
Bốn giọt vi tế của hệ thống Kalachakra ;
không chỉ là những khía cạnh sẵn có của Phật tính .
Cũng không hơn những hạt sáng tạo .
Có thể nói chúng là những cánh cửa đi vào những khía cạnh khác biệt của tâm thức tỉnh thức sẵn có của Phật tính và hợp thành những hạt sáng tạo . Những giọt tinh tế của thân , lời , tâm thức và của niềm rõ biết .
Hợp thành những cánh cửa , qua đó tâm thức tỉnh thức có thể phát sinh một cách riêng biệt . Những biểu lộ thô lỗ , những biểu lộ tế nhị . Cũng như những âm thanh , những trạng thái không quan niệm và niềm rõ biết về nội hỉ - tính không .
Khi những cơn gió nghiệp tích tụ quanh bốn giọt vi tế và làm che mờ . Tâm thức sẽ mờ đục và rơi vào lầm lẫn . Trong trường hợp này , trực nhận về hiện thực biến dạng cho phép về bốn dạng thức trải nghiệm đánh lừa chúng ta đã hoàn toàn rõ biết :
1-Những biểu lộ thô lỗ ở trạng thái thức .
2-Những biểu lộ tế nhị về những âm thanh trong trạng thái mơ màng .
3-Trạng thái tâm thức không quan niệm của giấc ngủ sâu
4-Niềm nội hỉ cực độ .
Khi bốn giọt tế nhị này vắng bặt mọi che mờ phù du . Những giọt nền tảng chứa đựng trong tâm thức tỉnh thức thay vì phát sinh bốn dạng thức trải nghiệm đánh lừa sẽ phát sinh bốn thân một vị Phật .
Bốn thân Phật hiện hữu song song với bốn trạng thái đánh lừa để thay thế . Những biểu lộ của Nirmakaya - Thân Thiên Xạ , thay thế những biểu lộ thô lỗ của trạng thái tỉnh . Những biểu lộ tế nhị với ngôn ngữ tế nhị của Sambhogakaya - Thân Lạc Thú , thay thế những biểu lộ tế nhị thông thường , với những âm thanh nghe được trong trạng thái mộng .
Tâm thức thông suốt cùng khắp phi quan niệm của Jnana – Dharmakaya - Thân Rõ Biết Sâu Sắc Bao Trùm Mọi Sự , thay thế sự trống không tâm thức của trạng thái giấc ngủ sâu . Cuối cùng , niềm rõ biết nội hỉ thông suốt cùng khắp của Svabhavakaya - Thân Căn Bản , thay thế niềm nội hỉ cực độ in vết lầm lẫn .
Chỉ hệ thống Kalachakra khẳng định thân cuối cùng này và tâm thức nội hỉ cùng khắp của chư Phật là một và hoàn tòn giống nhau .
Những hạt mầm được gieo trồng trong tâm thức của những dự thính viên suốt lễ Khai tâm Kalachakra bắt đầu giảm thiểu sự che mờ bốn hạt vi tế và vận hành như môi trướng của những hạt sáng tạo . Cũng cố và phát sinh những nguyên nhân của sự thực hiện bốn thân Phật với sự thực hành giai đoạn thành tựu .
Ở giây phút tỉnh thức , bốn hạt vi tế tan biến dần . Chúng được chuyển hóa cùng với những gì còn lại của thân vật lý thành ánh sáng cầu vòng . Trong khi những hạt sáng tạo vận hành bên trong trở thành bốn thân Phật . Đây chính là quá trình tịnh hóa bốn giọt vi tế sẵn có được và xuyên qua nó chuyển hoá thành bốn thân Phật .
Lễ khai tâm nhân quả gieo hai dạng hạt mầm vào tâm thức :
Dạng thứ nhất diễn dịch bằng trải nghiệm tức thời .
Dạng thứ hai có thể được xem như dấu ấn ;
do trải nghiệm trong liên tục tính rõ biết để lại .
Đây là sự in dấu .
Tiềm năng sâu sắc sẽ được phát triển trong thực hành Mật tông
thuộc những hệ thống đẳng cấp
Anuttara Yoga Mật tông .
Trải nghiệm tức thời là trải nghiệm niềm nội hỉ - tính không . Có đức tính loại trừ một cách từ từ sự lầm lẫn và những chướng ngại bằng rõ biết trong liên tục tính rõ biết . Như thế , nó phát sinh tất cả những phẫm chất tốt cần thiết cho chúng ta tiếp cận để đi đến tỉnh thức .
Đức Đạt lai lạt ma thứ VII giải thích :

« Phần đông , nhất là với những ai ít thực hành thiền định .
Rất khó khăn để phát sinh niềm rõ biết nội hỉ
trong lễ khai tâm Kalachakra .
Dù vậy mấu chốt để cảm nhận chính là tình cảm xây dựng .
Nếu không ,
ở đây không thể thể hiện sự trao truyền quyền năng » .
Vì thế nên phát sinh sự rung động trong niềm hạnh phúc . Cho dù bằng cách này hay cách khác , nên tập trung vào đó để hiểu khái niệm về tính không . Nhưng không nhất thiết ở trình độ lãnh hội nào .
Dù niềm rõ biết nội hỉ - tính không phát sinh thật yếu . Nó cũng hợp thành điểm tham khảo cho thực hành về sau . Nếu không thật sự trải nghiệm niềm nội hỉ - tính không tối thiểu . Chúng ta không có bất cứ căn bản nào để làm việc cho thiền định riêng về trải nghiệm niềm nội hỉ - tính không .
Trong suốt lễ Khai tâm Kalachakra . Có thể so sánh như hạt mầm phát triển dần dần cho sự thực hành Mật tông . Đây không phải kỷ niệm đáng nhớ về đám đông hay sự rực rỡ hào nhoáng trong nghi thức . Đó chính là : Sự bối rối khi cảm nhận trước những bài tập mô phỏng , để có thể giúp tiến bộ trên con đường Mật tông .
Sau khi để rơi bông hoa trên mâm chứa Mandala bằng bột màu . Ngay giây phút Lama đặt lên đầu chúng ta một tràng hoa . Lúc ấy không thể cảm nhận mảy may cảm xúc hoan hỉ nào .
Chỉ có thể nghĩ đến dấu ấn về hạnh phúc đã biết như : Sự ra đời của em bé hay sự trở về của thân bằng quyến thuộc chẳng hạn . Với những gì liên quan đến khái niệm tính không sẵn có trong tất cả hiện hữu . Từ đó chúng ta được yêu cầu phải tập trung quyết liệt .
Tôi sẽ cho thí dụ về những gì được sử dụng trong suốt những buổi hội thảo tôi đã làm ở Thụy Sĩ – Rikon . Nhân lễ Khai tâm Kalachakra do Đức Đạt Lai Lạt ma trao truyền vào tháng 7 năm 1985 .
Thật cực kỳ nóng bức và có ai đó rất dễ thương ;
đã đặt một chai cam tươi trước mặt tôi .
Đi từ nguyên lý của sự việc . Chai nước cam vắng bặt hiện hữu nội tại về một lý lịch riêng biệt . Bạn sẽ tự thuyết phục . Nó đang có mặt với những đặc trưng cố hữu nào đó . Bạn sẽ tin ; mình có rõ biết hay không về chai này,hay có cái gì đó tạo ra một lý lịch nội tại thường trực hiện hữu về nó .
Bạn có thể suy nghĩ : « Chai nước cam vừa đặt trước mặt tôi thuộc về tôi và cấm ai đó chạm vào nó » hay « Ồ , nước cam này quá lạnh . Tôi không chịu nổi những thức uống lạnh . Hơn nữa chưa bật nấp , điều này thật bất tiện . Vì mỗi khi khui một chai như thế , tôi bị đứt tay . Có nghĩa chai nước cam này tôi không thích lắm ” .
Như thế cái chai nước cam đã trở thành sự thách thức . Có thể nói , bạn tưởng nó có một lý lịch . Và với những đặc trưng riêng biệt sẽ gây cho bạn nhiều phiền phức . Vì thế bạn từ khước hảo ý của người mang đến cho bạn .
Như thế , quan kiến về chai nước cam có thể mang những đặc trưng riêng biệt . Và rồi bạn tự thuyết phục mình trong sự lẫn lộn về trạng thái và cách hiểu về nó . Như vậy , có thể dẫn đến sự bực bội và thấy phiền phức .
Nhưng làm sao một chai nước cam lại có thể có hiện hữu nội tại ? . Nó không thể cảm nhận bất cứ một ác tâm nào hay cố ý làm chúng ta thất vọng . Chằng qua vì chúng ta có một cái nhìn không thích đáng .
Phương cách chúng ta nhìn đã thể hiện sự huyễn hoặc và diễn đạt những gì không thể . Hoàn toàn đi ngược với hiện thực . Một chai nước cam không thể cố ý làm phiền ai . Ngay cả nó được ướp lạnh và cái lạnh có thể làm đau bao tử .
Nếu nó có thể tạo ra những phiền toái hay làm thất vọng bằng những phẩm chất riêng biệt . Như thế ai cũng phải bị phiền nhiễu và rối loạn . Nên nhiều người đã đến nghe ngày hôm đó . Thật sự vui sướng được uống nước cam và không rơi vào thất vọng hay nhàm chán vì nó được ướp lạnh .
Tính không , tương đương với hoàn toàn vắng bặt những mô hình được huyễn hoặc và không thể . Chỉ do chúng ta diễn đạt thay người khác , vật thể hay hoàn cảnh theo những mô hình trái ngược với hiện thực . Phóng chiếu vào chúng những huyễn hoặc xuất phát từ tâm thức lầm lẫn của chính mình .
Trong suốt lễ khai tâm , rất tốt nếu hiểu dù trong trình độ nào khái niệm về tính không . Nghi thức lễ khai tâm cần được nhìn như một sân khấu . Đơn giản chúng ta tham dự như những người tò mò chứ không phải đóng tuồng .
Vị thầy trao truyền lễ khai tâm như những nhân vật được thấy trong tập vẽ của trẻ em . Không liên quan gì đến chúng ta . Có nghĩa hoàn toàn thụ động bởi các hình vẽ sẵn . Ông ngồi trên ngai , tầng thứ ba của Mandala . Trong khi cử tọa ở tầng trệt quan sát những sự kiện và cử chỉ . Một quan kiến nào khác xuất hiện trong nghi thức khai tâm hoàn toàn không thể thích nghi .
Lễ khai tâm Kalachakra hỗ tương cho môi trường tình thương rộng mở . Mỗi lời nói hay từng cử chỉ của vị thầy trao truyền , đều có liên quan đến mỗi thành viên trong cử tọa . Lễ khai tâm cần được xem như sự nối tiếp những giữa Lama và đại chúng . Suốt diễn tiến nghi thức , xem như chúng ta được gieo một vài hạt mầm nào đó trong ý thức .
Sự kiện duy nhất , cần tham dự lễ Khai tâm Kalachakra với tâm thức hoàn toàn rộng mở . Không còn hay dựng bất cứ hàng rào nào giữa chúng ta và vị thầy trao truyền . Chỉ nên diễn đạt một vài niềm vui đủ để giúp thêm sự hữu hiệu cho lễ trao truyền quyền năng ; trải dài sự lãnh hội và nhấn mạnh - Phải dấn thân vào những thực hành cần thiết cho sự phát triển tâm linh .
Sự trao truyền quyền năng không có gì là thần diệu . Muốn hữu hiệu , chắc chắn tùy thuộc vào hành động của vị thầy . Đồng thời với những cảm xúc được đánh thức chúng ta . Hoàn cảnh những trao đổi sẽ gieo những hạt mầm nhân quả có thể đón nhận sự ảnh hưởng tốt của nó .
Chúng ta không được yêu cầu phải trải nghiệm mãnh liệt về tính không và niềm nội hỉ suốt diễn tiến lễ Khai tâm Kalachakra . Điều cần thiết duy nhất là : Phải phát sinh căn bản sáng tỏ để hành động .
Ngày thứ hai trao truyền hữu hiệu quyền năng bắt đầu như sau :
Chúng ta mô phỏng đang ở tầng trệt cung điện Mandala ,
trong sảnh hướng Đông màu đen .
Có nghĩa nơi chúng ta đứng ;
trong suốt nghi thức kết thúc ngày hôm trước .
Những dự thính viên tích cực tự mô phỏng dưới đường nét Vajravega và những quan sát viên dưới đường nét Kalachakra đơn giản . Những quan sát viên vẫn ở trong sảnh cho đến khi nghi thức lễ khai tâm kết thúc . Họ không thật sự tham gia vào quá trình diễn tiến . Sau đó , những dự thính viên tích cực yêu cầu vị thầy Vajra trao truyền bảy lễ khai tâm “ Tương đương những hiện tượng trẻ thơ ” .
Vị thầy thực hiện nghi thức cúng dường tịnh hóa bằng lửa ; để đánh tan những ảnh hưởng tai hại hay những điềm xấu . Bảy lễ khai tâm được xem như tịnh hóa vô số khía cạnh của thân và tâm thức chúng ta .
Sự tương đồng với bảy hiện tượng trẻ thơ được minh chứng đầy đủ . Vì suốt nghi thức chuẩn bị , chúng ta được sinh ra như những người con tâm linh của vị thầy . Lễ khai tâm đầu tiên :
Điểm đạo nước có thể được kết hợp như cha mẹ tắm cho đứa con vừa mới lọt lòng . Lễ khai tâm vương miện có thể được so sánh với cử chỉ cha mẹ cắt tóc con và tết thành búi trên đỉnh đầu .
Lễ khai tâm trang sức vải , khi lama đạt ruban sau lỗ tai chúng ta . Có thể được xem như bấm lỗ tai để đeo hoa tai . Lễ khai tâm chày Kim cang và chuông có thể được so sánh với nụ cười cha mẹ dành cho con mình và những nỗ lực để dạy trẻ học nói .
Lễ khai tâm hành xử chủ động với việc cha mẹ cho con món đồ chơi nó thích , để đánh thức những bộ phận giác quan . Lễ khai tâm tên gọi ( đặt tên ) có thể được so sánh với tên cha mẹ đặt cho con . Ở Ấn độ , truyền thống một đứa trẻ đón nhận tên nhân một nghi thức riêng biệt , khoảng một năm sau khi ra đời . Cuối cùng , lễ khai tâm cho phép có thể được so sánh với những cha mẹ dạy con mình đọc .
Bảy lễ khai tâm “ Tương đồng với những hiện tượng trẻ thơ ” , được trao truyền thành ba lượt hai lần . Gọi là lễ khai tâm “ Cao cấp ” và lễ thứ bảy là “ Cao hơn cả cao cấp ” .
Với chủ đích tịnh hóa bốn giọt vi tế và gieo trong tâm thức những hạt mầm cần thiết để hình thành thân , lời , tâm thức và niềm rõ biết sâu sắc Vajra . Bốn thân này khi đến trưởng thành sẽ trở thành bốn thân Phật .
Ba loạt đầu tiên lễ khai tâm ; mỗi loạt bao gồm hai trao truyền quyền năng . Trong khi loạt thứ tư bao gồm một trao truyền duy nhất . Chúng được trao truyền bằng bốn trạng thái biểu hiện qua gương mặt vị thầy - Kalachakra . Mỗi một gương mặt được kết hợp với một trong bốn giọt thân vi tế .
Trên bình diện thực hành , điều này có nghĩa những dự thính viên tích cực ; mỗi lần đến một nhánh Mandala cùng màu trong những khuôn mặt Kalachakra để đón nhận lễ khai tâm bên trong . Tất cả mọi người có thể được đến nghi thức chuẩn bị , và trong nghi thức họ thấy mình đi vào miệng Kalachakra .
Sau mỗi lễ khai tâm , họ trở lại ngồi trên ghế trong sảnh Mandala và giữ những nét phối ngẫu của chư Phật tương ưng . Bốn vị Phật riêng biệt mang tên Thân , Lời , Tâm Thức và Niềm rõ biết sâu sắc Vajra .
Chúng ta đón nhận loạt đầu tiên những trao truyền quyền năng của khuôn mặt trắng ( giọt của thân ) hướng Bắc . Loạt thứ hai của khuôn mặt đỏ ( giọt của lời ) hướng Nam . Loạt thứ ba của khuôn mặt đen ( giọt của tâm thức ) hướng Đông và lễ khai tâm cuối cùng khuôn mặt vàng ( giọt của niềm rõ biết sâu sắc ) hướng Tây .
Đi từ nhánh Mandala này đến nhánh khác , mượn hành lang nằm ở giữa trung tâm Mandala . Chúng ta mô phỏng kết hợp với người phối ngẫu màu sắc tương ưng với màu của nhánh Mandala ( đối với vị trí đang đứng ) : Màu đen với màu vàng , màu trắng với màu đỏ .
Những phối ngẫu kết hợp khác biệt này , tượng trưng cho sự hài hòa những thành phần bị hủy diệt như : gió đuổi đất , những bức tường bằng đất ngăn chận gió . Nước dập tắt lửa và lửa kéo theo sự bốc hơi của nước . . .
Một trong bảy lễ khai tâm Tương đồng với những hiện tượng trẻ thơ ” . Đồng thời tịnh hóa khía cạnh thân hay tâm thức , kết hợp với một trong bốn giọt vi tế tương ưng bị che mờ .
Loại lễ khai tâm đầu tiên có chủ đích tịnh hóa , riêng biệt năm thành phần và ngũ uẩn của thân vật lý . Khi những cơn gió nghiệp tích tụ lại ở “ Chakra ” - Giọt thân vật lý . Chúng ta phóng chiếu tâm thức lên những tố chất thân vật lý . Những thành phần . Các uẩn và tâm thức tỉnh thức phát sinh những biểu lộ riêng biệt trong trạng thái thức . Điều này ngăn chận không thể phát sinh thân Vajra . Những phân tử thô lỗ thể chuyển hóa để hợp thành thân tinh khiết .
Loạt thứ hai những trao truyền quyền năng . Với chủ đích tịnh hóa riêng biệt mười cơn gió năng lượng và kinh mạch năng lượng hai bên thân vi tế . Khi những cơn gió nghiệp tích tụ lại ở “ Chakra ” - Giọt ngôn ngữ và những năng lượng di chuyển trong những kinh mạch hai bên . Chúng ta thực hiện trải nghiệm trạng thái mộng . Vì không thể đi vào kinh mạch trung ương . Nên không thể tiêu dần trong sáu “ Chakra ” . Trong trường hợp này , sáu “ Chakra ” cũng không thể tăng cường sự rung động của thân vi tế cho chuyến hóa thành ngôn ngữ Vajra .
Loạt thứ ba những trao truyền quyền năng . Với chủ đích tịnh hóa riêng biệt sáu bộ phận nhận thức cùa các giác quan và những vật thể . Cũng như sáu chức năng hành động vật lý và sáu mô hình hành động tương ưng.
Khi những cơn gió nghiệp được tụ lại ở “ Chakra ” - Giọt tâm thức . Điều này kéo theo sự rút lui tạm thời những hành động nhận thức và sáu chức năng hành động vật lý . Chúng ta trải nghiệm trạng thái giấc ngủ sâu .
Điều này ngăn chận chúng rút lui sâu hơn để có thể tự hòa tan vào trung tâm của sáu “ Chakra ” nằm trên kinh mạch năng lượng trung ương . Đồng thời ngăn chận sự xuất hiện tâm thức Vajra .
Nhiệm vụ cuối cùng bảy trao truyền quyền năng . Có thể tịnh hóa uẩn sự rõ biết sâu sắc và thành phần rõ biết . Khi những cơn gió nghiệp tụ họp lại ở trung khu rõ biết sâu sắc . Uẩn của niềm rõ biết sâu sắc và thành phần rõ biết phát sinh niềm cực khoái về nục thể . Trong khi tâm thức tỉnh thức phát sinh những biểu lộ riêng thuộc về trải nghiệm cực độ này .
Điều này ngăn chận sự thành tựu niềm rõ biết sâu sắc Vajra - Niềm rõ biết nội hỉ không truyền phát bời những dòng chảy năng lương thô lỗ hay nhưng biểu lộ đầy nguy cơ cũng xuất phát từ đây .
Hơn nữa , một trong bảy trao truyền quyền năng , Gieo những hạt nhân quả cho sự chuyển hóa những thành phần nó cần tịnh hóa . Chẳng hạn , ngũ uẩn hay những thành phần thân vật lý với những hình dáng chư Phật của Mandala . Thật cần thiết khi hiểu thế nào là ý nghĩa thực sự trong bối cảnh Mật tông Kalachakra .
Khi bốn giọt vi tế bị ô nhiểm dưới tác động những cơn gió nghiệp và tâm thức tỉnh thức bị lầm lẫn làm che mờ . Nó phát sinh những chu kỳ bên trong những thành phần thô lỗ và những uẩn của thân vật lý . Điều này kéo dài trạng thái luân hồi và những đau khổ đặc trưng riêng biệt của lục đạo .
Khi tịnh hóa những hạt sáng , trong suốt thời gian thực hành Mật tông Kalachakra . Sự lầm lẫn phải nhường bước và từ từ chuyển hóa thành niềm rõ biết - tính không . Như thế , tâm thức tỉnh thức có thể phát sinh những vận hành thuộc về thời gian khác . Có nghĩa :
Như những hình dáng chư Phật vì lợi ích của tất cả chúng sinh . Tâm thức tỉnh thức tự phát sinh không ngừng những biểu lộ . Hành động này là một trong những đặc trưng thuộc về Phật tính .
Lễ Khai tâm Kalachakra đánh dấu sự khởi đầu của sự chuyển hóa này . Trong suốt lễ trao truyền quyền năng nhân quả . Cảm xúc vật lý do tiếp xúc với những thực thể trong những nghi thức khác biệt tạo ra cho thân như : Nước , vương miện , trang sức bằng vải , chày kim cương , chuông . . . Được xem như những phát sinh trải nghiệm về niềm nội hỉ - tính không .
Trình độ trải nghiệm niềm nội hỉ - tính không tùy theo trình độ sự trưởng thành tâm linh . Trải nghiệm này gieo những hạt nhân quả nhờ vào lễ khai tâm con đường và quả . Cho phép sự biểu lộ tâm thức tỉnh thức như niềm rõ biết không lay chuyển nội hỉ - tính không .
Sự thành tựu này đánh thức quyền năng sẵn có của tâm thức tỉnh thức ; để sáng tạo thành những hình dáng chư Phật . Hay đúng hơn là : Những biểu lộ thông thường do những thành phần thô lỗ và uẩn thân vật lý tạo thành .
Như vậy có thể nói : Một trong bảy lễ khai tâm « Tương đồng với những hiện tượng trẻ thơ » . Có quyền năng làm phát sinh tiềm năng tích cực đáng kể cho thực hành về sau và đưa đến sự thành tựu trong tương lai .
Suốt nghi thức lễ khai tâm , vị thầy Kalachakra sẽ giải thích :
“ Mỗi một trao truyền quyền năng sẽ phát sinh trong chúng ta tiềm năng tích cực như những Bồ tát trong khi tphát triển những địa ( Bhumi ) . Có nghĩa những trình độ rõ biết khác biệt nối tiếp cho sự thành tựu tiệm tiến tính không ” .
Quá trình trao truyền quyền năng khác biệt rất phức tạp ;
với những mô phỏng cũng phức tạp không kém .
Để thành công những mô phỏng .
Rất cần thiết phải có trước nhiều thực hành thiền định .
Dù vậy chúng vẫn đặt cùng một cấu trúc căn bản .
Có rất nhiều khái niệm về cấu trúc này . Cho phép chúng ta theo dõi tốt hơn những giai đoạn khác biệt trong nghi thức lễ khai tâm . Mỗi giai đoạn đều nhắc nhở đến một thực thể bên ngoài . Một vài tố chất thuộc thân và tâm thức và một nhóm như những hình dáng Mandala .
Thí dụ lễ khai tâm đầu tiên - Lễ điểm đạo nước . Được thực hiện bằng nước chứa trong bình nghi lễ . Chứa đựng năm thành phần thuộc về thân và năm vị Phật nữ . Để bắt đầu , chúng ta không được nhìn vào nước và những thành phần thân với hình dáng thông thường . Có nghĩa phải tập trung vào tính không của nội tại .
Chúng ta không phóng chiếu bằng những mô hình không thực . Có nghĩa phóng chiếu những tư tưởng huyễn hoặc vào thân hay nước . Sau đó , phát sinh tính chất nước và những thành phần thân dưới những hình dáng thuần khiết .
Cũng như năm vị Phật nữ đang kết hợp với Phật nam tương ưng . Điều quan trọng trong sự mô phỏng , không phải là những chi tiết thật rõ nét . Mà vắng bặt tất cả những nhận xét cá nhân cố tình quấy nhiễu ; phát sinh từ trạng thái đầy lầm lẫn .
Cần tránh ý tưởng nước không uống được . Vì nó có mùi Chlore hay sẽ bị béo phì , cho dù chúng ta mất rất nhiều nước trong một ngày . Nên phát sinh cảm nhận nước và những thành phần thân vật lý này là những tập hợp hoàn toàn thuần khiết .
Tất cả đều thuần khiết như năm vị Phật nữ . Có khả năng phát sinh niềm rõ biết nội hỉ - tính không . Nhất là trong giây phút chạm đến năm trung tâm lực thân vật lý ; để tăng cường sự trực nhận bên trong . Đạo sư Kalachakra , sẽ hòa tan những bản thể rõ biết sâu sắc trong nước và những yếu tố trong năm vị Phật nữ . Như thế có nghĩa trở lại quá trình hòa tan chúng ta thành Vajravega trong suốt nghi thức chuẩn bị .
Vào giai đoạn này , ba nhóm trong năm gia đình chư Phật nữ - Năm chư Phật của Mandala hòa tan vào nước trong bình . Tất cả tiếp tục hòa tan vào những trung tâm lực của thân vật lý . Sau đó , chư Phật của Mandala đi xuống khỏi ngai lễ khai tâm và trao truyền quyền năng cho chư Phật nữ bằng nước trong bình . Thế rồi chư Phật nữ được chuyển hóa thành nước . Các vị trở thành có đầy đủ khả năng trao truyền cho chúng ta niềm rõ biết nội hỉ - tính không .
Ngay giây phút niềm rõ biết chạm đến năm trung tâm lực của thân vật lý . Năm vị Phật nữ của Mandala rời khỏi ngai lần thứ hai đi xuống lễ khai tâm để chạm bình vào đỉnh đầu chúng ta . Và chúng ta trải nghiệm niềm rõ biết nội hỉ - tính không .
Trong khi nước cam lồ chảy cuồn cuộn từ bình ; và trao truyền quyền năng của năm vị Phật nữ đã mô phỏng ở năm trung tâm lực thân vật lý .
Sau đó , đạo sư Kalachakra , vải một ít nước chứa trong vỏ sò vào năm trung tâm lực thân . Đồng thời cho chúng ta uống một ngụm . Nước này được xem như sự thêm sức mạnh cho niềm rõ biết về nội hỉ - tính không . Cuối cùng , mỗi vị Phật nữ của Mandala tỏa ra một phối ngẫu ; hòa tan vào năm vị Phật nữ được mô phỏng trong thân để cũng cố sức sống mãnh liệt của chúng ta .
Cấu trúc căn bản này được lặp lại trong sáu lễ khai tâm “ Tương đồng với những hiện tượng trẻ thơ ” . Büton cũng giảng những quá trình như đức Đạt lai lạt ma thứ VII . Ngoại trừ ông không nhắc đến những phối ngẫu của những vị Phật nữ của nước và thân của chúng ta .
Kongtrül cũng theo quan kiến của Butön về điểm riêng biệt này . Ông không đề cập đến những thành phần của thân được chuyển hóa thành những vị Phật nữ vào đầu quá trình . Trong phiên bản của Kongtrül , những vị thầy được hòa tan vào chư Phật nữ của nước . Ông không nói đến họ đón nhận quyền năng hay quay lại trạng thái nước trong bình của nghi lễ .
Trong trường hợp này , những hình tướng được khẩn cầu riêng biệt cho từng hoàn cảnh . Năm vị Phật nữ của Mandala không trao truyền quyền năng bằng cách chạm vào đầu bằng chiếc bình và rải vài giọt nước vào năm trung tâm lực chúng ta .
Nó chỉ dùng để tham khảo cho sự chuyển hóa năm trung tâm lực thành năm vị Phật nữ với trải nghiệm niềm rõ biết nội hỉ - tính không . Nhưng không nhắc đến những vị Phật nam kết hợp .
Đây là những chư Phật và Bồ tát được khẩn cầu đặc biệt cho từng hoàn cảnh . Dưới hình thức năm vị Phật không có phối ngẫu ; và không có người nhân đôi tỏa ra từ họ hòa tan trong năm chư Phật của thân chúng ta .
Khi lễ Khai tâm Kalachakra được trao truyền thích nghi theo phiên bản Butön hay Kongtrül biên soạn . Những dự thính viên có thể chỉ mô phỏng những gì Lama trao truyền quyền năng yêu cầu cần mô phỏng . Hoặc thêm vào sự mô phỏng những chi tiết dưới sự yên lặng .
Những dự thính viên tích cực ; có thể cảm thấy những mô phỏng quá khó khăn cho họ . Có thể hài lòng mô phỏng về trạng thái hạnh phúc và dùng nó cho sự lãnh hội tính không . Nếu họ vẫn ta thán rằng : Không thể tiếp tục những giai đoạn riêng biệt của lễ Khai tâm Kalachakra . Hay lặp lại nghi thức này trong tổng thể quá phức tạp cho khả năng mô phỏng hiện tại của họ hay không thể nào theo đuổi . Có nghĩa họ đã mất đi cơ hội gieo vào tâm thức những mầm hạt nhân quả cho sự thành công trong thực hành về sau .
Vì thế cực kỳ quan trọng khi tập trung vào mấu chốt của lễ Khai tâm Kalachakra . Cũng như sự phát sinh niềm rõ biết nội hỉ - tính không và niềm xác tín căn bản cho sự thực hành thiền định Mật tông .
Với những ai tham dự vào lễ khai tâm như những quan sát viên , được yêu cầu tập trung vào những hạt sáng tạo gieo trong tâm thức và có được niềm xác tín trong suốt diễn tiến của nghi thức lễ Khai tâm Kalachakra .
Khi sự phát triển tâm linh đến gần với họ . Nếu tách rời khỏi tư tưởng lễ khai tâm Kalachakra sẽ thể hiện sự thần diệu . Hay lễ khai tâm và con đường Mật tông chỉ là những điều quái đản . Có nghĩa họ bắt đầu phát triển chút ít về những hạt sáng tạo .
Nhiều quá trình nối tiếp trong bảy lễ khai tâm :
« Tương đồng với những hiện tượng trẻ thơ » .
Trước tiên , điều gọi là sự cho phép về sau ;
và sự cho phép về sau được đề cập dưới đây .
Dù mang cùng tên , nhưng không lẫn lộn với sự cho phép về sau được thừa nhận suốt trong lễ khai tâm diễn tiến vào ngày thứ ba ; cho dù có ít nhiều liên quan .Trong bối cảnh hiện tại . Đạo sư Kalachakra đặt một bánh xe Pháp trước trung khu lễ khai tâm , với một bản văn trên đầu gối chúng ta .
Sau đó ông đưa cho chúng ta một vỏ sò để cầm ở tay phải và cái chuông cầm bên tay trái . Sau đó , chúng ta tụng đọc một câu thơ ngắn lặp lại sự dấn thân tự tập huấn với Phương pháp và sự minh triết hợp thành tinh túy Pháp . Điều này phát xuất từ tâm thức hoàn toàn nhân ái .
Tiếp theo , chúng ta tự mô phỏng thành vị Phật Vajra Rõ Biết Sâu Sắc màu vàng với người phối ngẫu màu đen . Sau đó trở thành Kalachakra với tất cả những sự phức tạp màu xanh dương ; đang ôm siết người phối ngẫu màu vàng . Để đón nhận ba Mantra chủ yếu của Kalachakra được tụng đọc mỗi Mantra ba lần . Butön và Kongtrül không đề cập đến sự chuyển hóa cuối cùng này .
Sau đó , đạo sư Kalachakra đưa cho chúng ta những thực thể khác biệt bên ngoài từng cái một : Thuốc nhỏ mắt , tấm gương , cánh cung và một mũi tên . Xem như gieo trong chúng ta những hạt mầm ba trình độ lãnh hội tính không . Theo thứ tự : Lãnh hội tri thức - Lãnh hội về sau khi nhận ra sự hư huyễn của mọi sự việc - Trực nhận phi quan niệm trực tiếp và thẩm thấu trong thiền định .
Quá trình thứ hai , đi đôi với sự cho phép về sau lễ khai tâm của vị thầy Vajra . Lễ khai tâm này không được lẫn lộn với đại lễ khai tâm vị thầy Vajra . Có nghĩa lễ khai tâm bế mạc được trao truyền sau nghi thức lễ khai tâm “ Cao cấp ” và “ Cao hơn cả cao cấp ” . Khi lễ Khai tâm Kalachakra được diễn tiến theo nghi thức đầy đủ nhất . Lễ khai tâm vị thầy Vajra trao truyền những quan hệ mật thiết dành cho thân , lời và tâm thức . Những thực thể bên ngoài như :
Chày kim cương và một chiếc chuông . Chúng ta và chày kim cương sẽ được chuyển hóa thành Vajrasattva màu xanh dương . Trong khi chuông được chuyển hóa thành Bát nhã ba la mật cũng màu xanh dương .
Chúng ta có thể mô phỏng bất kỳ vị Phật nào ; nhưng không mang hình thức kết hợp phối ngẫu . Đạo sư Kalachakra hòa tan những vị thầy vào chúng ta , chày kim cương và chuông .
Năm chư Phật nữ trao truyền quyền năng cho Vajrasattva và Bát nhã ba la mật ; chuyển hóa thành chày Kim cương và chiếc chuông và trở lại vào trạng thái vật thể cúng dường . Sau đó , đạo sư Kalachakra đưa chày kim cương và chiếc chuông để nhắc nhở biểu tượng tượng trưng cho những quan hệ mật thiết dành cho tâm thức và ngôn ngữ riêng biệt .
Cầm chày kim cương có nghĩa nối kết lại mật thiết với tâm thức và niềm rõ biết nội hỉ - tính không . Cầm chuông là nối kết mật thiết ngôn ngữ với giáo huấn về tính không . Khi tự mô phỏng thân vật lý trở thành Vajrasattva . Nếu thân đã hòa hợp và biểu lộ tự nhiên niềm rõ biết sâu sắc nội hỉ - tính không . Có nghĩa chúng ta đã kết hợp mật thiết thân với Phật Vajrasattva .
Sự trải nghiệm niềm rõ biết nội hỉ - tính không , kết nối với sự tuân thủ tập trung ba phạm trù liên hệ mật thiết , trong trao truyền quyền năng sẽ thực hiện trong tương lai .
Theo Butön , chuông được chuyển hóa thành Vishvamata màu xanh dương , và Bát nhã ba la mật là sự thay thế những gì thông thường ; như đã nhận thấy ở chương : Nghi thức chuẩn bị . Nhưng ông không đề cập đến chuyển hóa thành Vajrasattva trước khi tiếp nhận những quan hệ mật thiết có liên quan đến thân .
Trong giây phút này , chúng ta tự mô phỏng kết hợp với Vishvamata . Kongtrül rút ngắn lại lễ khai tâm Vị thầy Vajra và không nói đến sự chuyển hóa của chày kim cương , chuông hay chính chúng ta . Hơn nữa , ông nói rằng chỉ chúng ta mới được trao truyền những quan hệ mật thiết liên quan đến tâm thức .
Về tất cả những lễ khai tâm đã đề cập . Lễ khai tâm Vị thầy Vajra duy nhất đòi hỏi sự thọ nhận những thệ nguyện Mật tông và phải dấn thân vào thực hành những quan hệ mật thiết .
Trong mười chín thực hành những quan hệ mật thiết giống nhau ; trong tất cả những hệ thống đẳng cấp Anuttara Yoga . Sự tuân thủ những quan hệ mật thiết của tâm thức và thân với Lễ khai tâm của vị thầy Vajra . Bao trùm ba thực hành đầu tiên , tổng cộng là bốn thực hành .
Tạo ra những quan hệ mật thiết với những đường nét hay những biểu hiện thuộc tính đặc trưng của gia đình Akshobhya - vị Phật tượng trưng niềm rõ biết sâu sắc của phạm vi hiện thực .
Nghi thức Kalachakra được thêm vào lễ khai tâm sự cho phép Lễ khai tâm vị thầy Vajra về sau . Chính xác để tịnh hóa giọt vi tế niềm rõ biết sâu sắc . Đạo sư Kalachakra kết thúc bảy lễ khai tâm “ Tương đồng với những hiện tượng trẻ thơ ” và giải thích :
“ Thật đúng lúc ; để những thực hành thuộc về Mật tông Kalachakra , tạo ra những quan hệ mật thiết với sáu gia đình chư Phật . Thay vì năm như những hệ thống khác của Anuttara Yoga ” .
Cuối cùng , đạo sư Kalachakra giải thích thêm :
“ Tập họp bảy lễ khai tâm ban cho chúng ta khả năng thực hành giai đoạn sáng tạo chính xác , và cho những ai cần đến giáo huấn thuộc khoa chiêm tinh trong tương lai . Ngày và giờ chính xác cho sự trao truyền quyền năng ” .
Sau đó giải thích về mười bốn thệ nguyện nền tảng Mật tông Kalachakra . Ông giới thiệu phương cách tự kết nối thêm lần nữa trong trường hợp hoàn toàn bị thất lạc thệ nguyện . Bằng phương pháp lặp lại 36.000 lần Mantra hình tướng , chủ yếu của gia đình chư Phật chúng ta cảm thấy tương thích nhất . ( Điều này ược định sẵn vào ngày hôm trước . Khi chúng ta để rơi hoa trên mâm chứa một Mandala bột màu ) .
Chúng ta cần đón nhận thêm một lần nữa bảy lễ khai tâm “ Tương đồng với những hiện tượng trẻ thơ ” . Trong suốt lễ khai tâm do Vị thầy Mật tông trao truyền hay những người đã thực hiện một cuộc nhập thất đầy đủ về thực hành Kalachakra ( tụng đọc hàng trăm ngàn Mantra ) . Nương vào nghi thức tự khai tâm ; chúng ta lặp lại ba lần sự đồng ý của mình , rồi dâng tặng một Mandala để tỏ lòng biết ơn .
Nếu lễ khai tâm được vị thầy trường phái Gélugpa trao truyền
và đã dấn thân trong thực hành Mật tông .
Chúng ta sẽ thực hành Yoga sáu phần để nuôi dưỡng
những hạt mầm nhân quả vừa mới được gieo lại trong tâm thức ;
và để tăng cường sự tịnh hóa nhờ vào những nghi thức khác biệt .
Nếu lễ khai tâm được vị thầy ở truyền thống phật học Tây tạng khác trao truyền . Chúng ta có thể giữ những thệ nguyện đã thọ nhận và theo đuổi thực hành những quan hệ mật thiết với chủ đích tương tự .
Nhưng dù trong trường hợp nào . Chúng ta cũng làm sống lại những thực hành , và tập trung quyết liệt ngày đêm với niềm rõ biết nội hỉ - tính không . Nhất là , sự thực hành chủ yếu trong những giây phút căng thẳng hay khi đang làm mồi cho những cảm xúc quấy nhiễu .
Khi quay trở về tâm thức tỉnh thức . Lấy tâm thức làm căn bản để tự mô phỏng thành Kalachakra . Lúc ấy chúng ta đã giữ một chân vững chắc trên con đường tỉnh thức vì lợi ích chúng sinh .
Nếu tham dự lễ Khai tâm Kalachakra như một quan sát viên . Không nên quên những ngày lễ khai tâm này vì nó rất quan trọng . Dù không dấn thân thực hành điều đặn con đường Mật tông . Nhưng nếu theo gương cư dân Shambala , tụ họp vào bên trong Mandala Kalachakra để hợp nhất thành “ Những huynh đệ nam nữ Vajra ” . Chúng ta cũng có những lợi ích đáng kể .
Quan trọng nhất là tự dấn thân vào thiết lập hòa bình và sự hài hòa trên thế giới ; nhờ vào nguyên lý đạo đức do những tôn giáo thiết lập . Từ lòng xác tín tâm linh hay nền tảng triết lý chúng ta đang dấn thân .
Với sự dấn thân trong dạng thức này . Lễ Khai tâm Kalachakra sẽ có những dư âm cực kỳ tích cực vào tổng thể những dự thính viên . Dù họ là thành viên tích cực hay chỉ là những quan sát viên .HET=OM MANI PADME HUM.( 3 LAN ).GESHE TASHI TSERING.( MHDT ).14/4/2012.

No comments:

Post a Comment