|
|
|||||||
Một nghiên cứu tường tận những dấn thân khác biệt
lễ Khai tâm Kalachakra giả định : Quy y Tam Bảo , cũng như thọ nhận những thệ nguyện Bồ tát đạo và Mật tông cho phép cân nhắc nếu đã sẵn sàng hay chưa có yêu cầu .
Thực hành tâm linh luôn là
vấn đề thuộc về cá nhân . Nhưng trong thực hành Mật tông thì còn hơn thế nữa .
Mật tông được gọi là “ Thừa bí mật ” hay “
Thừa kín ” . Điều quan trọng cần biết
là không phải vì trả nợ cho ai trên mô hình tham gia vào lễ Khai tâm Kalachakra . Bí mật chỉ vì tránh sự phiền phức và sự khó chịu cho
những người đã chọn làm quan sát viên .
Trong giây phút được phát
những sợi ruban màu đỏ lúc mỗi quan sát viên sẽ đón nhận những gì đưa tới
tay . Sự kiện mang nó không có nghĩa đã nhận được sự trao truyền quyền năng hữu
hiệu .
Sau vài xem xét chung chung .
Chúng ta sẽ xem xét những giai đoạn khác biệt của lễ khai tâm . Mỗi một thực tập
sinh , cho dù là dự thính viên tích cực hay đơn giản chỉ là quan sát viên vẫn có
thể theo dõi và có thể rút ra những lợi ích .
Vì ba dạng thức trao truyền quyền
năng “ cao cấp ” , “ hơn cả cao cấp ” và của vị thầy Vajra . Cũng như sự cho
phép sau đó , dù không được trao truyền ở lễ Khai tâm Kalachakra . Chúng ta chỉ
bằng lòng xem xét ở trình độ thứ nhất lễ khai tâm : Nghi thức chuẩn bị và bảy
trao truyền “ Tương ưng với hiện tượng trẻ thơ ” .
Mô phỏng là thành phần cần thiết của
nghi thức Khai tâm Kalachakra từ đầu đến cuối . Là dự thính viên tích cực . Chúng ta được mô phỏng vị thầy , nơi chốn , chính mình và những người quanh với nhiều phương cách khác biệt dần dần chính xác và hoàn hảo .
Đồng thời , những quan sát
viên muốn rút ra những lợi ích của lễ Khai
tâm Kalachakra có thể tự thực tập những mô phỏng . Như thế , chúng ta
sẽ giải thích những gì là mô phỏng và bắt đầu đi vào đó để phát sinh một cách
thích hợp .
Cần phải nói , từ “ tưởng tượng ”
không thể truyền hết ý nghĩa đầy đủ tương ưng với Phạn ngữ hay Tây tạng . Vì nó
nói đến cái nhìn khi thực hành Mật tông . Đồng thời nhờ đến sự nghe , ngửi, nếm
và sờ chạm . Có nghĩa là năm giác quan cũng như những trực nhận thuộc về tâm
thức như niềm hoan hỉ , chiếu hướng đồng hóa , không gian , môi trường và những
hiện tượng .
Chắc chắn “ Mô phỏng ” gần
hơn theo chiều hướng Mật tông tán thành . Mô phỏng cái gì đó không phải là hoạt
động thuần khiết tri thức . Điều này không đơn giản chỉ phát sinh hình ảnh tâm
thức với tất cả những chi tiết .
Từ “ Mô phỏng ” có nghĩa mở rộng một quá trình chuyển hoá tâm thức triệt để , trái tim , chức năng trực nhận , chiều hướng đồng hóa và những điểm mốc không gian riêng biệt . Trong bối cảnh Mật tông , thực hành những mô phỏng tùy thuộc chủ yếu vào hai yếu tố : Sáng tỏ tâm thức và niềm hãnh diện .
Niềm hãnh diện dẫn đến lòng xác
tín trong cảm nhận về bản chất thực sự của mình. Suốt thời mô phỏng , chúng ta
thể hiện hết mình để mô phỏng vị thầy và chính mình dưới khía cạnh tính chất
thuần khiết của chư Phật .
Về nơi chốn . Chúng ta xem như
dưới hình thức Mandala Kalachakra . Tất cả những thành phần khác biệt này phải
xem như thật sự . Nhưng đồng thời cần rõ biết bản chất mô phỏng đồng nghĩa chưa
thành tựu .
Tất cả những đại sư Mật tông
đặt người sơ cơ phải chú ý vào điểm chính xác này và nhất thiết khuyên họ cảm
nhận niềm hãnh diện bản chất chư Phật của chính họ hơn thực tập những mô phỏng
nói riêng . Người sơ cơ nên có một hình ảnh
tâm thức về bản chất thật sự của mình . Có nghĩa có được căn bản đã chỉ định về
nội dung những mô phỏng và không lo lắng đến những chi tiết .
Quan kiến sáng tỏ về những
chi tiết tự nhiên sẽ đến đúng thời ; khi đã quen thuộc dần với thực hành Mật
tông và khả năng tập trung được gia tăng . Nếu muốn mô phỏng ngay lập tức tất cả
những chi tiết của Mandala
Kalachakra . Chắc chắn sẽ nhanh chóng
cảm nhận những giới hạn và cuối cùng thối chí . Điều này hoàn toàn đi ngược lại
với mục tiêu theo đuổi .
Để tránh những bất tiện như thế .
Chúng ta không cần quan tâm đến những chi tiết . Chỉ gắng tạo trong tâm thức khi
sử dụng sức mạnh tập trung . Một trực nhận rất rõ nét về bản chất vị thầy trao
truyền lễ khai tâm . Cũng như cảm giác rõ nét về nơi chốn chúng ta đang ở . Có
nghĩa bên ngoài hay bên trong Mandala Kalachakra .
Vị thầy trao truyền lễ khai
tâm là Phật Kalachakra của chính mình . Dù thấy ngài có hai muơi bốn tay hay
hai tay vẫn không quan trọng trong giây phút này . Điều quan trọng là sự trực nhận chúng ta đã có sẵn ;
cộng với sự kiện khi nhận ra con người đứng trước mặt mình đã hoàn toàn tỉnh
thức .
Hơn nữa , chúng ta cần phải tự mô
phỏng chính mình dưới những hình thức thuần khiết . Ngưng bận tâm đến những kí
lô thặng dư hay những sợi tóc tẻ nhạt . Cuối cùng , chúng ta được xem như đã rõ
biết mình đang sống trong vũ trụ tượng trưng của Kalachakra ; chứ không phải là
trong phòng khách sạn hay chỉ đơn giản dưới một túp lều bình
thường .
Trong bối cảnh Mật tông ,
mô phỏng không có nghĩa tự kỷ ám thị hay thực hành vài trị liệu đặt nền tảng trên giấc mộng tỉnh thức .
Nền tảng của mô phỏng chính
là căn bản của Mật tông , cũng như dòng chảy bất tận và liên tục của tâm thức
tỉnh thức . Chính tâm thức ánh sáng sáng tỏ , cung cấp cho chúng ta tính liên
tục từ đời này sang đời khác cho đến trạng thái Phật .
Nó tương đương với bầu trời . Cho
dù xuất hiện những vầng mây đen trắng , nhưng nó vẫn xanh lơ , có nghĩa lúc nào
cũng thuần khiết . Có nghĩa tâm thức tỉnh thức không hề bị ô nhiễm do những cảm
xúc và những thái độ rối loạn đến và đi . Thỉnh thoảng chỉ gieo sự lầm lẫn vào tâm thức khi chúng ta bám chấp
vào sự việc nào đó .
Tâm thức ánh sáng
sáng tỏ dẫn đến tỉnh thức - Trạng thái vắng bặt mọi lầm lẫn và những bản năng
đặc trưng . Đồng thời đầy đủ khả năng chuyển hóa những phẩm chất cố hữu vào tỉnh
thức . Nó cũng cho phép vận hành tâm thức thông suốt cùng khắp - rõ biết về tất
cả và đầy đủ thông tuệ , để cảm nhận một tình thương và sự ân cần không giới hạn
cho tất cả chúng sinh ( muôn loài
) .
Tương tự nếu
thường xuyên dán nhản “ Tôi
” vào các uẩn hợp thành
thân vật lý như Tư tưởng , cảm xúc và thái độ . . . Đồng thời cũng có thể dán
nhản “ Tôi ” lên tâm thức tỉnh thức làm nền tảng , chỗ
tập họp hay chiếc bình phù hợp cho sự thành tựu tỉnh thức .
Qua phương tiện mô
phỏng về những hình dáng chư Phật khác nhau một cách hết mình , để cảm nhận hiện
thực của sự chuyển hóa cá nhân . Điều này không phải là sự đánh lừa hay một ảo
tưởng . Cũng như gọi : “ Thằng bé
đã lớn ” khi đứa trẻ đã
thực hiện xong những bước đi đầu tiên trong đời .
Điều có giá trị cho
mình đồng thời cũng có giá trị cho vị thầy trao truyền lễ Khai tâm Kalachakra . Chúng ta không thấy ông trong thân vật lý của
mình . Cũng không mô phỏng ông có những cảm giác
hay những cảm xúc thông thường . Chúng ta nên thấy ông như tâm thức ánh sáng
sáng tỏ - Căn bản của tỉnh thức .
Vì thế cần mô phỏng ông dưới
khía cạnh Phật Kalachakra . Kể cả những quan sát viên cũng nên mô phỏng ông
dưới khía cạnh này . Để minh chứng cho sự tôn trọng trong lễ khai tâm và về
những gì buổi lễ tượng trưng .
Về nơi chốn của lễ khai tâm .
Không cần phải xuất hiện dưới một thính đường , một chiếc lều vĩ đại hay như
những hình thức ồn ào náo nhiệt . Thực ra , chúng ta chỉ cần xuất hiện dưới dạng
một cung điện Mandala của chư Phật Kalachakra .
Có thể nói chúng ta tự minh chứng ,
mình có khả năng mô phỏng những sự việc như thế nào ; và trực nhận chúng như hiện thực . Ngay cả khi không có quan kiến sáng tỏ .
Chẳng hạn , mỗi người đều
biết mình là đàn ông hay đàn bà . Là người Pháp , Gia nã đại , Thụy sĩ hay bất
cứ quốc tịch nào khác . Trong giây phút nào đó tự đặt vấn đề về lý lịch . Chúng
ta không cần bất cứ hình ảnh tâm thức nào cũng như những giải thích được soạn
thảo sẵn ; để tự nhắc nhở mình thuộc trường phái nào hay quốc tịch gì .
Đây là tình cảm tương đồng
dùng làm nền tảng cho lòng hãnh diện , để cảm nhận trong giây phút mô phỏng mình
như chư Phật . Để thực hành tốt trong khả năng mô phỏng . Giống như về hình ảnh
một y tá . Có nghĩa bắt đầu hình dung người mặc áo khoác trắng . Ống cầm đo
nhiệt độ và bảng theo dõi . . .
Nhưng không chỉ hình dung những
đặc trưng bên ngoài . Điều quan trọng là cảm nhận trạng thái y tá mà không cần
có đồng phục , hàn thử biểu và bảng theo dõi vì nó không còn ý nghĩa .
Cũng có thể như buổi dạ hội
hóa trang . Tương tự , có thể với một chiếc ly cam vắt trên tay . Chúng ta mô
phỏng hương vị trái cây , cảm tưởng khát nước , cảm nhận nước giải khát sẽ làm
đở khát .
Mô phỏng không phải là cái gì
đó khó khăn , đây là một vấn đề đơn giản để luyện tập và cần kiên nhẫn . Để có
thể mô phỏng nơi đang diễn ra lễ khai tâm . Chúng ta có thể thực hiện bài tập
sau đây : Mô phỏng đang lái xe đến nơi làm việc .
Dù có hay không hình ảnh tâm
thức tương ưng cũng không quan trọng . Chủ yếu là trực nhận môi trường này .
Tương ưng cảm nhận giai đoạn chúng ta giữ vòng ngoài của cung điện - Mandala Kalachakra . Sau đó đến trước dinh thực để làm việc .
Có thể mô phỏng mình đi trễ
và hình dung ông xếp ở lầu thứ ba đang chờ mình . Không nhất thiết hình ảnh này
trong tâm thức sáng tỏ hay mờ ảo . Giai đoạn
này tương ưng với việc mô phỏng vị thầy ngồi trên ngai trong buổi lễ khai tâm ở
tầng ba của Mandala Kalachakra . Sau
đó , có thể mô phỏng căn phòng chúng ta đang hiện diện để có thể có được cảm
nhận . Cảm nhận bốn bức tường bao quanh quây kín hay riêng biệt . Giai đoạn này tương ưng
trực nhận bên trong cung điện Mandala Kalachakra .
Mô phỏng đứng trước thang máy
tầng trệt của dinh thực cao nơi làm việc . Có thể thử cảm nhận những tầng khác
biệt ở phía trên . không cần thiết có hay không hình ảnh trong tâm thức .
Giai đoạn này tương đương với việc giử vững tầng
trệt trong nhiều tầng của Mandala Kalachakra . ( Nhiều đẳng cấp )
.
Đồng thời cũng có thể tự cảm
nhận nhiều sự việc , trong khi kiên nhẫn chờ thang máy về trạng thái nhân viên ,
sự trễ nải . Khi chờ hơi lâu trước thang máy tầng trệt của dinh thự những văn
phòng . Chúng ta có thể hình dung sự kiện đi trể về sau này trong khi xếp và
đồng nghiệp đã làm việc ở tầng trên . Từng chi tiết có thể thêm vào cục diện .
Đồng nghiệp ở bàn làm việc và chiếc ghế trống của mình gia tăng thêm cảm nhận
mình trễ nải .
Nếu có thể mô phỏng tất cả những
chi tiết này thật rõ nét . Mô phỏng sẽ trở cực kỳ mãnh liệt . Có thể chúng ta
quyết định đi bằng cầu thang để tranh thủ thời gian . Như thế , xúc cảm về mức
độ trễ nải . Có thể đủ để chúng ta hoạt động một cách tích cực hơn
.
tonysham05:
Đoạn này muốn nói ?karunasham: Mô phỏng để kích hoạt chúng ta năng động trên con đường .
Để tăng cường cảm nhận bên ngoài hay bên trong Mandala
Kalachakra .
Rất cần thiết sẵn có những nhận định sơ lược về kiến trúc Mandala . Tượng trưng bằng một lâu đài tuyệt vời cạnh vuông ; Với năm trình độ trang trí tuyệt diệu , bằng hình dáng làm nghĩ đến một chiếc bánh cưới .
Thực ra mỗi tầng , diện tích
sẽ giảm đi phân nữa . Bốn cạnh
bị cánh cửa trung ương chận lại . Cấu trúc rất bao la , lớn gáp hai trăm lần với
vóc dáng chúng ta . Hợp thành bằng ánh sáng ngũ sắc . Nó trong suốt . Có thể so
sánh với một trong những tòa nhà tân tiến chọc trời bằng kiếng được mặt trời
chiếu sáng .
Nghi thức lễ khai
tâm không ngừng được tham khảo với vị trí chúng ta đang ở trong lâu đài hay cung
điện Mandala
Kalachakra có bốn hướng .
Giả sử lễ khai tâm xảy ra ở Hoa kỳ . Có thể mô phỏng vị thầy trao truyền lễ khai tâm
đang ở Chicago và chúng ta ở Nửu Ước , đứng trước cửa Đông . Phía nam có Mễ tây
cơ, phía bắc Gia nã đại và hướng tây là California .
Vị thầy chúng ta
- Phật
Kalachakra ở trung tâm . Ông có bốn mặt , với màu sắc khác nhau . Nền và trần
được tô điểm với kiến trúc cùng màu . Mỗi khuôn mặt tượng
trưng những quả tịnh hóa những hạt tế nhị tương ưng . Cũng như hạt của thân ,
ngữ ngôn , tâm thức và niềm rõ biết sâu sắc .
Đây là lý do mỗi
khuôn mặt Kalachakra
và những nhánh tẽ ra bốn hướng
Mandala riêng biệt , được trình bày đồng màu với
nguyên âm mầm và hạt tế nhị tương ưng . Cho dù bất cứ hệ thống Mật tông nào được
sử dụng trong lễ khai tâm đẳng cấp Anuttara Yoga .
Chúng ta mô phỏng âm “
Ohm ” trắng ở trán ( trung khu hạt vi tế thân vật lý ) . Âm “ Ah ” đỏ ở cổ (
trung khu hạt vi tế ngữ ngôn ) . Âm “ Hum ” xanh dương đậm hay đen ở trái tim (
trung khu hạt vi tế tâm thức ) . Với lễ Khai tâm Kalachakra . Chúng ta mô phỏng
thêm âm “ Hoh ” màu vàng ở rún ( trung khu hạt rõ biết sâu sắc )
.
Vị thầy sẽ giải
thích những tương ưng giữa những nguyên âm mầm , những hạt vi tế và ngôn ngữ vi
tế . Màu sắc bốn khuôn mặt Kalachakra
và bốn góc hay những khu
của cung
điện - Mandala Kalachakra có màu trắng , đỏ , đen và vàng . Đồng thời
những màu này tượng trưng cho bốn hành như : Nước , lửa , không khí
và đất . Sử dụng quá
trình gợi nhớ giúp nhớ lại sự tương ưng giữa những dữ kiện tượng trưng khác nhau
và giữ định hướng trong suốt thời nghi thức lễ khai tâm .
Hướng Đông
, khuôn
mặt chính của Kalachakra màu đen giống tâm thức và có hành thủy . Như
Newyork và bờ Đông của châu mỹ thường bị bảo tố .
Tượng trưng cho hành khí và cũng có nghĩa là những vầng mây đen của tâm thức bị
stress .
Hướng Nam
, khuôn
mặt bên phải của Kalachakra màu đỏ tượng trưng ngữ ngôn có hành hỏa . Như
Mexico , dùng tiếng Tây ban nha và thức ăn nhiều
gia vị .
Hướng Bắc
, khuôn
mặt bên trái của Kalachakra màu trắng tượng trưng thân vật lý có hành thủy . Như
Canada tuyết thì rất nhiều và trời lạnh như mùa đông .
Hướng Tây
, khuôn
mặt phía sau của Kalachakra màu vàng . Tượng trưng niềm rõ biết sâu sắc và đất .
Như California có những sa mạc cát vàng và rất nhiều người rất nhạy cảm với những
vấn đề sinh thái .
Như thế , nếu chọn
theo trạng thái tâm thức chính xác sẽ không bị nghi thức lễ Khai tâm Kalachakra đánh lạc hướng . Cũng như những mô phỏng hàm chứa quá nhiều ý tưởng
. Sự trao truyền quyền năng
Kalachakra đòi hỏi mở rộng
trường rõ biết ; và có khả năng duy trì sự chú ý trên vô số những sự việc cùng
lúc và hiểu được ý nghĩa một cách sâu sắc .
Nó gieo vào chúng
ta những hạt mầm cho sự thực hành về sau . Nhất là giúp chúng ta có khả năng thực hiện hoàn hảo
như một vị Phật Kalachakra .
Phải tin tưởng vào những
quan kiến về lễ khai tâm . Tin chắc mình có thể tự mở rộng vào cuộc sống thật
bao la .
Như muốn tăng thêm
những khả năng của máy PC . Chúng ta cài đặt phần mềm tinh vi hơn . Tương tự ,
nhờ vào lễ Khai tâm
Kalachakra . Tâm thức và trái tim được mở rộng vào những cảm nhận
mới đầy tự tin . Vì đã có nền tảng chắc chắn bên trong để có thể tiêu hóa và đưa
nó vào cuộc sống .
Sự kiện gìn giữ niềm xác tín suốt
nghi thức lễ Khai tâm Kalachakra để cảm nhận niềm hãnh diện . Đó là chiếc xe rất
tốt để trở thành vị Phật riêng biệt của môn Mật tông này .
Khi đã giữ được những đường hướng .
Bây giờ chúng ta sẽ tiếp cận nghi thức lễ Khai tâm Kalachakra . Và đức Đạt Lai Lạt Ma thường xuyên đã trao truyền lễ Khai tâm Kalachakra từ nhiều thập niên .
Chúng ta sẽ giải thích những
giai đoạn khác biệt dựa vào những văn bản mà ngài đã sử dụng . Những văn bản này
được đức Đại lai lạt ma thứ VII
soạn thảo vào thế kỷ XVIII và được xác định từ
phiên bản do Kaydrubjey soạn thảo vào thế kỷ
XV .
Những dòng Kagyupa và Nyingma quan sát nghi thức từ những hệ thống do
Kongtrül trong truyền thống Rimé soạn thảo vào
thế kỷ XIX . Phiên bản đã phục hồi lại dòng Jonang Kalachakra , một truyền thống nhỏ của trường phái Sakyapa . Những
người Sakyapa thường chọn văn bản của Kongtrül hay văn
bản của Butön của thế kỷ XIV
.
Sự khác biệt giữa những
truyền thống đa dạng rất ít . Nhất là những gì liên quan đến nghi lễ chuẩn bị và
bảy lễ Khai tâm tương ưng với « hiện tượng
như trẻ thơ » ( sống trong khoảng lặng ) .
Trong tổng thể , nghi thức do
đức Đại lai lạt ma thứ VII có vẻ tinh vi hơn những phiên bản khác ; bao gồm những
nghi lễ tịnh hóa nơi chốn diễn tiến và xây dựng Mandala bằng cát hay bột màu . Những vũ điệu thiền định sở hữu về địa
hình (
tịnh hóa nơi làm lễ ) , cúng dường sau khi hoàn tất Mandala và những nghi thứ xóa Mandala vào cuối lễ khai tâm .
Nghi thức lễ Khai tâm Kalachakra bao gồm hai thời
kỳ :
Nghi lễ chuẩn bị ( mất một ngày ) và trao truyền quyền năng ( mất một hay hai ngày ) .
Dù là dự thính
viên tích cực hay chỉ là quan sát viên . Chúng ta cũng khởi đầu bằng việc súc
miệng với nước dành riêng cho việc này . Tượng trưng sự tịnh hóa thân vật lý .
Điều này phải thực hiện mỗi ngày trước khi đi vào nơi lễ khai tâm .
Nếu nghi lễ xảy ra
giữa trời , chúng ta khạc nước một cách tế nhị trên cỏ còn khi nghi lễ xảy ra ở
nơi kín đáo sẽ có những bồn định sẵn cho việc này . Vì sau khi súc miệng không
nên uống nước đã tịnh hóa thân xong .
Sau đó , chúng ta
hướng về cứa Đông màu đen . Nhưng không thể trong thấy bên trong cung điện Mandala , vì cửa vào được che bởi tấm màn .
Mandala Kalachakra và môi trường được thiết lập bao gồm 722
đức Phật nam và nữ chung quanh .
Cho dù vị thầy
trao truyền lễ khai tâm là đàn ông hay đàn bà . Đều được xem như xuất hiện dưới
khía cạnh của tất cả hình dáng chư Phật . Trước hết , chúng ta nên mô phỏng
những hình dáng trung ương và Phật
Kalachakra .
Để thuận tiện ,
giả định vị thầy trao truyền lễ khai tâm thuộc phái nam như người cha đang
ôm Bà Mẹ
của “ Sự Đa Dạng – Vishvamata ” . Suốt nghi lễ khai tâm , ông ở trung tâm
tầng thứ ba . Và chúng ta ở tầng trệt suốt thời gian của lễ khai tâm
.
Thật chú ý
về cha -
Kalachakra và mẹ – Vishvamata . Trong hình đang kết hợp Yab - Yum tiếng Tây tạng .
Tượng trưng cho sự kết hợp ( tính không chia chẻ ) của phương pháp và
minh triết cần thiết cho sự thành tựu trạng thái Phật .
Có thể hình ảnh
Mật tông của đôi lứa quyện vào nhau đã gợi hứng cho Jung những kỹ thuật kết hợp về hai khía cạnh tâm lý con người , cái
Anima và Animus .Nhưng , đối với Mật tông . Sự đồng nhất
tâm lý không mang lại ý nghĩa trong hình ảnh nguyên thủy thuộc về Mật tông
.
Trước khi vào
trung khu lễ khai tâm ở cửa Đông . Chúng ta lạy ba lần để tỏ ra tôn kính . Nếu
dự thính viên quá đông không thể thực hiện những lễ lạy đúng cách . Chúng ta có
thể tự nắm tay và thực hiện những lễ lạy bằng mô phỏng ( Những quan sát viên chưa quen những lễ lạy Phật
có thể thể hiện bằng mô phỏng ) . Kể cả khi có đủ chỗ để lễ lạy . Sau đó thực hiện cúng dường
Mandala , sau khi đã thể hiện đôi tay thích hợp
tượng trưng cho việc tham dự lễ khai tâm tổng quát .
Mandala là một vũ trụ
tượng trưng , có hình dáng tròn trịa tượng trưng cho vũ trụ thuần khiết của hình
dáng chư Phật riêng biệt . Nhưng Mandala được cống hiến ở đây tượng trưng cho vũ
trụ riêng của chính mình . Hình dáng thì không quan trọng mấy . Chúng ta có thể
mô phỏng một dãi ngân hà , một tinh cầu hay dĩa phẳng bao gồm núi Méru và bốn
châu lục . Nghi thức cúng dường này tượng trưng thế giới chúng ta đang sống .
Nếu là dự thính
viên tích cực . Bạn phải sẵn sàng cho đi tất cả để nhận lại những
giáo huấn
Kalachakra . Và chính
những giáo huấn này cho phép bạn đạt tỉnh thức vì lợi ích chúng sinh . Đồng thời
nếu là quan sát viên , bạn có thể thể hiện một Mandala tương tự , khi
lễ khai tâm đã tạo cho bạn sự gợi hứng cần thiết để trở thành một nghệ nhân của
nền hòa bình trên thế giới .
Đạo sư của chúng ta - Phật Kalachakra .
Sau đó giải thích làm cách nào để thiết lập động năng chính xác . Rồi ông trao truyền lễ khai tâm bên trong ; cho phép chuyển hóa hình ảnh cá nhân và thái độ với mình , ngươì khác và cuộc sống nói chung .
Thế giới
Kalachakra không phải là thế giới
thường ngày . Đương nhiên chúng ta không thể xâm nhập vào đó với chiều hướng
thông thường của sự chuyển hóa . Như trước khi đi vào phòng mổ . Nhà giải phẩu
và những phụ tá phải mang bao tay khử trùng và giữ sạch sẽ tuyệt đối .
Tương tự , suốt nghi lễ chuẩn
bị sự đi vào Mandala
Kalachakra . Chúng ta đã có một lý
lịch vắng bặt mọi dấu ấn lầm lẫn và hoàn toàn thuần khiết bên trong . Điều này ,
có nghĩa sống lại như những đứa trẻ tâm linh của Đạo sư Kalachakra
. Những nét chúng ta tương tự với những đường nét của chúng dù
ít thuần khiết hơn . Đó là tình cảm đồng dạng dùng làm căn bản cho sự phát triển
tương lai .
Khi đã có quyết định yêu cầu
trao truyền quyền năng hữu hiệu hay chỉ dự thính nghi thức lễ khai tâm như
những quan sát viên đơn giản . Chúng ta cũng thực hiện hết mình để tự mô phỏng
như thế .
Những gì có tác dụng phát
sinh lòng bác ái trong cử tọa . Tâm thức đoàn kết này sẽ góp sức cho sự thiết
lập hoà bình trên thế giới như ngày xưa ở kinh đô Shambala . Khi
những cư dân tụ họp lại bên trong Mandala vĩ
đại của Kalachakra . Những chuyển hóa
nối tiếp suốt buổi lễ Khai tâm
Kalachakra và những thực hành thiền
định sau đó đều có căn bản từ tính không (
khoảng lặng ) .
Sự kiện rõ biết về tính không
nguyên thủy của tất cả những hiện tượng , hòa nhập thái độ in sâu trong tâm thức
, để tự phục hồi dưới những hình dáng bình thường . Cũng như tình cảm hãnh diện
đồng dạng với trạng thái này . Như vậy chúng ta tập trung về sự vắng bặt hiện
hữu bền vững và cụ thể về bản ngã « bên
ngoài » .
Vì đó chỉ là sự phóng chiếu , có
nghĩa là vắng bặt sự hiện hữu của nội tại . Chẳng hạn , nếu tâm thức dung tục
nói rằng : Chúng ta rất xấu xí , béo phì và không có khả năng gợi cảm hay mang
đến hạnh phúc . Rồi tự thuyết phục mình tin vào sự hiện thực của hình ảnh này .
Bây giờ cần gìn giữ rõ biết về tính không hiện thực một cách hoàn hảo . Chúng ta
hiểu con quái vật này không gì khác hơn là sản phâm của tâm thức lầm lẫn và dao
động .
Sự đồng dạng này hoàn toàn
huyễn hoặc và vắng bặt hiện thực . Vì nếu diễn dịch từ sự hiện hữu của nội tại ,
mọi người đều nhận ra chúng ta như thế . Ngay cả những người thân . Trường hợp
này thì không phải như vậy .
Giống như , xóa bỏ một chức
năng nào đó của phần mềm máy vi tính . Chúng ta sẽ rút lập trình tiêu cực khỏi
tâm thức đã gây ra nhiều đau khổ và lo âu ; và tải lại phần mềm thuần khiết
trong chiều hướng đồng dạng do đạo sư
Kalachakra đề nghị .
Trong bối cảnh lễ khai tâm . Dáng
dấp mới và chiều hướng đồng dạng sẽ phục hồi khả năng của tâm thức tỉnh thức ;
dùng làm chỗ tập họp cho sự phát triển vài phẩm chất tích cực . Vì đây là hình
dạng hoàn toàn trống rỗng để thuần hóa từ những khuyết điểm và ô nhiễm trong quá
khứ .
Nếu bạn là dự thính viên tích
cực . Suốt giai đoạn lễ khai tâm khác biệt . Bạn mô phỏng chỗ tập họp đã vắng
bặt những ô nhiễm qua và được gieo vào nhữn hạt mầm tỉnh thức mới . Những phẩm
chất tích cực sẽ sinh sôi nhờ vào sự thực hành những thiền định về sau
.
Nếu là quan sát viên . Bạn tự
thực tập mô phỏng tâm thức như thế , để vun trồng tối đa những lợi ích
của nghi thức Kalachakra . Bạn đánh lạc hướng hình ảnh thông thường về mình .
Những lo âu , phiền muộn , sợ hãi và phục hồi cái nhìn tích cực dưới những nét
của Phật Kalachakra .
Bạn mô phỏng tâm thức tỉnh thức
chính mình như chỗ tập họp của năng lượng tích cực . Chức năng này có được trong
suốt quá trình lễ những khai tâm khác nhau . Bạn sẽ được phát sự gợi hứng cần
thiết cho sự phát triển tâm linh trong tương lai .
Sau đó , nếu không thực hành
những thiền định ; riêng về hệ thống Kalachakra như : Gìn giử sự tái cân bằng
hình ảnh cá nhân theo những chỉ thị trong nghi thức của lễ khai tâm . Bài tập
này sẽ hiện hữu trong bạn suốt nghi thức lễ khai tâm và trong bạn sẽ có những
tiếng vang ngoại hạng .
Trong suốt lễ khai tâm bên
trong , nên tự mô phỏng tâm thức tỉnh thức và hình dung về tính không . Hình
dung chúng ta là những đứa con tâm linh của đạo sư Kalachakra
được người ban tặng ánh sáng sáng tỏ tỉnh thức . Quá trình tái sinh này được xem
như hữu hiệu theo những giáo huấn của những văn bản Mật tông cung cấp
.
Để bắt đầu , chúng ta đi sâu
vào miệng của đạo sư
Kalachakra , bằng sự rõ biết trong
trạng thái Bardo . Như đi
sâu vào miệng của người cha tương lai hay như tâm thức đi vào niềm nội hỉ rõ
biết tính không .
Chúng ta đặt nền tảng bằng
hình ảnh giọt trắng của Bồ đề tâm chảy xuống kinh mạch trung ương của
người cha Kalachakra , cũng như tâm thức hành giả di chuyển suốt dòng kinh
mạch trung ương của thân vi tế . Chạy qua những Chakras
và trạng thái rõ biết ngày càng tinh
vi hơn , tạo ra niềm nội hỉ ngày càng mãnh liệt .
Từ bộ phận bí mật của người
cha ; chúng ta đi vào tử cung bà mẹ -
Vishvamata , như tâm thức một hành
giả đi vào ánh sáng tỉnh thức . Tâm thức tỉnh thức hợp thành « tử cung tỉnh thức » ( thai tạng thuật ngữ tương đồng
) ;
với khía cạnh chủ yếu của Phật tính . Trong tử cung , chúng ta tập trung vào
tánh không để được sinh ra dưới hình thức đơn giản của người cha -
Phật Kalachakra .
Cũng như một hành
giả phát sinh dưới hình dáng trống
rỗng của Kalachakra từ sự
rõ biết tỉnh thức nội hỉ - tính
không . Chúng ta ở tư thế
đứng và không có gương mặt có hai tay và hai chân . Đầu , đôi tay và thân mình
màu xanh dương đậm , chân phải màu đỏ và chân trái màu trắng . Để tự nhắc nhở
những đường nét khác biệt , chúng ta có thể nhờ vào quá trình ghi nhớ kỷ
.
Dù Kalachakra là nam phái .
Nhưng người nữ vẫn có thể tự mô phỏng dưới những đường nét mà không cảm nhận bất cứ sự khó chịu nào . Vì ở đây là cảm nhận những cảm giác thông thường liên quan đến nam tính .
Hơn nữa , tâm thức tỉnh thức
không là nam hay nữ trong tinh túy . Trong suốt chu kỳ tái sinh không khẳng định
ngay nam hay nữ .Nhất là những hình dáng chư Phật ra ngoài những đặc thù của
giới tính .
Vì tâm thức tỉnh thức dùng
làm nơi tập họp cho niềm rõ biết nội hỉ tính không sẽ phù hợp với tự mô phỏng ,
dưới những đường nét của con búp bê không giới tính bằng nhựa .
Vì thế khi phát sinh tâm thức
tỉnh thức dưới dạng con người mới có những bộ phận sinh dục . Với hệ
thống Mật tông Anuttara Yoga Tantra như
Vajrayogini chẳng hạn . Chủ yếu là
nhờ vào vị Phật là nữ . Trong khi những hệ thống khác - Mật tông Kalachakra vị Phật chủ
yếu lại là nam .
Cần phải hiểu , sự hãnh diện của
chúng ta hay chiều hướng tính chất . Cần xuất phát từ những gì là tâm thức tỉnh
thức làm nơi tập họp cho hạt mầm tỉnh thức . Không phải xuất phát từ những đặc
trưng của tính dục .
Sau đó , giảng sư
Kalachakra mời tất cả những dự thính viên .
Chư Phật nam hay nữ đi vào vào tử cung người mẹ - Vishvamata , để yêu cầu trao truyền quyền năng . Quá trình này sẽ chuyển hóa chúng ta thành chỗ tập họp thích nghi cho những giai đoạn về sau .
Là những hành giả , với tâm
thức tập trung vào chư Phật để đón nhận quyền năng và sự gợi hứng . Trong khi
các ngài là những hình dáng trống rỗng bên trong với niềm rõ biết
nội hỉ - tính không trong chiều hướng Phật tính .
Đơn giản , chúng ta đến để
chuyển hóa thành một vị Phật
Kalachakra trong tử cung
bà mẹ - Vishavamata . Hãy nhớ lại , khi tâm thức hòa tan vào chư Phật ,
trong khi chúng ta chỉ là những chỗ tập họp được gieo những hạt mầm . Nơi sinh
sôi những tiềm năng bản chất Phật trong tâm thức tỉnh thức . Như những đứa con
tâm linh của giảng sư
Kalachakra - Tâm thức tỉnh
thức . Chúng ta sinh ra trong tử cung
bà mẹ Vishvamata và giữ chỗ trước cửa Đông màu đen của Mandala .
Trong lễ khai tâm bên trong .
Chủ yếu cảm thấy mình được sinh ra như những đứa con tâm linh của
Kalachakra . Chúng ta cần có cảm giác đã thiết lập quan hệ dũng
mãnh và sâu sắc với Phật
Kalachakra , đồng thời cũng là
Lama trao
truyền quyền năng Kalachakra và chính mình
là tâm thức tỉnh thức - Bản chất
Phật .
Chỉ những dự thính viên tích
cực với những thệ nguyện Mật tông đã được đón nhận trong giai đoạn về sau của lễ
khai tâm . Họ sẽ trở thành những huynh đệ nam
nữ Vajra . Nhưng trong giai đoạn này
, tất cả dự thính viên dù tích cực hay đơn giản chỉ là quan sát viên ; đều kết
hợp và hình thành chung một « đẳng
cấp » duy nhất .
Từ « đẳng cấp » này , chỉ định về
đường nét chung của gia đình chư Phật , khi tất cả những gia đình này hợp thành
sự duy nhất . Có nghĩa , lúc ấy chỉ còn lại tâm thức tỉnh thức .
Như những dân cư
Shambala ngày xưa , chúng ta để lại bên lề những khác biệt
không đáng kể và quay trở lại căn bản chung với tất cả tiềm năng và phẩm chất
của tâm thức tỉnh thức , dùng làm chỗ tập họp cho sự phát triển và thành tựu tâm
linh . Mục đích này sẽ đạt đến trong thực hành Kalachakra hay tất
cả con đường thuộc tôn giáo hay hệ thống tâm linh nào khác .
Rõ biết sự tiến bộ của mình
về tất cả . Được đặt trên căn bản của niềm xác tín : « Những con đường tuy
khác biệt hay không tương thích . Nhưng vẫn có thể giao lưu và hòa hợp với nhau
để làm việc một cách hài hòa , để thiết lập hòa bình thế giới » .
Nên sống với lễ Khai tâm
Kalachakra trong niềm tin mạnh mẽ và sâu sắc . Không quan trọng phải thấy hay
không có thân màu xanh dương cùng chân phải màu đỏ và chân trái màu trắng . Niềm
xác tín vào sự hợp nhất này quan trọng nhiều hơn vào sự hoàn thiện những mô
phỏng .
Sau khi đã nhận lễ khai tâm bên trong .Những dự thính viên tích cực cần yêu cầu
Lama
truyền đạt những đường hướng sống bền vững . Cũng như những tập huấn liên quan đến trạng thái Bồ đề nguyện và những thệ nguyện Bồ tát đạo .
Những quan sát
viên mong muốn đón nhận đường hướng sống bền vững và hai loạt thệ nguyện đầu
tiên hoặc cả ba họp chung lại , cùng thực hiện công cuộc đi tìm giảng viên trao
truyền quyền năng .
Đạo sư của chúng
ta - Kalachakra . Sau đó khai triển lễ qui y và con đường
Bồ tát đạo của Mật tông và ông trao truyền quy y Tam bảo và những thệ nguyện Bồ
tát đạo khi tụng đọc ba lần một đoạn thơ ngắn . Dù những văn bản liên quan đến
lễ Khai
tâm Kalachakra đặc trưng chỉ là những thệ nguyện Mật tông
yêu cầu và sau đó được trao truyền sau lễ qui y .
Quá trình thông thường
này thường xảy ra vào ngày hôm sau . Có nghĩa trước sự trao truyền quyền năng
hữu hiệu . Giai đoạn tiếp theo nghi thức chuẩn bị nhằm bảo tồn sự kết hợp giữa
phương pháp và minh triết nhờ vào sự chuyển hóa sáu thành phần thân vật lý thành
sáu vị Phật nữ .
Khi tâm thức bị
bủa vây trong sự lầm lẫn ; làm phát sinh ám ảnh của bản ngã . Dĩ nhiên trên căn
bản lầm lẫn với sự hỗ trợ của những thành phần thô lỗ . Đồng dạng với hình ảnh
này . Chúng ta tin vào sự hiện thực của nó , có thể bạn cảm thấy mình mập và xấu
xí . Không đáng hưởng tình thương hay hạnh phúc cá nhân . Nhưng hình ảnh này
không hài hòa với hiện thực : Vì nó phát xuất từ tâm thức nhị
nguyên .
Để có thể sử dụng
như những chỗ tập họp thích nghi với những lễ khai tâm khác biệt tiếp nối .
Chúng ta cần loại trừ thói quen phá hoại này . Nếu tâm thức ngưng tập trung vào
những thành phần thô lỗ của thân vật lý và tâm thức như : Đất, nước, lửa, gió, không gian và tri thức .
Khuynh hướng này phóng
chiếu bằng sự lạc điệu đi ngược với hiện thực . Những hình ảnh chúng ta có thực
về mình sẽ mất đi sự sống động . Nhưng nếu bạn biết tịnh hóa sự phóng chiếu này
bằng nghi lễ khai tâm , sẽ dễ dàng hơn trong sự tập trung kết hợp phương pháp và
minh triết cũng như sự rõ biết nội hỉ vận hành nối tiếp với sự rõ biết tính
không .
Tâm thức chúng ta nếu
được bảo tồn phẩm chất rõ biết . Nó sẽ không sáng tác trở lại chiếc mặt nạ đi
ngược với hiện thực . Tạo cơ hội cho những thành phần thô lỗ chi phối sự tịnh
hóa và chuyển hóa .
Khi đã hòa tan trong
sáu Chakras chính của kinh mạch năng lượng trung ương . Những cơn gió năng lượng
sẽ có trách nhiệm về sự sáng tạo thân vật lý bên ngoài đi ngược với hiện thực về
niềm rõ biết nội hỉ - tính không .
Có thể được trau
chuốt lại ( tịnh hóa
) và kết hợp với ánh sáng
tỉnh thức . Niềm rõ biết ánh sáng tỉnh thức phát sinh từ nội hỉ sẽ sáng tạo
những bề ngoài hài hòa với hiện thực . Có nghĩa như những
hình dáng trống rỗng - Những hình dáng không hợp thành bởi những thành phần thô
lỗ hay những phân tử nguyên tử vật chất .
Sáu vị Phật nữ của
lễ Khai
tâm Kalachakra tượng trưng những hình dáng trống rỗng này
( Dakini minh triết
) . Với những biểu tượng sự chuyển hóa này - dạng thức căn bản từ
Yoga
sẽ phát sinh tất cả những biểu
lộ . Chúng ta mô phỏng sáu Chakras
dưới dạng vầng trăng và
những nguyên âm mầm .
Mỗi
một Chakra
với màu sắc của thành phần
thân vật lý và vi Phật nữ tương ưng . Những vầng sáng và những nguyên âm tương
trưng chư Phật nữ đến thay thế những thành phần thô lỗ . Sự kiện mô phỏng từng
vầng sáng với Chakra tương ưng sẽ đóng góp vào việc thu hút những cơn gió
năng lượng ở những nơi khác biệt của thân tế nhị chúng ta .
Những mô phỏng
được lặp lại mỗi lần với những thay đổi trong suốt lễ
Khai tâm Kalachakra . Đồng thời trong những thời Sadhana về sau , rất cần thiết nhờ vào những kỹ
thuật gợi nhớ để chúng ta có thể tự nhắc nhở về sự tương ưng màu sắc , những
thành phần thân vật lý và những Chakras .
Bốn giọt tế nhị ,
có nghĩa là : Thân , lời , tâm thức và sự rõ biết sâu sắc . Tuần tự nằm ở
trán , cổ , trái tim và rún . Những màu sắc tuần tự như sau : Trắng , đỏ , đen và vàng . Nước trắng như tuyết ở
trung khu trán , cũng như giọt vi tế thân . Lửa đỏ ở trung khu cổ . Gió màu đen
như những vầng mây đen của bảo ở trung khu ở tim . Đất vàng ở trung khu rún
.
Đôi khi , thành phần
đất và thành phần gió thể hiện đảo lộn trật tự . Bốn thành phần thể hiện theo
trật tự sau : gió , lửa , nước và đất . Thành phần không gian có màu xanh lá -
Gợi ý cho chúng ta về lá cây và thiên nhiên và cho dù bất cứ phân loại chọn theo
nào , trung khu của nó ở đỉnh đầu .
Sự rõ biết màu xanh
đen gợi lên hình ảnh màu nước xanh của biển cả - Trung khu ở vùng xương mu (
pubis ) . Tương tự , những hình dáng dùng để tượng trưng cho không gian có màu
xanh lá và nằm ở tầng thứ tư , tầng cuối cùng của cung điện - Mandala Kalachakra
. Trong khi những màu sắc tượng trưng cho sự rõ biết sâu sắc là màu xanh đen nằm
ở tầng trệt .
Những dự thính
viên chưa có khả năng mô phỏng những màu sắc và những chi tiết khác . Được nhắc
nhở điều quan trọng là :
“ Giữ trong tâm thức căn bản thuần
khiết về ánh sáng tỉnh thức , hòa tan với căn bản không thuần khiết của những
thành phần thân vật lý làm phát sinh lầm lẫn mỗi khi nó dấy lên
” . Sự quay về này một cách có hệ thống làm
tái xuất hiện hình ảnh về chính mình đi ngược hiện thực với vô số những bất lợi
.
Những ai không
màng tham gia vào lễ Khai tâm
Kalachakra như những quan
sát viên . Cũng có những tiện nghi để đặt những vấn đề về hình ảnh bản ngã bình
thường của chính họ . Cũng như vào sự đồng dạng với tính chất thực của vấn đề đã
trình bày . Dù chúng ta đã có những thói quen phóng chiếu hình ảnh sẵn có về
mình vào những thành phần của thân vật lý .
Hình ảnh và những
thành phần này là hai sự việc hoàn toàn khác biệt . Thân vật lý có thể già nua .
Nhưng tư tưởng chúng ta lúc nào cũng giữ sự trẻ trung . Với những kỹ thuật mô
phỏng từ buổi lễ Khai tâm Kalachakra đề nghị . Chúng ta có thể phá vở hình ảnh cá nhân và có niềm xác tín về
hiện thực của nghi thức khai tâm này .
12- Tịnh Hóa Thân , Lời ,
Tâm
Định Nghĩa Những Thành Tựu Tương Lai
Giai đoạn tiếp theo của nghi thức chuẩn bị nhằm chuyển
hóa
và nâng chúng ta lên từ thân , lời và tâm thức .
Như thế , chúng ta mô phỏng
những vầng sáng với những màu khác biệt . Cũng như những nguyên âm mầm tương ưng
trong ba Chakras : Vầng sáng trắng cho
Chakra trán . Vầng sáng đỏ cho Chakra cổ và vầng sáng trắng ở tim
. Mỗi một Chakra là trung
khu của hạt vi tế của thân, lời và tâm thức .
Mục đích của quá trình theo đuổi
là để ngăn chận tâm thức phóng chiếu những bề ngoài đi ngược với hiện thực suốt
trạng thái tỉnh, mộng và giấc ngủ sâu . Nhất thiết quá trình này cho phép chú ý
vào những giấc mộng trong đêm . Vì sáng ngày mai, Lama sẽ đặt những câu hỏi về
chủ đề này .
Những quá trình tương tự cũng
để tịnh hóa thân , lời và tâm , được sử dụng suốt lễ khai tâm Kalachakra và Sadhana ( nghi quỹ ) sau này . Giai đoạn nghi thức chuẩn bị này . Những môn
đồ chính thức cũng như một người đại diện những dự thính viên khác . Đứng dậy và
tiến về ngai của của đạo sư vận hành buổi lễ .
Cầm một nhánh “ Neem ” thẳng
đứng giữa hai tay khép . Họ để rơi trên một cái mâm được chuẩn bị sẵn trong khi
vẫn đọc tụng Mantra . Rồi quay về những trung khu thuộc về lễ khai tâm .
Những nhánh “ Neem ” dùng làm bàn chải đánh răng ở Ấn độ và làm biểu tượng
sự thuần khiết . Mâm chứa một Mandala làm bằng
bột màu , bao gồm vùng trung tâm và bốn
nhánh . Mỗi nhánh đại diện một phương hướng của không gian .
Hướng do nhánh chỉ định , rơi
vào biểu tượng đại diện một trong năm sự thành tựu của mỗi học trò dễ dàng nhất
trong thực hành . Nhờ vào thực hành Tantra
Mật tông Kalachakra , cũng như những
khả năng đánh tan những nhiễu loạn .
Khả năng kích thích sự tăng
trưởng những phẩm chất tích cực , khả năng kết thúc những hoàn cảnh nguy hiểm
thật sống động và khả năng thành tựu mục tiêu tối thượng . Có nghĩa đi vào sự tỉnh thức .
Sau đó , Karmavajra phụ tá biểu lộ từ đạo sư - Kalachakra màu xanh dương . Tưới nước chứa trong chiếc bình trên đôi tay chụm
lại thành hình chiếc cúp . Với ngụm đầu tiên , chúng ta súc miệng . Rồi thêm ba
ngụm khác để tịnh hóa thân , lời và tâm thức . Đồng thời nước sẽ được phân phát
suốt hai ngày tiếp theo .
Những quan sát viên cũng đón nhận
nước tịnh hóa này . Khi mô phỏng , chúng ta thấy nước lan dần trong thân mình và
hòa tan trong đó tất cả những khía cạnh tiêu cực . Cũng như những chướng ngại
ngăn chận thân , lời và tâm thức làm việc vì lợi ích cho tất cả chúng sinh
.
Karmavajra phân phát cỏ Kusha ,
một nhánh dài và một nhánh ngắn . Ban đêm, trước khi lên giường . Chúng ta đặt một nhánh dài dưới nệm , theo chiều dài đầu trước hướng về phía gối . Nhánh ngắn dưới gối thẳng góc với nhánh dài ; đầu nhánh hướng ngược lại với khuôn mặt chúng ta .
Nên ngủ nghiêng về phía phải
. Với điều này chúng ta tôn trọng phương thức nằm của đức Phật . Ở Ấn độ , thông
thường cỏ Kusha dùng để làm chổi . Vì thế , ngủ trên những nhánh
Kusha
để có đức tính tịnh hóa tâm thức những ô
nhiễm và làm cho những giấc mộng có thể trong sáng lớn .
Ban ngày vào bình minh .
Chúng ta nên xem lại những giấc mộng đêm qua . Vì chúng cung cấp những chỉ định
từ kết quả của thực hành Mật tông
Kalachakra . Những quan sát viên cũng
có thể thực hành bài tập này . Dù những giấc mộng của họ thường không có ý nghĩa
về tâm linh thực sự . Nhưng điều này có thể làm cho họ cảm thấy rất thú vị
.
Ngày hôm sau, tất cả những nhánh
Kusha được đốt một cách tôn kính hay được đặt vào những bụi trong địa hình (
site ) . Cuối cùng , Karmavajra phân phát những sợi dây bảo vệ màu đỏ và những
dự thính viên cột quanh tay trái hay phải tùy thích .
Những sợi dây này là biểu
tượng của Maitreya - Phật kế
tiếp theo chiều hướng đăng quang thật
sự hay theo chiều hướng phát triển nơi môn đồ Maitri - Tình thương thuần khiết dành cho tất cả chúng
sinh ( Lòng từ ) .
Nếu chúng ta tin vào những
thông điệp . Maitreya không đến trước hàng triệu năm và chỉ phát triển tình
thương thuần khiết . Đồng thời có thể kéo dài cực kỳ lâu đến độ chỉ cần giữ sợi
dây này nơi tay một thời gian tượng trưng , đến cuối nghi thức lễ
Khai tâm Kalachakra để tự nhắc nhở :
“ Mỗi một con người đều mong muốn sự vượt qua
đau khổ và sở hữu những nguyên nhân nhân hạnh phúc ” .
Nếu tiếp tục mang nó sau lễ
khai tâm . Điều này sẽ thu hút những sự chú ý vô ích và phải giải bày trước
những câu hỏi vô nghĩa . Sau lễ khai tâm , tốt hơn nên đặt sợi dây trong túi hay
trong bóp để tự nhắc nhở ý nghĩa :
“ Cần vun trồng tình thương vì lợi ích tất cả
chúng sinh ” .
Nhưng cũng có thể đốt hay
treo lên một nhánh cây . Những ai cảm thấy vô ích khi tiếp tục mang nó như biểu
tượng nhắc nhở tình thương ; chỉ để chứng tỏ với người khác . Hiển nhiên nên tự
do thực hiện điều đó hơn như thói quen ở phương Tây mang chiếc nhẫn . Để chứng
tỏ những quan hệ đã ký kết trong hôn nhân .
Chúng ta mô phỏng lần nữa
những : Nguyên âm mầm với sáu Chakras chính
của kinh mạch năng lượng trung ương . Sáu
chư Phật nam của Mandala Kalachakra phát sinh mỗi vị Phật trong tư thế phối ngẫu
và mỗi vị Phật này hòa tan dần trong nguyên âm mầm tương ưng . Rồi tụng đọc Mantra
dài cầu khẩn Vajrastava với mục đích nâng thân , lời và tâm
lên cao .
Đạo sư chúng ta - Kalachakra ,
tụng đọc những đoạn thơ ngắn để gợi hứng và làm tràn ngập chúng ta niềm hoan hỉ
. Khi có cơ hội quí báu về lễ Khai tâm này . Đương nhiên sẽ có viễn ảnh về
chuyến đi dài vào con đường Mật tông .
Thế rồi , ngài tụng đọc
Mantra “
Ohm Ah Hum Hoh Ham Kshah ” . Mantra này hợp thành từ những nguyên âm mầm vừa mô phỏng với
sáu Chakras thân vật lý và chúng ta sẽ lặp lại theo ngài
.
Theo âm Tây tạng ,
Mantra này được đọc là : “ Ohm Ah Hung Ho Hankya ” . Đạo sư sẽ khuyên chúng ta tụng đọc Mantra này một số
lần nào đó vào buổi tối khi vừa thiêm thiếp ngủ và xem xét những giấc mơ vào
bình minh hôm sau .
Sau đó , những quan sát viên
có thể lặp lại Mantra , mỗi khi
cảm thấy nhu cầu bảo vệ tâm thức đối với những tư tưởng nhiễu loạn . Và chính
nghi thức này dùng để kết thúc nghi thức chuẩn bị lễ Khai tâm Kalachakra
.
Thấy hiểu và theo đuổi những giai đoạn khác biệt
của lễ Khai tâm Kalachakra , không phải là việc dễ dàng .
Nhưng không gì phải lo âu .
Khi một trong những giai đoạn nào đó làm hoang mang hay làm chúng ta hoàn toàn
lạc hướng . Vì về phần thực hành , người lần đầu tiên tham gia và lễ
Khai tâm Mật tông không thể phát sinh ngay tức khắc những mô phỏng thật
sáng tỏ .
Những ai cố gắng thực hành Mật
tông miệt mài hơn , sẽ đón nhận được sự trao truyền quyền năng nhiều lần và càng
quen thuộc thì quyền năng mô phỏng càng gia tăng . Vì thế , mỗi người cần cố
gắng hết mình nhưng với sự thanh thản ; và không bao giờ nản chí sau khi xem xét
những mặt mình còn yếu .
Vị thầy quá cố của tôi
- Tsenzhab Serkhong Rinpoché , đã cung cấp những lời hướng dẫn quí báu về thực hành
những mô phỏng Mật tông . Ông so sánh diễn tiến sự trao truyền quyền năng ,
những nghi quỹ , những buỗi lễ ( Puja
) và những quá trình khác thuộc về
Mật tông giống như một bộ phim .
Trong một cuốn phim , những
màn tiếp nối không ngừng với mỗi đoạn dài ngắn tùy theo vấn đề diễn tiến . Vậy
không cần phải cố chồng chất những màn khác nhau trong một cuốn phim để có thể
nhìn tất cả các lớp ( séance )
cùng một lúc . Tương tự thế , chúng
ta duy trì trong tâm thức hình ảnh mỗi vị Phật , vầng sáng và nguyên âm mầm với
Chakra tương ưng trong suốt thời gian ngắn .
Vì thế , thời gian rất cần
thiết cho sự trao truyền quyền năng tương ưng . Mỗi lần thay đổi màn . Nên để
bên lề mô phỏng riêng biệt để có thể đi qua màn tiếp sau . Nếu , trong giây phút
nào đó không thể theo đuổi .
Chúng ta chờ lớp
sau ( séance
) không cần lo âu ; và cũng không cố quay lại . Nếu
không phim có nguy cơ bị kẹt trong máy chiếu . Đồng thời , những lời khuyên này
có giá trị cho cuộc sống hàng ngày .
Thế là cuộc sống trở thành vui vẻ
hơn khi để nó diễn tiến như cuộn phim thay vì tìm cách bám chặt vào một màn
riêng biệt nào đó . Bằng không , có
thể chúng ta sẽ cảm thấy mình bị mặc cảm và rơi vào tự trách mình
.HET=OM MANI PADME HUM.( 3 LAN ).GESHE TASHI TSERING .( MHDT ).14/4/2012.
|
Friday, 13 April 2012
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment