|
|
||||||||||||
Một dấn thân khác thuộc về lễ khai tâm Kalachakra ;
Đặt trên 25 mô hình hành xử chủ động .
Theo Tsongkhapa . Những điều này hệ thống thuộc đẳng cấp Mật tông Anattura Yoga
không đòi hỏi cho lắm .
Nhưng Ngari
Panchen nói rõ nó có tính chất chung của tất cả những hệ thống
Mật điển ( Tantras ) cao cấp bao gồm Dzogchen
. Dù vậy Tsongkhapa và Ngari Panchen cùng đồng ý một điểm về định nghĩa của hành xử chủ
động . Họ cho rằng : « Nhằm tự từ khước vi
phạm một cách chắc chắn một trong hai mươi lăm hành động tiêu cực bị ngăn cấm »
.
Bị dục vọng , giận dữ hay lầm
lẫn vô nghĩa chi phối trong hiện thực hay bị định luật nhân quả thuộc về thái độ
chi phồi và đã đánh mất chiều hướng danh dự và phẩm cách chi phối . Hai mươi lăm
mô hình chủ động hành xử này được chia thành năm nhóm như sau :
Nhóm đầu tiên :
Đặt những thệ nguyện cho
những người thế tục . Đôi khi được chỉ định bằng “ Năm Lời Khuyên ” và những hành động thích hợp để từ khước được vạch
rõ :
1-Giết hại cuộc sống chúng sinh .
Theo chiều hướng
như giết người được đề cập trong những điều cần tránh . Có nghĩa bắt họ chịu
những thiệt hại thân xác cho dù con người hay con vật . Cũng như hành sử cho
người khác phải chao đảo về tâm lý . Nói một cách khác : Khủng bố bằng yếu tố tâm lý .
2-Nói dối thật nghiêm trọng .
Giảng dạy những
quan kiến sai lầm từ những sáng chế riêng biệt của chính mình . Đồng thời , sự
gian lận trong thương trường cũng được xem như lời nói dối . Chẳng hạn bán với
giá không tương xứng với gía trị hàng hóa . Hoặc tìm cách tìm cách lợi dụng sự
thành thực của người khác .
Dù vậy vẫn không có
lỗi . Nếu tỏ ra cứng rắn để kết thúc thương vụ với họ cho dù hợp đồng lâu dài
đến đâu đi nữa . Với động lực không phải là lòng tham . Vì sự lo âu để cạnh
tranh không nhất thiết là thái độ đến từ một tâm thức rối loạn .
3-Chiếm hữu không có sự đồng ý của sở hữu chủ
.
Điều này đồng nghĩa với ăn
cắp ; cho dù giá trị món đồ ra sao đi nữa . Không trả tiền công hay không bồi
hoàn những vật mình mượn . Cũng như sử dụng computer của ngưới khác không xin
phép ; cũng xem như chiếm hữu trái phép .
4-Thái
độ tính dục trái phép hay không thích ứng .
Cho dù chỉ vài giây phút
trong tháng . Vài nơi chốn hay một vài bộ phận nào đó trong cơ thể . Vẫn được
xem không thích đáng cho những quan hệ tình dục . Vì chúng thường phát động từ
dục vọng quá trớn như bắt người khác phải phục vụ tính dục cho mình . Thái độ
tính dục đáng chê trách nhất là quan hệ tính dục với chồng hay vợ của người khác
.
5-Uống
rượu .
Theo chiều hướng cực đoan .
Có nghĩa ; dù không dùng một giọt rượu nào ; có liên quan đến dùng những thứ ma
túy vì nhàm chán để giải buồn . Cũng như những chất kích thích khác .
Rượu và những ma túy che mờ
tính phán đoán và ăn mòn sự tự chủ . Thường dẫn đến những hành động , lời nói
hay tư tưởng có hại . Động lực đẩy đến sử dụng chúng không thay đổi gì trong
điều răn cấm này .
Dù vậy vẫn có những trường hợp .
Tiêu thụ rượu không được xem như một lỗi . Chẳng hạn trong một nghi lễ cúng
dường ( Tsok ) . Thật ra , uống một ngụm rượu nhân cơ hội này chỉ là hành động
tượng trưng . Vì nếu từ chối sẽ được xem như sa ngã nền tảng trong chiều hướng
Mật tông .
Đồng thời những hệ thống đẳng cấp
Anattura Yoga sử dụng để tăng cường sự rõ biết niềm nội hỉ - tính không . Nhưng
phải trong trường hợp chính xác . Vì sự quá độ trong vấn đề này cũng tương tự
như hành động tính dục lầm lẫn .
Tuy thế . Uống rượu không cần
thiết được xem như một hành động tâm linh hay như con đường dẫn đến sự giải
thoát và tỉnh thức . Nó chỉ là một thành phần
trong kỹ thuật Yoga . Với mục đích làm chủ động năng lượng gió . Điều này đi kèm
theo ngăn cấm trạng thái say sưa và giử vững sự ổn định niềm rõ biết nội hỉ -
tính không .
Như thế mới hiểu được những
giáo huấn do thầy Rimé ban truyền , Kongtrül ( thế kỷ XIX ) . Cũng như hành xử chủ động không ngăn cấm những hành
giả Mật tông nhân lễ cúng dường hay uống rượu để tăng cường sự thực hành tâm
linh . Dù vậy với điều kiện không phải lao vào nhậu nhẹt say sưa . Nên , ngài
không tuyên bố chống lại việc uống rượu chừng mực có tự chủ .
Một số người cảm thấy sẵn
sàng dấn thân và gìn giử lễ Khai tâm
Kalachakra . Nhưng lại hoang mang với điều phải hứa từ khước mọi
thứ rượu . Họ tự hỏi : « Thật sự có phù hợp
cho họ khi yêu cầu trao truyền trọn vẹn quyền năng ? » .
Để trả lời cho nghi vấn này .
Chúng ta xem xét những thệ nguyện và những tập huấn về Bồ tát đạo . Trong nhiều
thệ nguyện Bồ tát đạo phụ nói rõ :
« Nếu có cảm tưởng không thể từ bỏ vài hành
động tiêu cực vì còn những cảm xúc tiêu cực mãnh liệt cần phải tránh . Ngược lại
, sẽ vi phạm lỗi nặng nếu thực hiện một cách nghiêm túc . Trong khi chúng ta có
quyền từ khước » .
Vì thế vài giảng sự khuyên
những thực tập sinh lễ Khai tâm
Kalachakra , còn bám chấp vào rượu .
Nên thực hiện những nỗ lực để giảm thiểu việc uống . Giảm từ từ và không uống
rượu khi tâm thức họ còn hiện diện 4 yếu tố nghiêm trọng .
Vì thế , cần tránh biện minh thói
quen uống rượu của mình . Ngay cả với những loại nước với phong tục uống rượu
hay bia trong buổi ăn . Chúng ta có thể từ chối bằng một phong cách lịch sự và
tế nhị để không phật ý ai cả .
Nhóm thứ haiNhững hành sử nhỏ chủ động tiêu cực nhỏ được xác định
như sau :
6-Lao
vào cờ bạc .
Những trò chơi trong xã hội
như : Đổ xí ngầu , bài bạc hay dùng miếng ván ghi số quay . Với động cơ ham
muốn tiền bạc , tranh chấp hơn thua ngụy trang là giải trí . Những hoạt động này
chỉ làm hao tán năng lượng xây dựng tích cực của chúng ta . Nhưng với những trò chơi có tính cách giáo dục vẫn
được phép . Chúng ta có thể dùng những trò chơi có tính cách giáo dục hay một
mình trong khoảng lặng .
7-Ăn
thịt .
Điều này không có nghĩa tuyệt
đối phải trường chay trường . Dù chủ nghĩa trường chay được khuyên bảo vì sức
khoẻ hay những hoàn cảnh cho phép . Như không phải là : Kiêng ăn thịt vì muốn
trở thành Phật hay người tốt . Nhưng khi nghi ngờ những con thú này cố ý giết vì
muốn cho chúng ta ăn . Loại thịt này được gọi là « Không đủ điều kiện » để thọ thực .
Trong thực hành
Anattura Yoga Mật tông , được dùng thịt trong những hoàn cảnh chính xác .
Tương tự như trường hợp uống rượu và để kết hợp nhục thể . Dù vậy , với điều
kiện thịt này không tiêu thụ cũng vất bỏ và mục đích quan trọng nhất là tăng
cường niềm rõ biết Nội hỉ - tính không
.
Có nghĩa là để phục hồi năng
lượng . Nhưng phải hiểu thịt không thể làm chúng ta tiến bộ trên con đường giải
thoát và tỉnh thức . Điều duy nhất chỉ có thể nương tựa vào những hành giả đã
đạt đến điểm nào đó của niềm rõ biết Nội hỉ - tính không và chủ động những cơn
gió năng lượng .
Trong trường hợp này , thịt
không còn là vấn đề nặng nề để suy nghĩ . Hơn nữa , trong bối cảnh Mật tông
trước khi tiêu thụ thịt . Chúng ta dâng tặng những lời cầu nguyện cho thú vật vì
cuộc sống người khác phải bị hy sinh , để không mất sự quan tâm về vấn đề đây
cũng là một sự sống . Giống như chúng ta , thú vật cũng mong muốn được giải
thoát đau khổ và đáng được hưởng như thế .
8-Đọc
những loại sách không giá trị .
Có thể là một quyển sách ,
một mục báo hay hình ảnh , vidéo ; hoặc bất cứ hỗ trợ nào có thể gây ra giận dữ
hay tạo ra những xung động khó kiểm soát . Như thế chỉ làm chúng ta lao sâu hơn
vào thế giới huyễn hoặc .
Chẳng hạn , nếu nhân vật là
tướng cướp tàn bạo , chúng ta sẽ thù ghét và thích chí khi thấy hắn bị người
anh hùng giết chết . Đồng thời hành động tiêu cực riêng biệt này có thể hỗ trợ
cho những lời vô nghĩa . Chẳng hạn ; kể một câu chuyện hay một giai thoại kích
thích sự giận dữ hay đánh thức những xung động tiêu cực khác .
9-Thờ
người chết .
Hiển nhiên vẫn cho phép đốt
nến ; hay đặt bó hoa trên mộ người thân để chứng tỏ lòng kính trọng . Nhưng
tránh thờ phượng linh hồn . Vì thờ phượng dạng này làm giảm giá trị thực hành
Mật tông .
Nó có nguy cơ làm mất quan
kiến về định luật nghiệp lực , và cho cảm tưởng sai lầm rằng : « Thỏa hiệp với những tâm thức thiên nhiên hay tâm thức người
chết cho phép có được giải thoát hay hạnh phúc » .
Cúng tế linh hồn được cho
phép với động lực là lòng từ . Chúng ta có thể làm nhẹ những đau khổ của linh
hồn hay làm dịu tâm phẫn nộ vì đã xúc phạm đến họ . Dù vậy , thật quan trọng nếu
tự nhắc nhở : « Cúng tế hay cầu phù hộ không
thể thay thế bằng hành động xây dựng . Cũng như lĩnh hội về tính không và thái
độ nhân từ » .
10-Vùi
đầu vào việc quá độ .
Tế thần bằng thú vật hay máu
. Thật sự những nghi thức như thế rất hiếm hoi trong ngày nay . Dù vậy tốt nên
hơn tự nhắc nhở : « Việc này có thể xảy ra
là : Chúng ta hy sinh lợi cả thân mạng mình vì ích người và sự tiến bộ tâm linh
riêng mình » .
Nhóm thứ baChủ động giết người .
Những hành động này nhằm từ khước :
11-Giết
gia súc hay xâm hại sự sống thú vật .
Từ khước đi săn hay câu cá
không thường xuyên là vấn đề chủ yếu . Vấn đề đặt ra nhất là đối với côn trùng .
Nếu dẫm đạp theo bản năng loài vật làm phiền mình . Chúng ta có nguy cơ tạo thói
quen bạo lực trong những hoàn cảnh khác .
Vẫn có những vấn đề cần loại bỏ
côn trùng trong nhà hay bên ngoài . Vì lý do sức khoẻ hay kinh tế . Chúng ta cần
loại trừ một số loài côn trùng quấy nhiễu và khi không có lực chọn nào khác hơn
là loại trừ chúng . Nhưng khi thực hiện hành vi này không nên giận dữ hay thù
hận .
12-Giết
đứa trẻ .
Trong những bình luận không
nói rõ tại sao trẻ em được đặt trong một phạm trù riêng biệt . Nhưng thực sự một
trong những vấn đề đượcchú trọng là giết chết con mới đẻ , giết sơ trẻ sơ sinh
là con gái ( thịnh hành ở nhiều nước thuộc
châu Á ) .
Mười giai đoạn của cuộc sống
trần tục được những giáo huấn Kalachakra bên
trong trình bày , về cuộc sống diễn
tiến trong tử cung người mẹ . Nên thêm điều nhắc nhở khác nói về sự phá thai .
Vài hoàn cảnh có thể biện
minh cho sự phá thai như vì sức khoẻ của bà mẹ chẳng hạn . Nhưng đây là một vấn
đề rất tế nhị . Tự mỗi người phải tự giải quyết trong chính sự rõ biết của mình
.
Lý do thường xuyên là cảm xúc
về sự quấy nhiễu như bám chấp vào tiện nghi ; hay giận dữ khi việc mang thai bắt
nguồn từ một cuộc hiếp dâm hay vì rơi vào lầm lẫn . Cũng có những nhận định cho
rằng phá thai là một phương tiện để giải quyết vấn đề nhân mãn trên hành tinh
. Nhưng dù với bất cứ động lực nào . Phá thai
được thực hành sau giai đoạn noãn phát triển được xem như là hành động giết
người .
Nếu không thể tránh hành động
tước đoạt sự sống của thai noãn . Phật học yêu cầu giảm thiểu những hậu quả
trong vài hành động . Những tác động tâm lý tức thời , nhưng cũng là những tác
động nghiệp lực lâu dài .
Chẳng hạn với tình thương và
lòng từ mạnh mẻ dành cho đứa trẻ chưa chào đời . Chúng ta có thể nhận ra cuộc
sống phát triển đến khi cho bé một tên hay tỏ ra thương xót và thương yêu trong
lễ an táng .
13- 14-Giết người nam hay nữ .
Hình thức giết người này mở
ra một vấn đề đạo đức tế nhị : Vấn đề về cái chết không đau , được thực hiện
trên cho người hay gia súc . Có sự khác biệt lớn giữa tiêm chất độc giết người
hay động vật ; để không kéo dài cuộc sống nhân tạo bằng trị liệu bằng đủ mọi
phương cách .
Theo quan điểm nghiệp lực .
Thích hợp nhất vẫn là chọn cái chết tự nhiên , mà vẫn giữ tiện nghi thân vật lý
của người hay thú vật . Điều này có nghĩa không để bị đau khổ vô ích
.
15-Hủy diệt
những bảo tồn thân tỉnh thức của Phật dưới hình thức hình ảnh , văn bản , di
tích ( Stupa ) . . . Hay giết những người đã dấn thân vào những thực
hành kỷ luật đạo đức ; đã tập trung hay chú ý phân biện ở trình độ cao . Nếu vì
một lý do nào đó , chúng ta cần phải xa lìa những văn bản tôn giáo . Có nghĩa
muốn nói chúng ta đốt chúng với lòng tôn kính .
Nhóm thứ tưHành xử chủ động với mô hình khinh miệt khác biệt như
sau :
16-Phản
bội mạnh thường quân của Pháp hay cuộc đời nói chung .
Nếu tự thuyết phục bằng
phương pháp nhân từ do người khác hành sử thiếu tính hữu hiệu . Điều này tạo ra
những cảm xúc quấy nhiễu . Chúng ta không chần chừ từ khước lợi ích của phương
pháp và cá nhân của họ . Thái độ này dễ dàng đưa đến chê bai trong tính chất quy
ngã . Vì thế ngăn chận rõ biết những gì có lợi cho người . Điều này ảnh hưởng
trầm trọng đến lòng từ ái .
17-Phản
bội người lãnh đạo hay trưởng tràng đáng được tôn vinh .
Cá tính họ có thể không làm
vui lòng chúng ta . Nhưng khi những sở thích đã che mờ tính phán đoán và ngăn
chận phân biệt những gì đáng trân trọng hay không . Điều này giống như đánh mất
chức năng phân biện .
18-Phản
bội vị thầy hay một vị Phật .
Đây chính là một hay những vị
thầy của mình . Bao gồm cả những vị thầy thật sự không đủ tư cách để giảng dạy
Pháp . Nhận ra những lầm lẫn vị thầy vi phạm hay những khuyết điểm của họ , hoặc những việc khác . Một
vài trình bày có nói rõ : Xem thường vẫn chưa được xem như lỗi nếu hướng về chư
Phật và Giáo pháp .
19-Phản
bội những thành viên của Tăng già ,
Và cộng đồng những hành giả cực kỳ thành tựu .
Tăng già có nghĩa : Cộng đồng
tu viện nói chung . Ở đây cần phải hiểu là những hành giả giáo Pháp đã trực nhận
về tính không . Có nghĩa không còn quan niệm . Nhưng , khi một tu sĩ nam hay nữ
dù chọn con đường tu viện vì những lý do khác biệt về tâm linh . Chúng ta tôn
trọng vì pháp phục họ khoác vào , do ý nghĩa này chúng ta không không tỏ ra
khinh thị họ .
Ở Tây phương « Tăng già » chỉ
định những thành viên trong một trung tâm Phật học . Ở đây cần phải tự giữ mọi
thù ghét đối với một người trong số của họ . Vì một tình cảm như thế luôn mang
nhiều sai lầm cho cộng đồng trong tổng thể .
20-Lừa
dối người đã đặt hết tin tưởng vào chúng ta .
Điều này có nghĩa làm họ thất
vọng , vì đã đặt hết lòng tin vào sự giúp đở của chúng ta . Nói chung , là vi
phạm những quyền hạn cần thiết .
Nhóm cuối cùng :Trong hai mươi lăm mô hình hành xử chủ động cảm xúc bao
gồm :
21 –Thấy
.22-Nghe .23-Ngửi
.24-Nếm .25-Xúc
chạm .
Sự hâm mộ giác quan làm hoang
mang việc đi tìm sự rõ biết không lay chuyển của niềm nội hỉ - tính không . Hiển
nhiên không đòi hỏi phải thay đổi để trở thành những nhà tu khổ hạnh . Thí dụ :
Như biết kiểm soát những sự thèm ăn . Chẳng hạn tự mình biết điều độ trong khi
ăn .
Bao gồm mười chín
kỹ thuật và cần thiết lập đối tượng để tạo ra những quan hệ mật thiết với năm
gia đình chư Phật .
Để tạo ra những quan
hệ mật thiết với sự “ Rõ biết sâu sắc như tấm gương ” - Đại diện cho Vairochana
. Chúng ta tìm phương hướng sống vền vững qua
Phật , Pháp và Tăng già .
Tương tự , thực hành ba dạng
thức kỹ luật đạo đức để từ khước những hành động phá hủy những việc xây dựng vì
lợi ích của chúng sinh . Nhiều dòng Kagyupa
giảng dạy những thái độ kết hợp với
Vairochana tạo ra mối
quan hệ mật thiết với sự rõ biết sâu sắc của phạm vi hiện thực : Trong truyền
thống Nyingmapa , sự phát triển hai trình độ Bồ đề tâm nguyện và dấn
thân được thay thế bằng ba thái độ đầu tiên đã đề cập ở trên .
Chọn đường hướng sống bền
vững , thực hành kỹ luật đạo đức và phát triển Bồ đề tâm cho phép có được quan
kiến ngày càng sáng tỏ như tấm gương phản chiếu những phạm vi của hiện thực .
Đồng thời với những gì liên quan đến tỉnh thức và thái độ chính xác theo cùng .
Bốn thực hành tạo ra những quan
hệ mật thiết bằng sự mô phỏng Ratnasambhava . Sự rõ biết sâu sắc cho phép phân
biệt tính đồng đẳng với tất cả những hiện tượng .
Đối tượng là tâm rộng lượng :
Cho đi hay luôn sẵn sàng cho những vật thể hay sự dư thừa những giáo huấn hay
những chỉ thị về Pháp .
Sự bảo vệ cần thiết cho người
là chủ nghĩa đồng đẳng tính khí và rộng mở tâm thức , để không ai có thể sợ hãi
vì bám chặt , từ khước hay quên lãng . Tình thương , với sự mong muốn hạnh phúc
cho tất cả chúng sinh và những nguyên nhân hạnh phúc . Khi cho đi một cách rộng
lượng , chúng ta càng hiểu rõ khái niệm đồng đẳng giữa tất cả chúng sinh
.
- Ba thực hành tạo ra những quan
hệ mật thiết với sự rõ biết về tính cá nhân mọi sự việc do Amitabha tượng trưng
.
Tôn trọng những giáo huấn -
ba thừa những kinh điển . Bên ngoài - Đẳng
cấp Mật tông thấp và thừa bí mật
. Riêng biệt dành cho những đẳng cấp
cao của Mật điển . Tôn trọng những giáo huấn đức Phật cho phép tưởng thưởng sự
thông tuệ của từng cá nhân và sự hữu hiệu những kỹ thuật khác biệt do Phật học
sử dụng .
- Hai thực hành tạo ra những quan
hệ sâu sắc cho phép hoàn hiện tất cả những sự việc tượng trưng cho Amoghasiddhi
.
Để gìn giữ những thệ nguyện
và thực hiện những nghi thức trong những thệ nguyện thuộc về truyền thống
Gélugpa
. Truyền thống Nyingmapa thay thế
những hành động như sự xoa dịu đau khổ và sự kích phấn những phẩm chất tốt của
người khác .
Tương tự, nói chung nghi
thức cúng dường bao gồm cúng dường Torma , loại bánh
làm bằng bột đại mạch và bơ . Hành động chú ý đến những thệ nguyện đã nhận , tự
dấn thân vào những hành động của chư Phật và cúng dường ngài ban minh triết vĩ
đại hơn và giúp chúng ta sẵn sàng đạt đến những mục tiêu .
- Bốn thực hành nhằm tạo ra những quan hệ với Akshobhya , với
nét đặc trưng :
Sự rõ biết sâu sắc trong phạm
vi hiện thực . Trong số những hệ thống thuộc về những dòng Kagyupa
được thay thế bằng sự rõ biết sâu sắc
như tấm gương .
Bốn thực hành Gélugpa
là :
Giử chày Kim cương .Có nghĩa gìn giữ phương pháp về rõ biết nội hỉ tính không . Cầm chuông.Có nghĩa gìn giữ sự minh triết và hoàn toàn chú trọng về phân biện tính không mà nó là biểu tượng .
Duy trì Mudra hay ấn .Được mô phỏng dưới khía cạnh phối ngẫu tự dấn thân với vị
thầy Mật tông .
Duy trì trình độ rõ biết về tính không tạo thành niềm nội hỉ và tuân theo những chỉ thị của vị thầy đầy đủ tư cách mang đến chúng ta sự lãnh hội hoàn toàn về phạm vi hiện thực , sáng tỏ như tấm gương phản chiếu .
Sự trao truyền quyền năng
theo hệ thống Kalachakra ; đòi hỏi chúng ta
dấn thân vào sáu thực hành riêng biệt để tạo ra những quan hệ mật thiết với sáu
gia đình hay những đường nét chư Phật .
Như mười chín hứa hẹn chung
cho tất cả những hệ thống đẳng cấp Anuttara
Yoga . Năm thực hành đầu tiên tạo ra
những quan hệ mật thiết với năm dạng thức rõ biết sâu sắc được tượng trưng
cho Akshobhya , Amoghasiddhi , Ratnasambha ,
Amitabha và Vairochana .
Năm dạng thức rõ biết sâu sắc đặt trên
những sự từ khước sau :
Sát hại , nói dối , ăn cắp ,
chiếm đoạt chồng hay vợ người khác , uống rượu hay ăn thịt .
Đồng thời Mật tông Guhyasamaja và những đẳng cấp cao cấp của Mật tông dòng
Nyingmapa cũng gìn giữ năm thệ nguyện này . Về Mật tông Kalachakra , bao hàm những đường nét đặc trưng gia đình thứ sáu
của chư Phật - Vajrasattva - Tượng trưng tâm thức ánh sáng tỉnh thức . Như không
chế nhạo những bộ phận trong thân thể của người nữ . Nhất là bộ phận sinh dục ,
sẽ tạo ra những quan hệ mật thiết với Vajrasattva .
Mật tông Kalachakra
cũng có đặc tính cho đi một trong sáu hành
động sáng tạo những quan hệ mật thiết hai chiều hướng phân biệt và diễn dịch
được với ý nghĩa xác định . Chiều hướng diễn dịch sáu hành động sáng tạo được
tuyên bố như sau :
1-Giết
sinh vật có hại .
Chẳng hạn giết chết con chó dại
do tâm thức từ bi . Trong trường hợp không sẵn có bất cứ phương tiện nào để ngăn
chận nó cắn người . Hành động này có
thể được đặt song song với một trong những thệ nguyện Bồ tát đạo phụ .
Cũng như không do dự vi phạm
hành động hủy diệt với động cơ tình thường hay xuất phát từ lòng từ . Đương
nhiên điều này đòi hỏi chúng ta phải rõ biết sâu sắc về phạm vi hiện thực .
Nên sáng tỏ những yếu tố cần
thiết để phân biệt giữa sự chấp nhận và không chấp nhận . Tương tự sự rõ biết
sâu sắc như tấm gương phản chiếu những hoàn cảnh trong tổng thể . Hơn nữa hành
động này đòi hỏi về lòng can đảm một Bồ tát . Có nghĩa sẵn sàng đón nhận những
đau khổ kèm theo .
2-Nói
dối hay giải thích sai lầm về bản chất những sự việc .
Chẳng hạn , nếu giúp người
nào đó mua nhà . Có nghĩa không nói ra vài tham số cần lưu ý để che dấu những hư
hao của ngôi nhà vì muốn bán được giá cao . Nói những lời đánh lừa bịp như đã rõ
biết sâu sắc về phương cách thực hiện những mục tiêu khác biệt .
3-Ăn
cắp của người khác :
Có nghĩa lấy của cải vật chất
vì thấy họ đau khổ khi cho người khác đang cần đến . Trong trường hợp này ; với
động lực là giúp họ chiến thắng sự hà tiện của mình . Hành động này ; giống như
chính phủ đánh thuế những xa xí phẩm để biến thành thực phẩm cung cấp người
nghèo .
Có nghĩa , chiếm hữu cái gì đó
ngược lại với ý định bám chấp và thủ giử của cải vật chất thì có thể . Nếu chúng
ta rõ biết sâu sắc về sự đồng đẳng giữa những người giàu và người nghèo
.
4-Cướp
đoạt chồng hay vợ người khác .
Hành động xảy ra trong những
hoàn cảnh thật chính xác . Chẳng hạn giúp họ vượt qua sự bám chấp thái quá với
người vợ hay chồng mình . Đương nhiên là không đi đến ngoại tình .
Như chúng ta có thể đón nhận
người khác vào nhà trong vài ngày để giúp họ tự chủ hơn . Thái độ như thế cần có
nền tảng rõ biết sâu sắc cho phép phân biện sáng tỏ những khuyết điểm của họ
.
5-Uống
rượu hay ăn thịt ,
nhưng động lực không phải là thỏa mãn .
Vài vị thuốc được pha chế từ
rượu . Tương tự , nếu bị viêm gan . Lời khuyên là nên dùng thịt . Một hành giả
bị bệnh . Muốn hồi phục sức khoẻ để có thể tiếp tục thiền định và giúp người .
Có thể được dùng rượu hay ăn thịt như là thuốc chửa bệnh .
Nhưng khi sử dụng cần phải có nền
tảng rõ biết sâu sắc như gương phản chiếu hoàn cảnh thật sáng tỏ . Tương tự sự
rõ biết sâu sắc về hiện thực cho phép phân biện cách hành xử chính xác để theo
.
6-Không
chế nhạo những bộ phận sinh dục người nữ .
Mệnh lệnh này có thể đặt song
song với thệ nguyện Mật tông nền tảng thứ mười bốn Không chế diễu những phụ nữ .
Niềm nội hỉ của sự kết hợp phát sinh độc lập từ những bộ phận sinh dục phụ nữ ;
có thể giúp gia tăng niềm rõ biết nội hỉ -
tính không nơi người nam và mang tâm thức họ đến những trình độ
còn tế nhị hơn .
Niềm rõ biết nội hỉ được kết
hợp với tâm thức tỉnh thức . Thái độ trân trọng những bộ phận sinh dục phụ nữ ,
tạo ra những quan hệ mật thiết với tâm thức tỉnh thức . Chiều hướng sáu thực
hành này xác định dùng làm trợ huấn cụ suốt giai đoạn thành tựu những
Yoga Kalachakra .
Chúng được dùng để hòa tan
những cơn gió năng lượng tế nhị trong sáu Chakra của kinh
mạch năng lượng trung ương . Giúp tâm thức tỉnh thức phát sinh niềm rõ biết nội
hỉ không lay chuyển .
Chẳng hạn , sát hại cuộc sống
chúng sinh . Trong bối cảnh này có nghĩa trói chặt những giọt sáng tạo vi tế màu
trắng ở Chakra đỉnh đầu , đánh mất sự sinh động của những cơn gió năng lượng
khoái lạc nhục thể cực điểm .
Vì mỗi một Chakra tượng trưng bằng một hình dạng chư Phật riêng biệt .
Thực hành này tạo ra những quan hệ mật thiết với tổng thể sáu gia đình những chư
Phật . Trong Mật tông Gushyasamaya và
Dzogchen . Điều đầu tiên của năm thực
hành này tạo mối quan hệ mật thiết tương đương với trình độ tối ưu của hệ thống
Kalachakra .
Nếu mong muốn đón nhận trao truyền quyền năng Mật tông
Kalachakra
hay lễ khai tâm từ một hệ thống đẳng cấp Anuttara Yoga khác . Chúng ta phải tự dấn thân vào thực hành những gì gọi là Yoga sáu thành phần .
Từ Yoga chỉ định « Đi vào
thực hành » ; và Yoga sáu thành
phần , dùng để tụng đọc một loạt
những đoạn thơ sáu lần mỗi ngày và bao gồm những thực hành khác nhau . Với mục
đích đưa vào cuộc sống mười chín thực hành tạo ra những quan hệ mật thiết với
năm đường nét hay năm gia đình chư Phật .
Yoga sáu thành phần
không phải là một Sadhana . Vì nó không hình thành hoàn toàn bản gốc những thực
hành có thể tạo ra nguyên nhân cần thiết thực hành trong giai đoạn thành tựu .
Phiên bản đầu tiên của Yoga sáu thành
phần đã được Panchen Lama ( Ban thiền Lạt Ma ) đầu tiên soạn thảo vào thế kỷ XVII .
Những phiên bản
hoàn toàn nhất của Yoga này bao gồm danh sách những thệ nguyện Bồ
tát đạo và những thệ nguyện Mật tông . Cũng như lời khuyên về những mô hình hành
xử chủ động và những thực hành thuộc về sự sáng tạo và mối quan hệ mật thiết với
những gia đình chư Phật khác nhau .
Những đoạn thi
tụng bao gồm những chỉ dẫn cho phép tôn trọng sự dấn thân của quy y , phát triển
Bồ đề nguyện và theo những chỉ dẫn của năm mươi khổ thơ do những vị thầy cung
cấp về những hành xử chính xác đối với vị thầy Mật tông . Như thế , Yoga sáu
thành phần tạo ra một khung cảnh
thích nghi cho thực hành Anuttara Yoga Mật
tông và chúng ta thể hiện thệ nguyện
thực hành đến cuối cuộc đời .
Dù những truyền thống Phật
học Tây tạng khác không có những điều tương đương về Yoga sáu thành phần . Nhưng trong lễ khai tâm với hệ thống Anuttara Yoga hay
những hệ thống cao cấp của trường phái Nyingmapa do một
vị thầy trao truyền . Đồng thời cũng trao truyền tổng thể những thệ nguyện ,
cũng như những thực hành những quan hệ mật thiết mà Yoga riêng biệt cần gìn giữ trong tâm thức .
Gìn giữ những thệ nguyện không có
nghĩa chỉ bằng lòng tụng đọc những bản văn được tuyên bố . Cho dù bất cứ dòng
truyền thừa Mật tông nào được trao truyền quyền năng . Chủ yếu là dùng để uốn
nắn cuộc sống trên căn bản những thệ nguyện và thực hành những quan hệ mật thiết
.
Yoga sáu thành phần
có thể được thực hành trong phiên bản tóm tắt ,
phiên bản đầy đủ nó ; hay trong phiên bản mở rộng thuộc về hệ thống
Kalachakra . Cũng có một phiên bản chỉ bốn câu có thể đọc tụng
khi thật sự có rất ít thời gian .
Nhưng , dù lựa chọn bất cứ
phiên bản nào . Chúng ta cần
phải đọc tụng ba lần ở ban ngày và ba lần ban đêm . Đồng thời vẫn tạo ra những
mô phỏng , tư tưởng và cảm giác tương ưng .
Chúng ta có thể
đọc tụng lớn hay nhỏ bằng tiếng Tây tạng hay bằng ngôn ngữ của mình . Đọc tụng
Yoga sáu thành
phần bằng tiếng Tây tạng mà không hiểu ý nghĩa không có lợi ích gì . Đó
không phải là sự thực hành hữu hiệu . Không gì buộc chúng ta sử dụng cùng phiên
bản . Nhưng nên thực hiện những đọc tụng hàng ngày .
Những người đã
nhận trao truyền quyền năng từ một Lama của dòng Gélugpa
, được đặt nền tảng trên một
hệ thống khác của đẳng cấp Anuttara Yoga
. Có thể chỉ cần đọc tụng một
lần duy nhất về Yoga sáu thành
phần trong ngày .
Đọc
tụng Yoga
sáu thành phần có thể được thực hiện thành sáu kỳ hay hai
kỳ , một vào buổi sáng và một vào buổi tối trước khi thiếp ngủ . Nếu thực hành
phiên bản đầy đủ hay phiên bản mở rộng thuộc về
Tantra Kalachakra . Chúng ta có thể
tụng đọc vài đoạn thơ suốt kỳ thứ hai hay thứ ba .
Không cần thiết
phải đọc tụng văn bản toàn bộ . Nếu bị rơi vào giấc ngủ trước khi kết thúc thực
hành . Chúng ta có thể thêm vào những đoạn thơ thiếu cho cuộc đọc tụng ngày tối
hôm sau . Thích hợp hơn hết là cần giữ gìn thận trọng và thực hành đầy đủ , kịp
thời để tránh rơi vào giấc ngủ trước khi kết thúc .
Nếu quá bận rộn
buổi sáng , chúng ta thiếu khoá này . Vẫn có thể thực hiện sáu tụng đọc buổi tối
dù không được khuyên bảo . Khi bị bệnh nặng , không thể thực hành được . Như
thế không vi phạm lỗi . Nhưng khi có điều kiện để thực hành . Cần thể hiện hết
mình để thực hành Yoga sáu thành phần hàng ngày như đã qui định . Vì nó giúp
chúng ta đi đến tỉnh thức .
Tóm lại , khi đã
sẵn sàng . Có thể tụng đọc phiên bản đầy đủ buổi sáng và phiên bản tóm tắt vào
buổi tối hay ngược lại . Hay phiên bản mở
rộng thuộc về hệ thống Kalachakra . Chẳng hạn buổi chủ nhật . Nói chung khi có nhiều
thời gian .
Không cần thiết dùng một hay
hai phút để tụng đọc phiên bản bốn hàng như để trả nợ . Dù thệ nguyện cần thực
hiện ít nhất hai lần mỗi ngày . Nhưng vẫn không phải thật sự là một lời hứa hay
một việc nặng nhọc quá đáng . Vì chúng ta vẫn tìm được thời gian để đánh răng
sau bửa ăn cho dù bận rộn đến đâu .
Thực ra , rất dễ dàng để lồng
Yoga sáu thành phần vào thời khoá biểu sinh hoạt hằng ngày . Vì vẫn có
thể thực hành khi đến sở làm bằng xe hơi hay đi bộ hay mỗi khi chờ đợi đèn đỏ .
Không cần thiết phải có một gian phòng đặc biệt yên tỉnh với đầy đủ nhang đèn ,
hoa trái , để tụng đọc Yoga sáu thành
phần và tự nhắc nhở mình những thệ
nguyện đã thọ nhận .HET=OM MANI PADME HUM.( 3 LAN ).GESHE TASHI TSERING.( MHDT ).14/4/2012.
|
Friday, 13 April 2012
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment