128 quan điểm xấu ác và quan điểm sai lầm |
LƯU Ý QUAN TRỌNG
Dưới
đây là bản dịch tiếng Việt, chuyển ngữ từ bản dịch Anh ngữ từ bản gốc
tiếng Trung. Bởi vì bản dịch này chưa được đức Wanko
Yeshe Norbu kiểm tra lại
và chuẩn y, chắc chắn bản dịch này có những sai sót dịch thuật. Do đó, chúng tôi
nêu ra đây để lưu ý độc giả. Sau khi đức Dorje Chang
III kiểm tra lại và chuẩn y bản dịch này, chúng tôi sẽ chúc mừng tất cả bạn đọc
đã có cơ may được học Phật pháp từ bản dịch Việt ngữ chuẩn xác.
ĐỨC
Wanko Yeshe Norbu GIẢNG GIẢI NGẮN GỌN
VỀ
NHỮNG QUAN ĐIỂM XẤU ÁC VÀ QUAN ĐIỂM SAI LẦM
(Trích từ bài pháp thoại từ kim
khẩu của Ngài)
Hôm nay ta sẽ giảng cho các
con điều gì? Ta sẽ giảng về điều mấu chốt trong Phật pháp, đó là điều vô cùng
quan trọng để đạt được giải thoát. Ta phải nhắc nhở các con, vì bài pháp ta
giảng cho các con hôm nay là một bài pháp rất quan trọng, các con thực sự không
thể coi nhẹ. Điều gì làm cho nó quan trọng? Pháp này liên quan đến một vấn đề
lớn rằng các con có thể trải nghiệm những kết quả hữu ích từ việc học hỏi Phật
pháp và tu dưỡng bản thân hay không. Nó liên quan đến việc con có thể tăng
trưởng công đức, trí tuệ và đạt được giải thoát hay các con sẽ bị rơi vào một
trong ba cõi thấp.
Hôm nay ta sẽ giảng về những
quan điểm xấu ác và quan điểm sai lầm. Nếu những ai đang học hỏi Phật giáo và tu
dưỡng bản thân mà rơi vào một trong số những quan điểm xấu ác này thì sẽ không
thể đạt được giải thoát. Hơn nữa, sự tu tập của người ấy cũng sẽ không thể tăng
trưởng công đức và trí tuệ, không thể đạt đến cảnh giới thành đạo.
Bất kể con thuộc tông phái
nào, chỉ cần con muốn chấm dứt luân hồi sinh tử, muốn đạt được giải thoát, thì
không được phép rơi vào một trong những quan điểm xấu ác và quan điểm sai lầm
này. Nếu con rơi vào ngay cả chỉ là một trong số những quan điểm xấu ác con cũng
không thể tích lũy được phước đức và trí tuệ bằng sự tu tập của con. Hơn nữa,
con sẽ không thể đạt được giải thoát. Tuy nhiên, sau khi rơi vào những quan điểm
này, nếu con sám hối và ngay lập tức sửa chữa thì sẽ không có vấn đề gì.
Tội của việc rơi vào quan điểm
sai lầm thì nhẹ hơn so với tội rơi vào quan điểm xấu ác. Tuy là nhẹ hơn nhưng có
một vài quan điểm sai lầm mà nếu đi theo sẽ gây ra vấn đề ngay cả khi con chỉ
rơi vào một trong số các quan điểm đó. Có một số quan điểm sai lầm mà nếu đi
theo sẽ ngăn con không thể hoàn thiện trong thực hành và trải nghiệm những kết
quả hữu ích ngay cả khi con chỉ rơi vào hai hoặc ba trong số các quan điểm sai
lầm đó.
Không theo 128 quan điểm này
là quy định nghiêm ngặt của Pháp. Tất cả các Phật tử phải tuân theo quy định
này, bằng cách không rơi vào những quan điểm này họ có thể kết thúc luân hồi
sinh tử, nhận được kết quả linh thánh của sự thực chứng. Quy định này không phải
do ai tạo ra mà đó chính là quy luật nhân quả, là việc thực hành giác ngộ chung
của tất cả chư Phật chư bồ tát mười phương.
“Quan điểm xấu ác và quan điểm
sai lầm” là một phần quan trọng trong “Giải thoát Đại thủ ấn tối thượng”. Để tránh có người hiểu
nhầm hoặc giảng giải sai lệch thậm chí coi thường những quan điểm này, hôm nay
ta sẽ đích thân giảng giải chúng. Đây chỉ là bài giảng tóm lược.
Những quan điểm xấu ác thông
thường sẽ được liệt kê dưới đây. Gọi là “thông thường” ở đây tức là không bao
gồm tất cả những quan điểm xấu ác. Tuy nhiên, căn cứ vào pháp, những quan điểm
chủ yếu đã được bao gồm. Nếu con không rơi vào những quan điểm xấu ác và quan
điểm sai lầm này, con sẽ tự nhiên trở thành một người tu tập đức hạnh trên con
đường đến giác ngộ, là người có chánh tri,chánh kiến và hành động theo Pháp. Mỗi
một điều dưới đây đều bắt đầu với cụm từ “quan điểm cho rằng...”. Nếu con chấp
nhận, đồng ý, hay thực hiện theo những điều dưới đây chính là con đã rơi vào các
quan điểm xấu ác đó.
TÓM LƯỢC NHỮNG QUAN ĐIỂM XẤU ÁC VÀ QUAN ĐIỂM SAI LẦM
(Trích từ bài pháp khẩu truyền
của Đức Wanko Yeshe
Norbu)
38 QUAN ĐIỂM XẤU ÁC
1. Quan điểm cho rằng thánh
thần và ma quỷ là những bậc đạo sư dẫn tới giải thoát.
Những người rơi vào quan điểm
này tôn kính ma quỷ và thánh thần như là bậc thầy cho họ nương tựa vào để giải
thoát, như những người dẫn dắt họ có thể nương tựa vào để đạt được thành tựu
trong Pháp. Những người có quan điểm này kiên quyết tin rằng ma quỷ và thần tiên
có thể cứu họ thoát khỏi những khổ đau của sinh, lão, bệnh, tử. Một người giữ
quan điểm này tin rằng quỷ thần là những bậc thầy duy nhất có thể cứu họ thoát
khỏi luân hồi sinh tử. Trên thực tế, ma quỷ và thần tiên thậm chí còn không thể
chấm dứt luân hồi sinh tử của chính bản thân họ. Vì vậy họ chắc chắn không phải
là bậc thầy giải thoát cho những người tu tập Phật giáo.
2.
Quan điểm cho rằng đạt được những năng lực siêu nhiên là mục tiêu thành tựu
trong Pháp.
Những người có quan điểm này
nghĩ rằng mục đích của việc tu tập và học Phật pháp là đạt được những ăng lực
siêu nhiên và có khả năng thay hình đổi dạng. Họ nghĩ rằng có được những năng
lực siêu nhiên là mục tiêu cuối cùng mà chúng ta nên theo đuổi. Họ nghĩ rằng đạt
được những năng lực siêu nhiên là đồng nghĩa với đạt được thành tựu hay giải
thoát. Các con phải hiểu rằng những năng lực siêu nhiên và thành tựu hay giải
thoát là hai việc hoàn toàn khác nhau. Bất luận thần thông có vĩ đại đến thế nào
thì chúng cũng không thuộc về bản chất của thành tựu hay giải thoát. Vì vậy, mục
tiêu của thành tựu là sự viên mãn của phước huệ, thực chứng được tính Không của
Chân như, và làm chủ cuộc sống và cái chết của mình.
3.
Quan điểm cho rằng một người có thể vi phạm những giới luật của ba thừa - Phật
giáo Nguyên thuỷ, Đại thừa và Kim Cương Thừa.
Những người có quan điểm này
cho rằng họ được phép vi phạm giới luật của ba thừa mà họ đã thọ nhận. Họ
nghĩ rằng trong một số điều kiện về duyên nghiệp hay với một thực hành giáo pháp
đặc biệt thì có thể xa rời giới luật của Tam thừa. Các con phải nhớ rằng trong
bất kỳ hoàn cảnh nào thì giới luật của ba thừa đều không được phép vi phạm. Tất
cả mọi người, bao gồm các cao tăng, pháp vương đều phải nghiêm chỉnh tuân thủ
giới luật. Nếu không thì họ đều là những kẻ ngoại đạo đội lốt hành giả Phật
giáo.
4.
Quan điểm cho rằng tu tập tách biệt với Bồ-đề tâm.
Trong Phật pháp có rất nhiều
pháp tu. Bất luận người ta sử dụng pháp tu nào đều không được tách rời Bồ-đề
tâm. Bất kỳ sự tu tập nào tách rời Bồ-đề tâm đều là việc thực hành xấu átc. Vì
vậy, điều quan trọng nhất trong tu tập là không bao giờ được tách rời Bồ-đề tâm.
Ngoài ra, chúng ta không nên chấp thuận với những ai tu tập nhưng xa lìa Bồ-đề
tâm.
5.
Quan điểm cho rằng không cần tuân thủ tất cả giới luật đã thọ nhận.
Khi con đã thọ nhận một giới
luật thì phải tuân theo nó đầy đủ. Con phải tuân thủ theo mỗi một và tất cả giới
luật con đã thọ nhận. Nghĩ rằng con có thể chỉ tuân theo một hoặc một vài trong
số những giới luật đó mà không cần tuân theo một số những giới luật khác là điều
không thể chấp nhận. Bất kỳ suy nghĩ nào cho rằng không cần phải thọ giữ toàn bộ
các giới luật đều là những quan niệm không những sai lầm mà còn xấu ác.
6. Quan điểm cho rằng một người có thể mạo danh một vị Phật
hoặc vị Bồ Tát để truyền bá giáo Pháp.
Những người có quan điểm này
nghĩ rằng để truyền bá Phật pháp và mang mọi người đến với Phật pháp thì có
thể sử dụng phương tiện thiện xảo nâng cao uy tín của mình bằng cách tự xưng là
một vị Phật hay một vị Bồ Tát nào đó. Họ bảo với đệ tử và bạn bè của họ tuyên
truyền họ là một vị Phật hay một vị Bồ Tát. Những ai tham gia hoặc chấp thuận
hình thức này đều bị xem là rơi vào quan điểm xấu ác.
7.
Quan điểm của chủ nghĩa duy thực cho rằng, các hiện tượng thế gian thực sự tồn
tại và không phải là huyễn ảo.
Điều này chạm đến chân lý tối
hậu. Những người có quan điểm này cho rằng vạn pháp là thật sự tồn tại, không
phải huyễn hóa, và có thực. Họ nghĩ rằng tất cả những gì tồn tại trong con
người, trong mọi vật, trong mọi sự kiện là có thực. Đối với họ, tất cả các pháp
thế gian không phải là vô thường mà là thật sự tồn tại và có thực. Họ xem mọi
thứ là thật và không ảo huyễn. Đây là một quan điểm xấu ác.
8.
Quan điểm rằng tính Không tách biệt khỏi và độc lập với các hiện tượng thế gian.
Những người có quan điểm này
cho rằng tính Không và tất cả những điều thường thấy của pháp thế gian không có
quan hệ với nhau. Họ nghĩ rằng chỉ cần thâm nhập vào tính Không thì tất cả hiện
thực đều không tồn tại. Họ nghĩ rằng các pháp hữu vi không tồn tại trong tính
Không và tính Không là độc lập với các pháp hữu vi. Đây là quan điểm xấu ác. Các
con phải hiểu rằng tính Không không tách biệt với các hiện tượng thế gian. Khi
đã chứng ngộ được tính Không, các con sẽ hiểu được Sắc tức là Không, Không tức
là Sắc. Hai điều này không xung khắc với nhau. Sự thật cơ bản rằng cả hai là một
và như nhau. Đó là Chân như, là Phật tính mà từ đó mọi diệu dụng sinh khởi.
9.
Quan điểm cho rằng một người có thể đạt giải thoát chỉ bằng cách thực hành một
pháp nào đó và không cần tu dưỡng bản thân.
Những người có quan điểm này
nghĩ rằng một khi họ học được một pháp nào đó thì họ đã thành công. Chẳng hạn họ
nghĩ thật tuyệt vời vì bây giờ họ có thể thực hành pháp thiền Thế thân kim
cương, họ nghĩ rằng họ có thể thực hiện pháp và kiểm soát vận mệnh của họ theo ý
muốn. Hay họ nghĩ rằng “Tôi có thể thực hành pháp tập trung nội nhiệt (tummo) để
tiêu trừ các chướng ngại của nghiệp. Tại sao tôi cần phải tu dưỡng bản thân?
Không cần tu dưỡng tôi vẫn sẽ thành tựu và được giải thoát." Đó là một quan điểm
xấu ác.
10.
Quan điểm cho rằng, Pháp thân là thân có hình tướng.
Như Lai tạng, chân tâm của
chúng ta tức là Pháp thân, Pháp thân là một trong ba thân: Pháp thân, Báo thân
và Hóa thân. Những người có quan điểm này mô tả Pháp thân có hình tướng, kích
thước, màu sắc hay có một cảm giác yên tĩnh, bình hòa hay an lạc. Bất kỳ quan
điểm nào cho rằng Pháp thân là một đối tượng có hình dạng hoặc có nhận thức về
cảm xúc là một quan điểm xấu ác.
11.
Quan điểm cho rằng, con có thể làm những điều xấu mà vẫn thoát khỏi tội lỗi bằng
cách nương tựa vào năng lực của chư Phật.
Những người theo quan điểm này
nghĩ rằng nhờ năng lực tu tập của họ, họ đã được chư Phật và chư Bồ Tát mười
phương gia hộ. Họ nghĩ rằng họ có thể làm điều xấu mà vẫn thoát khỏi tội lỗi bởi
chư Phật và chư Bồ Tát sẽ tới và tiêu trừ tội lỗi của họ ngay lập tức.
12.
Quan điểm cho rằng, cắt đứt khỏi sự bám chấp vào bản ngã đồng nghĩa với việc cắt
đứt tình cảm dành cho cha mẹ mình.
Để cắt đứt bám chấp vào bản
ngã, có những người nam và người nữ thậm chí còn không thừa nhận cả quan hệ của
họ với cha mẹ mình. Cũng có những người con lờ đi cảm xúc của cha mẹ mình khi họ
khóc lóc vì buồn bã trước quyết định xuất gia của con mình. Những người nam và
nữ đó thậm chí còn nghĩ rằng làm như vậy là họ đang cắt đứt bám chấp vào bản
ngã. Trên thực tế, sự bất tuân đạo làm con ấy chính là một quan điểm xấu ác. Cắt
đứt bám chấp vào bản ngã là để làm lợi lạc cho chúng sinh, chăm sóc chúng sinh
và đặt lợi ích của chúng sinh lên trên lợi ích bản thân mình. Điều này không có
nghĩa là bất chấp những cảm xúc của cha mẹ mình và cắt đứt quan hệ với họ.
13.
Quan điểm cho rằng một người có thể đạt tới Niết-bàn linh thánh chỉ bằng cách
làm những việc thiện.
Những người có quan điểm trên
nghĩ rằng miễn là họ làm việc thiện và mọi thứ họ làm đều vì lợi ích của chúng
sinh, điều này là đủ để đạt tới niết bàn của các bậc thánh nhân và trở thành một
vị Phật hoặc Bồ Tát. Một người phải biết rằng, làm việc thiện là hành bố thí có
điều kiện. Theo luật nhân quả, việc bố thí như thế sẽ đưa tới quả báo trong cõi
người hoặc cõi trời. Tuy nhiên, việc chứng đạt Niết-bàn linh thánh đòi hỏi một
sự chứng ngộ trạng thái linh thánh. Điều này đồng nghĩa với việc đạt trạng thái
không điều kiện mà trong đó, một người đã chấm dứt luân hồi sinh tử và có sự tự
chủ hoàn toàn. Điều này có nghĩa là đạt tới miền đất thánh không sinh, không
diệt. Do đó, việc nghĩ rằng, một người có thể đạt tới Niết-bàn linh thánh đơn
thuần chỉ bằng cách làm việc thiện là một quan điểm xấu ác. Con phải hiểu rằng,
bên cạnh cách đó, người tu tập còn phải thực hành cả pháp thánh linh và không
điều kiện. Chỉ khi đó, họ mới có thể đạt được Niết-bàn linh thánh. Không có con
đường nào khác ngoài con đường này
14.
Quan điểm cho rằng một người nào đó không hành động xuất phát từ Bồ-đề tâm đại
bi là một vị Bồ Tát.
Trong xã hội, có nhiều kiểu
pháp vương, rinpoche, đạo sư và đại giảng sư. Một số người trong số họ không có
Bồ-đề tâm và không hành động vì Bồ-đề tâm. Tuy nhiên, một số phương tiện đại
chúng lại miêu tả họ như là những vị đại Bồ Tát. Trên thực tế, họ là những bậc
đạo hạnh giả mạo. Do đó, người nào không có Bồ-đề tâm của lòng đại bi thì không
phải là Bồ Tát cho dù kẻ đó có mang địa vị gì đi chăng nữa. Quan điểm nhìn nhận
những kẻ không hành động vì Bồ-đề tâm đại bi là Bồ Tát chính là một quan điểm
xấu ác.
15.
Quan điểm không tin chắc vào nhân quả mà lại mê tín vào bói toán và vận may.
Những ai theo quan điểm này
không thực sự tin luật nhân quả. Họ không tin vào luật nhân quả một chút nào. Họ
phủ nhận luật nhân quả. Thay vào đó, họ tin vào sự bói toán và vận may. Đây là
một quan điểm xấu ác. Con phải hiểu rằng vạn pháp đều nằm trong luật nhân
quả
16.
Quan điểm cho rằng, việc chỉ truyền bá giáo lý tính Không mà không nói về việc
tu tập thực sự thông qua các hành vi cụ thể là có thể chấp nhận được.
Loại trường hợp này tồn
tại ở Phật giáo Hiển thừa nhiều hơn. Tuy nhiên, nó cũng tồn tại trong Phật giáo
Mật thừa. Một số người nổi tiếng hiện thời trong xã hội đặc biệt thích truyền bá
những nguyên lý của tính Không. Họ nói về phương pháp Thiền đề thâm nhập vào
chân lý. Họ giải thích rằng mọi hiện tượng đều không có tự tính và vốn trống
rỗng, rằng một người nên có một trạng thái tâm không bám chấp vào bất cứ điều
gì, rằng tâm của một người nên trống rỗng và an tĩnh. Họ nói về bản tính nguyên
thủy không đến và không đi. Họ nói về những ngyên lý này bằng những ngôn từ phức
tạp, khoa trương, bí hiểm và khó hiểu. Họ đặc biệt thích nói về Kinh Pháp Bảo
Đàn, Kinh Kim Cương và Bát nhã. Họ nói liên tục về nguyên lý của tính Không mà
không bao giờ đề cập đến sự tu tập thực sự thông qua việc thực hành cụ thể. Họ
không dạy tu tập thực sự là thế nào. Họ không dạy chúng sinh làm thế nào để thực
hành con đường dẫn tới giác ngộ bằng những hành động cụ thể. Có quá nhiều người
như vậy. Họ vi phạm nghiêm trọng luật nhân quả. Một người có thể nói về nguyên
lý và sự thực về tính Không như một điều có trong Phật pháp. Tuy nhiên, đó chỉ
là lý thuyết và không thể giải quyết được vấn đề chấm dứt vòng luân hồi sinh tử.
Điều này giải thích tại sao đức Phật Thích-ca Mâu-ni dạy chúng ta làm thế nào để
tu dưỡng bản thân. Chỉ có thông qua sự tu dưỡng và chuyển hóa nhân và quả mà một
người mới có thể thực chứng được trạng thái mà những lý thuyết đó mô tả. Do đó,
người nào chỉ truyền bá những nguyên lý của tính Không mà không giảng về sự tu
dưỡng thực sự thông qua thực hành cụ thể là người xấu ác. Quan điểm này là một
quan điểm xấu ác.
17.
Quan điểm cho rằng, sự tồn tại của sáu cõi luân hồi chỉ là truyện cổ tích, không
có thực.
Những ai theo quen điểm này
nhìn nhận sáu cõi luân hồi: trời, a-tu-la, người, địa ngục, súc sinh và ngạ quỷ
chỉ tồn tại trong truyện cổ tích. Họ nghĩ rằng những cõi này không tồn tại. Họ
nghĩ rằng không có ma cũng như chẳng tồn tại sáu cõi luân hồi. Liệu quan niệm
này sẽ không dẫn tới kết luận rằng tất cả nhân và quả là vô nghĩa và sai lầm, và
rằng luật nhân quả là không đúng đắn? Con phải hiểu và suy nghĩ cho thấu đáo về
việc này. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã dạy rằng sáu cõi luân hồi là có thật. Ngài
nói về sự đau khổ của sinh, lão, bệnh và tử và ngũ trược của thời mạt pháp … Tất
cả các con đang sống trong thực tại đó. Làm sao điều này lại có thể không tồn
tại? Những điều đó là sự thật.
Việc một người phủ nhận sự tồn
tại của luân hồi là đang đối lập với đức Phật. Những người này có thể mô tả cõi
giới loài người với những nỗi khổ của sự sinh, lão, bệnh và tử như là cõi Tịnh
độ của phương Tây. Ta sẽ cho con một ví dụ. Thực sự có những người muốn thay đổi
thế giới đầy khổ đau này thành cõi tịnh độ của loài người. Những người này làm
những việc tốt, khuyến khích lòng nhân ái với người khác, và hướng dẫn người
khác rằng trở thành một người tốt và làm việc thiện là đang thực hành tứ vô
lượng tâm. Tuy nhiên, nếu con tin rằng thế giới này có thể biến thành cõi Tịnh
độ thực sự của loài người, thì con đang tin vào một điều đi ngược lại với giáo
lý của đức Phật. Không có phương pháp nào có thể thay đổi luật nhân quả và luân
hồi đã tồn tại trong một thế giới. Cho dù bất kỳ phương pháp nào được áp dụng để
tạo ra một kết quả như kỳ vọng, kết quả đó cũng không phải là một cõi tịnh độ.
Cõi người vẫn là cõi người. Cõi Tịnh độ vẫn là một cõi Tịnh độ. Sự khác nhau đó
như thể là giữa thiên đường và mặt đất vậy. Một bên là thế giới linh thánh và
bên còn lại là thế gian thông thường. Cõi tịnh độ là một thế giới ở đó không có
sự sinh và diệt. Chúng sinh ở đó mặc những gì họ muốn và ăn những gì họ nghĩ
tưởng tới. Không có hình bóng của sự vô thường ở đó. Ngược lại, cái gọi là cõi
tịnh độ trong thế giới loài người sẽ đầy rẫy sự đau khổ của sinh, lão, bệnh, và
tử.
Con người không thể có áo quần
hay thức ăn chỉ bằng cách nghĩ tưởng tới quần áo mặc hay thức ăn. Họ phải làm
việc, kiếm tiền để có được những thứ đó. Họ không thể dựa vào trí tưởng tượng để
có được chúng. Trong thế giới này, chúng sinh không muốn chịu đau khổ của sinh
lão bệnh tử nhưng sự đau khổ này thực sự vẫn tồn tại. Việc thế gian này đầy ắp
sự đau khổ là không thể tránh khỏi. Cho dù bất kỳ phương pháp nào được áp dụng,
kết quả vẫn chỉ là sự kế thừa những thuộc tính của vô thường vốn gắn với một cõi
giới trong phạm vi của vòng luân hồi. Không ai có thể thay đổi được sự vô
thường, vốn được tạo ra bởi sinh và diệt, đang tồn tại trong thế giới này. Không
bất kỳ người thường nào, cho dù thông thái bao nhiêu, có thể trốn tránh khỏi sự
đau khổ của ngũ trược bởi vì đó là quy luật không thể tránh khỏi của vô thường
đã tồn tại trong sáu cõi luân hồi. Do đó, sáu cõi luân hồi có tồn tại.
18.
Quan điểm cho rằng, một vị đạo sư hoặc một bậc thánh tăng nổi tiếng chắc chắn là
những bậc đạo hạnh linh thánh.
Bất kỳ khi nào, người theo
quan điểm này khi gặp một đạo sư hoặc tăng sĩ nổi tiếng, đều kết luận rằng, đó
là bậc thánh tăng hay bậc đạo hạnh linh thánh. Vậy cụm từ “đạo sư hay tăng sĩ
nổi tiếng” có ý nghĩa thế nào? Họ thuộc loại những cao tăng đã có tên tuổi hoặc
được xem là tuyệt vời trên khắp thế giới. Những người theo quan điểm này kết
luận rằng, những tăng sĩ như vậy đều là bậc đạo hạnh linh thánh vĩ đại. Trên
thực tế, những tăng sĩ trên có thể có và cũng có thể không là những bậc đạo hạnh
linh thánh. Thậm chí có một số vị pháp vương cực kỳ nổi tiếng trong Phật giáo
thực chất chỉ là những người bình thường.
19.
Quan điểm cho rằng, những lợi ích cá nhân còn quan trọng hơn cả Phật
pháp.
Khi có sự xung đột giữa lợi
ích cá nhân của con và Phật pháp, con chọn Phật pháp hay lợi ích của bản thân
mình? Nếu con coi lợi ích của riêng con cao hơn Phật pháp, thì quan điểm đó của
con là xấu ác. Con phải không được nhìn nhận lợi ích cá nhân cao hơn Phật pháp.
Phật pháp là kho tàng tối cao. Một người từ bỏ mạng sống của mình thì còn tốt
hơn là anh ta từ bỏ Phật pháp.
20.
Quan điểm cho rằng, một người có thể giết chết một sinh mạng mà không phạm tội
chỉ nhờ việc người đó tụng thần chú để nâng đỡ sinh linh đã chết lên cõi giới
cao hơn.
Những người theo quan điểm này
nghĩ rằng, bằng việc tụng thần chú để nâng đỡ sinh linh đã chết, họ có thể đưa
thần thức của sinh linh này lên cõi giới cao hơn, bao gồm cả những chúng sinh mà
họ giết hoặc bất kỳ chúng sinh bị chết nào khác. Họ nghĩ rằng miễn là một sinh
linh đã chết, họ có thể nâng đỡ sinh linh đó lên cõi giới cao hơn bằng cách tụng
thần chú để nâng đỡ sinh linh đã chết. Làm như thế, họ nghĩ rằng sẽ không còn
vấn đề gì nữa. Tuy nhiên, nếu con tụng thần chú nâng đỡ thần thức của sinh linh
đã chết trong khi con lại cố ý giết hại một sinh linh sống, con sẽ không thể
nâng thần thức của họ lên cõi giới cao hơn mà còn phạm vào một tội đặc biệt
nghiêm trọng. Do đó, những người nào tụng thần chú nâng đỡ thần thức sinh linh
đã chết mà lại giết hại một sinh linh đang sống sẽ không tăng trưởng được một
chút công đức nào. Kết quả duy nhất là nghiệp xấu của người đó sẽ còn nặng
thêm.
21.
Quan điểm cho rằng, việc đối kháng với những vấn đề được quyết định bởi bậc đạo
sư gốc của mình, người đã có cả sự chứng ngộ linh thánh và Bồ-đề tâm là chấp
nhận được.
Thuật ngữ đạo sư gốc đề cập
tới bậc đạo sư gốc có sự chứng ngộ linh thánh và Bồ-đề tâm; đó là, một người có
đạo hạnh cao cả và sự chứng ngộ linh thánh và hành động với Bồ-đề tâm. Hơn thế,
một đạo sư như vậy không mắc phải bất kỳ điều nào của 128 quan điểm xấu ác và
sai lầm. Con thực hành pháp Ngài truyền như giáo pháp căn bản của con. Ví dụ, vị
Bổn tôn của con đến từ việc thực hành pháp ngài truyền cho con, con dự định thực
hành cả đời Pháp ngài đã trao truyền cho con cho tới khi đạt thành tựu. Đó là ý
nghĩa của bậc đạo sư gốc. Nếu một đệ tử nghĩ rằng đối kháng hoặc bỏ qua những
vấn đề được đạo sư gốc quyết định là có thể chấp nhận được, thì đây là một quan
điểm xấu ác. Tuy nhiên, nếu bậc đạo sư gốc mắc phải một vài điều trong 128 quan
điểm này, thì ông ấy có thể đã trở thành một đạo sư xấu ác bất chấp rằng ông ấy
là một pháp vương, một tôn giả, hay một vị thầy. Trong trường hợp này, con tuyệt
nhiên có thể không làm theo và thực hiện điều ông ấy quyết định, vì làm vậy là
hỗ trợ cho điều xấu ác. Nếu con tiếp tục theo một đạo sư với những quan điểm xấu
ác và sai lầm, con sẽ không nhận được bất kỳ kết quả lợi lạc nào từ việc bạn
thực hành bất kỳ Pháp nào.
22.
Quan điểm cho rằng, việc kính trọng chư Phật và bậc đạo sư của con nhưng lại
không hiếu thảo với cha mẹ là chấp nhận được.
Một vài người rất kính trọng
vị đạo sự của họ cùng các vị Phật và Bồ Tát. Tuy nhiên, họ cãi lại hoặc nói một
cách ngang ngược với cha mẹ và đối kháng với ước nguyện của cha mẹ họ. Họ không
thể hiện lòng hiếu thảo với cha mẹ và thậm chí bỏ rơi cha mẹ của họ để đi đến
những nơi xa xôi, nơi họ hoàn toàn bỏ mặc cha mẹ. Điều này phản ánh một quan
điểm xấu ác.
23.
Quan điểm tin tưởng vào một địa vị và thân thế của ai đó hơn là chân lý tối hậu.
Có một vài vị pháp vương,
rinpoche và pháp sư có địa vị rất cao. Họ có thể thậm chí xếp hạng nhất nhì
trong những vị pháp vương, rinpoche và pháp sư vĩ đại. Khi chúng ta nghe họ
giảng giải sai lạc giáo pháp, chúng ta không vận dụng chân lý đúng đắn và tối
hậu để nhận ra những lỗi như vậy, và chúng ta không áp dụng những nguyên lý Phật
pháp để xét đoán xem lời họ nói có đúng hay không. Chúng ta nghĩ rằng pháp họ
diễn giải chắc chắn phải chính xác đơn giản bởi vì họ có địa vị là pháp vương
cao quý hay những địa vị khác. Quan điểm như thế là một quan điểm xấu ác.
24.
Quan điểm cho rằng, những chúng sinh đã từng là những vị Phật sau này lại bị đọa
xuống làm chúng sinh bình thường.
Có một vài người thường miêu
tả những chúng sinh như là những vị Phật. Họ nói rằng từ khởi thủy những chúng
sinh đã từng là những vị Phật nhưng sau đó bị đọa xuống thành những chúng sinh
do sự vô minh và phiền não tăng trưởng. Đây là một học thuyết xấu ác được thêu
dệt bởi những người không hiểu gì về Phật pháp. Chúng sinh luôn là chúng sinh và
từ khởi thủy chưa bao giờ là những vị Phật. Chúng sinh bị chi phối bởi những
nghiệp chướng, như là những nỗi khổ của sinh, lão, bệnh, tử. Tuy nhiên, tất cả
chúng sinh đều có Phật tính. Họ có thể trở thành những vị Phật nhờ việc học Phật
giáo, tu tập, và thực hành theo Pháp. Các con phải hiểu rằng những chúng sinh
tuyệt đối không phải là bị đoạ từ những vị Phật trở thành chúng sinh. Những
chúng sinh là những chúng sinh. Không có chuyện các vị Phật bị đọa thành chúng
sinh. Nếu những vị Phật có thể bị đọa thành những chúng sinh, thì khi nào Phật
Thích-ca Mâu-ni sẽ đọa thành một chúng sinh đây?
25.
Quan điểm cho rằng việc kết hợp pháp thực hành ngoại đạo với pháp thực hành của
Phật pháp là chấp nhận được.
Kiểu trường hợp này là rất
nhiều. Mọi người thực hành kết hợp Phật pháp và những phương pháp ngoại đạo. Đây
là do có số lượng lớn và đa dạng các phương pháp hay thực hành ngoại đạo, như là
việc chọn một giờ tốt hay ngày lành cho một sự kiện, âm dương, phong thủy, lá số
tử vi hay bùa chú, gọi hồn, bói toán bằng các ký tự Trung Hoa và những phương
pháp khác, lên đồng, nuôi âm binh, và v.v… Tất cả những điều này là thực hành
ngoại đạo. Thực hành kết hợp những cách đó cùng với Phật pháp là xấu ác.
26.
Quan điểm cho rằng, luật nhân quả chỉ là do tưởng tượng và không có thực.
Một vài người nghĩ rằng luật
nhân quả không tồn tại. Họ nghĩ rằng chẳng cần phải e ngại vì chẳng có nghiệp
báo gì cả. Họ nghĩ rằng vẫn ổn khi làm điều tồi tệ mà không ai phát hiện ra. Nói
ngắn gọn, với họ không có điều gì là nghiệp báo cả. Hãy nhớ rằng, cho rằng luật
nhân quả chỉ là tưởng tượng và không có thực là một quan điểm xấu ác.
27.
Quan điểm cho rằng, mọi hiện tượng phi thường kỳ lạ là biểu hiện của những năng
lực siêu nhiên đến từ Phật pháp.
Trong thế giới này, có nhiều
dạng hiện tượng huyền bí và lạ thường. Ngoại đạo sử dụng những hiện tượng như
vậy để lừa gạt và làm rối loạn chúng sinh. Khi làm việc đó, họ đã tạo mọi loại
nghiệp xấu. Tất cả các hiện tượng kỳ lạ này không phải là biểu hiện của những
năng lực siêu nhiên đến từ Phật pháp mà chỉ là những việc làm của ma quỷ.
28. Quan điểm cho rằng, một bậc đạo sư đã học những Pháp cao
cấp chắc chắn là một bậc thánh nhân vĩ đại.
Một vài người nghĩ rằng vì một
vị thầy đã nhận một quán đảnh vĩ đại hay đã học một Pháp cao cấp, người đó phải
là một thánh nhân vĩ đại. Điều đó không đúng. Nếu bạn có một cái nhìn như vậy,
bạn đã rơi vào tà đạo. Một vị thầy đã học một pháp cao cấp không nhất thiết đã
thành tựu trong thực hành pháp cao cấp đó. Một vị thầy đã học pháp cao cấp không
nhất thiết đã tuân thủ đúng giới luật theo pháp cao cấp đó. Các con phải xác
định xem vị thầy này có mắc phải bất kỳ điều nào trong 128 quan điểu xấu ác và
sai lầm không. Bởi vậy, các con không nên nghĩ rằng một người nào đó đã học
những Pháp cao cấp chắc chắn là một bậc thánh nhân vĩ đại. Một người trở thành
một thánh nhân vĩ đại thông qua chính sự tu tập cụ thể của họ.
29.
Quan điểm cho rằng, con có thể trì hoãn sự tu tập của mình đến ngày mai.
Mọi người thường nghĩ, “Hôm
nay tôi mệt quá, nên tôi sẽ không thực hành pháp, tôi sẽ tập vào ngày mai.” Hay
họ nói, “Mình sẽ tận hưởng ngày hôm nay. Ngày mai mình sẽ thực hành pháp. Ngày
mai mình sẽ tu dưỡng tâm và những hành động của mình." Ngay khi những suy nghĩ
như vậy xuất hiện trong tâm thức, họ đã gieo một hạt giống nghiệp dẫn đến đọa
vào luân hồi mà không được giải thoát. Hãy nhớ trong tâm rằng đây là một hạt
giống nghiệp dẫn đến sự suy đồi. Sự tu tập không thể bị hoãn đến ngày mai. Làm
như vậy là rơi vào quan điểm xấu ác này.
30.
Quan điểm cho rằng, một bậc đạo sư có thể nói những điều sai trái và lừa dối
chúng sinh là chấp nhận được.
Một vài vị đạo sư nói điều sai
trái để lừa dối chúng sinh và những đệ tử của họ. Họ nói rằng làm như vậy họ
đang sử dụng phương tiện thiện xảo. Tuy nhiên, những vị đạo sư làm điều này đang
theo một quan điểm xấu ác. Những người nghĩ cách cư xử như vậy là có thể chấp
nhận được cũng đang nuôi dưỡng một quan điểm xấu ác.
31.
Quan điểm cho rằng, con có thể được hưởng những kết quả lợi lạc từ sự thực hành
mặc dù con cố tình nói dối bậc đạo sư gốc của con.
Có những người cố ý nói dối
với đạo sư gốc của họ, hoặc là khi được đạo sư hỏi, họ giấu đi một nửa sự thật,
và nghĩ rằng điều đó không ảnh hưởng gì lớn cả, thậm chí họ còn thấy điều đó là
tự nhiên và đúng đắn. Thế là họ cư xử như thể chẳng có gì là sai cả. Đây là một
quan điểm xấu ác. Thật vậy, khi nào con còn nói dối với đạo sư của con, thì con
sẽ không nhận được những thành quả tốt từ việc thực hành Pháp. Không chút lợi
ích nào có thể có được, bất kể con thực hành Pháp nào, vì các vị bổn tôn và hộ
pháp sẽ không gia trì cho con.
32.
Quan điểm ủng hộ những người có năng lực siêu nhiên nhưng không hành động xuất
phát từ Bồ-đề tâm.
Có một số hành giả hay yogi
đạt được những năng lực siêu nhiên nhưng không hành xử xuất phát từ Bồ-đề tâm,
nếu một người nào ủng hộ cho những người có năng lực siêu nhiên nhưng không hành
động bằng Bồ-đề tâm, thì người đó đã bị rơi vào quan điểm xấu ác này.
33.
Quan điểm ủng hộ những giảng sư, rinpoche và cư sĩ mà phẩm hạnh của họ không phù
hợp với giới luật.
Có những rinpoche, giảng sư,
và cư sĩ chưa bao giờ thọ một giới nào. Thậm chí có những người đã nhận giới
luật nhưng lại không giữ giới mà họ đã thọ nhận. Đó là những giảng sư, rinpche
và cư sĩ dởm, họ chỉ mang hình thức bề ngoài nhưng không hề thực sự là như vậy.
Vì vậy, mỗi rinpoche, giảng sư hoặc cư sĩ phải thọ nhận những giới luật phù hợp
với họ và phải tuân theo những giới luật này theo đúng với Pháp.
34.
Quan điểm cho rằng việc giúp đỡ những đạo sư xấu của con làm những điều xấu lại
là hành động bảo vệ Pháp.
Có những đệ tử mà đạo sư gốc
hoặc đạo sư của họ tham gia vào những hành vi xấu vi phạm các giới luật của Phật
giáo. Những đệ tử này không những không chịu rời bỏ thầy mình, mà còn có những
nỗ lực lớn lao để giúp thầy mình làm những điều nằm trong 128 quan điểm xấu ác
và sai lầm này. Họ cho rằng họ đang bảo vệ Pháp. Đây là một quan điểm xấu
ác.
35.
Quan điểm cho rằng việc chấp nhận và đi theo một bậc thầy truyền bá sai lầm hoặc
không hiểu về Phật pháp thì hơn là việc đi theo một bậc thầy tốt.
Những môn đồ mắc quan điểm này
chấp nhận và đi theo một vị thầy dù ông ta giảng dạy sai lạc và không hiểu biết
đúng về Phật pháp. Khi thấy ra sự sai phạm của thầy mình, họ không chịu mau rời
bỏ để tìm kiếm một bậc thầy Phật giáo có thể thực sự giảng những giáo lý đúng
đắn theo đúng với Pháp; họ cứ tiếp tục đi theo người thầy giảng sai về Pháp.
Điều này gieo nhân dẫn đến một đời sống suy thoái. Một đệ tử như vậy nên ngay
lập tức tìm một vị thầy tốt có đức hạnh cao cả, nếu không, người đó sẽ bị đọa
xuống một trong ba cõi thấp.
36.
Quan điểm ủng hộ việc bố thí không trong sáng mà trong đó người bố thí ghi nhớ
và bám chấp vào hành động bố thí.
Khi làm bất cứ điều tốt nào,
chúng ta không nên có suy nghĩ của một người bố thí không trong sáng, luôn ghi
nhớ và bám chấp vào hành vi bố thí của mình. Sau khi làm một điều tốt, ta nên
buông xả nó. Chúng ta đã làm điều đó xong rồi và nó đã trôi qua. Ta chỉ đơn giản
quên chúng đi ngay sau đó. Lòng từ và bi của ta nên đến tự nhiên như là bản
năng. Hành động với lòng từ bi không nên là điều gì mà chúng ta phải cố ý mới
làm được. Vì vậy, khi con có suy nghĩ của một kẻ bố thí không trong sáng, luôn
ghi nhớ điều mình làm và bám chấp vào nó, thì phước báo của con cũng sẽ bị giới
hạn trong cõi người hoặc cõi trời. Con chỉ có thể được hưởng phước đức hạn chế
và không thể trở thành một bậc thánh. Vì rằng động cơ hay hạt mầm con đã gieo
trồng là không trong sáng, thì quả con gặt được cũng sẽ không vững chắc. Những
kết quả có được từ động cơ không trong sáng cuối cùng cũng sẽ cạn kiệt. Khi
chúng đã hết và con không cố gắng tích lũy thêm những phước đức khác, thì sẽ tới
lúc con phải gánh chịu hậu quả của những nghiệp xấu.
37.
Quan điểm ủng hộ một người không chịu hối lỗi công khai vì đã truyền bá sai lầm
giáo lý trong kinh điển.
Một số người đã truyền bá sai
lầm những giáo lý trong kinh điển nhưng vẫn bám chấp vào bản ngã và thể diện. Họ
không thể nào buông bỏ được cách nghĩ của một người bình thường. Vì thế mà họ
không ăn năn hối lỗi công khai. Họ sẽ tự nói “tôi đã tự mình sửa chữa rồi!" Điều
đó là không thể chấp nhận được. Người như vậy không phải là một hành giả thực
sự. Các vị hộ pháp sẽ không tha thứ cho họ. Hơn nữa, luật nhân quả không bao giờ
sai. Những người truyền bá sai lầm những giáo lý trong kinh điển cần ngay lập
tức hối lỗi công khai trước mọi người. Cái họ cần là kết quả trong tu tập chứ
không phải là giữ thể diện. Chắc là con sẽ không muốn bị đọa xuống một trong ba
cõi thấp nhất để rồi mang lốt của loài vật hay là ma quỷ.
38.
Quan điểm cho rằng, việc tự gọi bản thân là một vị Phật hay Bồ Tát trước mặt các
đệ tử của con là chấp nhận được.
Người mà, trước các đệ tử,
tự tuyên bố mình là tái sinh của một vị đức hạnh cao cả, của một vị Phật hay Bồ
Tát, hay một vị thánh nhân vĩ đại ... thì đó là người lừa dối. Tuy nhiên, nếu
người ấy có sự chứng nhận danh tính được ban hành theo đúng quy định của Pháp,
thì tất nhiên người đó đúng là người trong giấy chứng nhận đã công nhận. Tuy
vậy, người ấy vẫn nên khiêm tốn và không được khoe khoang. Bằng không thì người
ấy cũng chỉ có tâm thức của một người bình thường mà thôi. Nếu một người không
hề có chứng chỉ công nhận theo quy định của Pháp thì họ càng không nên liều lĩnh
đi khoe khoang về mình. Điều đó sẽ tạo cho họ nghiệp xấu dẫn đến tái sinh một
trong ba cõi thấp. Người liều lĩnh khoác lác về mình sẽ phải bị nghiệp báo to
lớn và khủng khiếp. Con đừng bao giờ làm như thế.
Những gì ta đã mô tả trên đây
là những quan điểm xấu ác. Những quan điểm này không chỉ mang tính ngoại đạo
mà còn rất tồi tệ. Đây là những vấn đề thực sự nghiêm trọng. Con nên nhớ rằng,
việc truyền bá cuốn giáo pháp này là không thể bị ngăn trở. Cả thế giới sẽ đọc
nó. Họ sẽ sao nó từ Bản ghi về những trường hợp không thể chối cãi. Chỉ bằng
cách chân thành học Phật pháp và làm lợi ích cho tất cả chúng sinh mà con mới
trở thành một bậc lãnh đạo phạm hạnh vĩ đại hoặc một bậc thầy thực sự vĩ đại
trong thế hệ của con.
Ta lấy ví dụ, chúng ta có ba
bậc phạm hạnh đã đạt quả vị trên đường đạo. Đỉnh đầu của họ đã được mở rộng. Ý
thức của họ có thể đi ra và quay trở lại thân thể tùy ý. Họ thậm chí có khả năng
khiến ý thức rời khỏi thân thể để nâng một vật hoặc rời khỏi thân thể họ để hành
thiền. Họ có thể làm những việc đó không chút trở ngại. Họ đã hiểu tâm và nhìn
thấy bản tánh nguyên thủy của họ. Họ đã đạt được giải thoát toàn hảo. Những điều
này và những thành tựu khác của họ phản ánh một chuỗi những năng lực chứng ngộ.
Tuy nhiên, họ vẫn rất khiêm tốn.
Con phải đặc biệt thận trọng
và chú tâm. Khi khám phá ra rằng con đang theo bất kỳ một trong những quan điểm
xấu ác này, nếu con không sám hối một cách sâu sắc và sửa chữa ngay lập tức, con
sẽ không đạt được kết quả lợi lạc từ việc thực hành bất kỳ pháp nào và thậm chí
sẽ còn bị thoái hóa. Điều này đúng với bất cứ người nào, bất kể địa vị mà người
đó có được, như những tổ sư, pháp vương, hay tôn giả. Đó là nghiệp xấu con phải
trả từ việc không sửa chữa bản thân sau khi theo một trong những quan điểm xấu
ác này. Con vẫn đang chịu ảnh hưởng của nghiệp xấu thậm chí nếu con cho rằng con
không bị ảnh hưởng bởi con là một Bồ tát đã đạt quả vị Diệu giác. Con tự xưng
đều đó chỉ có ý nghĩa rằng, con là bậc Bồ tát diệu giác giả mạo. Khi một vị bồ
tát ở địa diệu giác khám phá ra lỗi lầm của mình, vị đó sẽ nói ngay như thế này
“Tôi thật sai lầm. Tôi xin sám hối trước toàn thể chư Phật mười phương và trước
các đệ tử của tôi!” Vị đó sẽ nói vậy bởi vì vị đó cởi mở và thẳng thắn và không
có một chút phiền não nào. Do đó, cho dù địa vị của con có cao thế nào, nếu con
không sám hối sau khi khám phá ra rằng, con đang theo một quan điểm xấu ác, con
sẽ không được lợi lạc gì từ việc thực hành bất cứ Pháp nào. Con sẽ càng ngày
càng xa với những năng lực chứng ngộ.
Tại sao ta lại đề cập đến khái
niệm “năng lực chứng ngộ”. Bởi vì có nhiều người mong muốn ta truyền pháp cho
họ nhờ đó họ có năng lực siêu nhiên để hàng phục chúng sinh. Những vị rinpoche
hay giảng sư loại này đã yêu cầu như vậy thực sự không chín chắn và rất vô minh!
Các vị hộ pháp sẽ kiểm soát liệu con có đủ khả năng thể hiện năng lực chứng ngộ
hay không. Khi con theo những quan điểm xấu ác này, các vị hộ pháp sẽ coi con
như một người xấu. Họ ghi lại những lỗi lầm của con. Họ thậm chí, một ngày nào
đó, có thể hỗ trợ cái chết đến với con. Tuy nhiên, con vẫn tham lam tìm cách lừa
dối để có được năng lực chứng ngộ. Làm sao mà các vị hộ pháp có thể giúp con
trong việc thực hiện sự lừa dối đó? Trong Phật pháp, chỉ có trạng thái chứng ngộ
là thanh tịnh, hoàn mỹ và vô ngã. Không có chuyện đạt được khả năng siêu nhiên
hay sức mạnh của Pháp nhờ vào sự may mắn. Chư Phật và chư Bồ-tát sẽ không ban
cho con những năng lực như vậy. Không phải là ta từ chối trao cho con những năng
lực đó. Thậm chí ngay cả khi con học và thực hành các nghi lễ, con sẽ không
thành công trong việc đạt được những năng lực đó. Hơn nữa, động cơ của con không
tốt khi con tìm kiếm phương cách “hàng phục” chúng sinh một cách kỳ quặc. Con
phải rõ ràng về điều này. Con không nên áp dụng những phương pháp để trấn áp họ.
Con nên giáo hóa họ nhờ vào lòng đại bi của mình. Ta rất lấy làm xấu hổ khi ta
không có được những năng lực chứng ngộ. Ta đã nói với Kaichu Rinpoche, “Sự hành
trì pháp tập trung nội nhiệt của con thực sự đáng ngạc nhiên. Điều này đã gây ấn
tượng đối với ta. Ta không có khả năng đó. Tuy nhiên, ta hy vọng rằng, ta sẽ
không nhìn thấy con thể hiện sức mạnh này của mình lần thứ hai. Ta hy vọng sẽ
nhìn thấy con thể hiện nhiều hơn Bồ đề tâm linh thánh dựa trên lòng từ bi vĩ
đại. Nếu không có Bồ đề tâm, con sẽ không được hưởng bất cứ lợi ích gì đến từ
chánh tư duy.”
Nếu con theo dù chỉ một quan
điểm xấu ác mà không sám hối và sửa chữa rốt ráo, con không chỉ không có được
năng lực chứng ngộ hoặc kinh nghiệm bất cứ kết quả tốt nào từ việc hành trì của
mình, con sẽ còn phải ở trong luân hồi mãi mãi. Hơn nữa, những ai vi phạm nghiêm
trọng dù chỉ một quan điểm xấu ác, sẽ phải bị đọa xuống một trong ba cõi thấp
trong vòng luân hồi! Thậm chí, điều này không chừa cả những người nào dính dáng
tới những kẻ đi theo một quan điểm xấu ác. Nếu con không rời bỏ những ai đang đi
theo một quan điểm xấu ác và không hề thay đổi và sám hối, con sẽ bị ảnh hưởng
bởi nghiệp xấu từ sự vi phạm của họ. Giờ ta sẽ nói về việc nếu con có liên quan
với người theo một quan điểm xấu ác. Có thể con là đệ tử hoặc đồng môn của người
đó. Con khám phá rằng người đó đã phạm vào một quan điểm xấu ác. Có thể ban đầu,
người đó không ý thức được việc vi phạm này. Tuy nhiên, sau này, một ai đó nhắc
nhở rằng anh ta đang vi phạm vào một quan điểm xấu ác, nhưng người đó không thay
đổi hay sám hối. Nếu biết sự việc này mà con vẫn tiếp tục liên kết và không rời
bỏ người đó, con sẽ chịu nghiệp xấu bởi sự vi phạm của anh ta. Điều này vô cùng
nghiêm trọng.
Nếu một vị thầy không vi phạm
một trong 128 quan điểm xấu ác và sai lầm này, người đó chắc chắn là một bậc
phạm hạnh linh thánh. Những ai là đệ tử của vị thầy đó cần phải kính trọng
và cúng dường thầy với một trái tim sùng kính nhất và nên làm mọi thứ có thể để
giới thiệu người khác trở thành đệ tử của thầy. Bất kỳ người đệ tử nào làm điều
này cũng tích tập được vô lượng công đức. Bất kỳ người đệ tử nào không theo 128
quan điểm xấu ác và sai lầm này là người sở hữu đức hạnh và phẩm chất của một
bậc thầy linh thánh. Không nghi ngờ gì người đó sẽ không chỉ trở nên thành tựu
mà chắc chắn còn làm lợi ích cho mọi người, cứu giúp chúng sinh và trở thành
hình mẫu cho người khác.
Bài pháp trên đây được giảng
từ tâm Bồ đề luôn vì mục đích làm lợi ích cho chúng sinh một cách bình đẳng và
vô ngã. Mục tiêu là để làm lợi ích cho những ai là những vị thầy và để bảo vệ và
chăm sóc chúng sinh để họ tích tập những phẩm hạnh xứng đáng, làm nền tảng cho
trí tuệ và phước báu. Tất cả những nguyên lý ta giải thích trên đây là phù hợp
với Pháp và giáo lý của đạo Phật. Những gì ta giải thích trên đây không có gì vì
lợi ích cho bản thân ta hay cho bất kỳ cá nhân cụ thể nào khác, và cũng hoàn
toàn không mang tinh thần bộ phái. Mọi Phật tử nên hàng phục tâm mình và nuôi
dưỡng tâm thái đúng đắn dựa trên những gì ta đã giải thích ở trên. Tiếp đến, ta
sẽ giải thích những quan điểm sai lầm. Những quan điểm sai lầm này ít nghiêm
trọng hơn những quan điểm xấu ác.
Tuy nhiên, việc theo hai hay
ba quan điểm sai lầm cũng tạo nghiệp xấu gần như là theo một quan điểm xấu ác,
tùy vào tính nghiêm trọng của từng quan điểm sai lầm mắc phải. Nếu con đi theo
một quan điểm sai lầm nào đó mà kết quả của vi phạm tương đối nhẹ so với việc
theo các quan điểm sai lầm khác, thì hậu quả xảy ra có thể không nghiêm trọng
như vậy. Tuy nhiên, nếu con theo một quan điểm sai lầm nào đó mà kết quả của vi
phạm nặng nề hơn việc theo những quan điểm sai lầm khác, những hậu quả xảy ra có
thể rất nghiêm trọng. Con chắc chắn không nên chủ quan về thực tế này.
Những quan điểm sai lầm thông
thường được tổng kết ở danh sách dưới đây. Cụm từ “thông thường” ở đây có nghĩa
là không phải toàn bộ những quan điểm sai lầm được nêu ra dưới đây. Tuy nhiên,
những quan điểm sai lầm quan trọng hơn đã được bao gồm trong đó.
90 QUAN ĐIỂM SAI LẦM 1. Quan điểm cho rằng, có thể hành thiền để thay thế cho việc đưa các khái niệm vào thực hành là chấp nhận được.
Ngay cả một số vị có đạo hạnh
lớn cũng rơi vào quan điểm này. Những người mà ta đề cập đến là những bậc có đạo
đức thực sự. Một số vị trong thời xưa cũng rơi vào quan điểm này. Ít nhất là họ
đã phản ánh quan điểm này trong các bài giảng của họ, nhưng không làm như vậy
trong thực tế. Những người có quan điểm này thường xuyên sử dụng các thuật ngữ
như thiền định về bồ đề tâm, thiền định về tứ vô lượng tâm và thiền định về thập
thiện.
Nếu một người ngay lúc bắt đầu
tu tập mà sử dụng thiền định để thực hành bồ đề tâm, tứ vô lượng tâm hay thập
thiện là tu trì sai. Thực hành thiền liên quan đến thực chứng khái niệm tính
Không, nhận ra rằng các đặc điểm thuộc tính của hiện tượng là trống rỗng, chứng
ngộ sự không bám chấp, cắt bỏ vọng tưởng, trở về với tâm nguyên thủy.
Làm như điều trên đã làm mất
đi sự tu tập thật sự của lòng từ bi. Vì vậy, nó không thể tạo ra công đức. Làm
sao người ta có thể thực hành bồ đề tâm như vậy? Do đó, khi thực hành tứ vô
lượng tâm hay bồ đề tâm, người mới bắt đầu tu tập không nên dựa vào thiền định
hay quán niệm. Họ phải dựa vào việc luyện tập đưa những khái niệm vào trong thực
hành. Họ phải chuyển đổi những ý niệm cứng nhắc của họ vào hành động thực
tế.
Họ nên tập trung tâm trí của
họ và chuyển đổi tâm trí đó sang hành động. Họ phải đưa những khái niệm của họ
vào thực hành, thực hiện những việc mang lại lợi ích cho chúng sinh và thực hành
các đề mục pháp mà họ đang quán chiếu. Họ nên thực hành như vậy một cách cụ thể
qua từng lời nói và từng hành động của họ.
Điều này có nghĩa là đưa những
khái niệm vào thực hành. Chỉ khi người ta thành thạo trong việc đưa những khái
niệm vào thực hành thì người ấy mới có thể thực hành thiền để tu tập đến cảnh
giới vô sở trụ. Từ thiền người ta sẽ nhập vào định. Từ đó người ta có thể thâm
nhập sâu vào thực tế rằng sự rỗng không và sự tồn tại là không khác và cuối cùng
có thể chứng ngộ trạng thái chân không diệu hữu khởi lên từ Phật tánh.
2.
Quan điểm cho rằng ngồi thiền là tu dưỡng bản thân.
Một số người nói rằng khi
họ ngồi thiền là họ đang tu dưỡng bản thân. Ngồi thiền không phải là tu dưỡng,
đó chỉ là ngồi thiền. Ngồi thiền chỉ để trực tiếp thể nghiệm mùi vị của bản tính
nguyên thủy. Thông qua quan sát trực tiếp người ta đi đến hiểu được tâm thức và
nhìn thấy được bản tính nguyên thủy của họ.
Tuy nhiên, mục tiêu này không
phải lúc nào cũng có thể đạt được. Một số người sử dụng việc ngồi thiền với mục
đích trực tiếp thể nghiệm chân lý tối hậu của Pháp nhưng không thể làm được như
vậy. Tu dưỡng bản thân là một điều hoàn toàn khác. Ngồi thiền thì chưa được một
phần mười của việc tu tập. Thiền chỉ là một trong sáu ba la mật (lục độ), không
liên quan tới năm ba la mật còn lại. Trong việc tu dưỡng bản thân người ta phải
đối mặt với chúng sinh trong đời sống thực tế, đối mặt với tâm thức của họ và
hành động như Đức Phật đã làm.
3.
Quan điểm cho rằng, chỉ đơn giản bắt ấn và niệm chú là thực hành
Pháp.
Một số người bắt ấn và niệm
chú và nghĩ rằng họ đang thực hành pháp. Điều này là sai lầm. Đó không phải là
thực hành pháp. Ngoài bắt ấn và niệm chú, một bài thực hành pháp phải bao gồm
các pháp khí, quán tưởng, phương hướng, thời gian và tất cả những nghi thức được
nêu trong tài liệu hướng dẫn hành trì pháp.
4.
Quan điểm cho rằng, việc chỉ thực hành một pháp đã là tu dưỡng bản thân.
Quan điểm cho rằng việc chỉ
thực hành một pháp cụ thể đã là tu tập là một quan điểm sai lầm. Một thực hành
pháp là một thực hành pháp. Đó không phải là tu dưỡng bản thân. Tu dưỡng đòi hỏi
phải thực hiện bồ đề tâm của lòng đại bi, phải tuân thủ các giới luật và nhiều
điều khác.
5.
Quan điểm cho rằng, việc nghiên cứu giáo lý trong kinh điển là tu dưỡng bản
thân.
Một số người dành tất cả thời
gian của mình nghiên cứu các giáo lý trong kinh điển. Họ có thể trì tụng kinh
điển thuộc lòng và lưu loát. Họ tự gọi mình là người tu tập Phật giáo. Điều đó
là không chính xác. Họ chỉ là những học giả Phật giáo tham gia vào nghiên cứu
Phật giáo. Họ không phải là người tu tập. Chúng ta không nên chấp nhận quan điểm
sai lầm này. Chấp nhận nó có nghĩa là bản thân các con cũng có quan điểm sai lầm
này hoặc các con chấp nhận người khác có quan điểm sai lầm này. Dù với cách nào
thì nó cũng phản ánh một quan niệm sai lầm.
6.
Quan điểm cho rằng, một người có quan điểm xấu ác và sai lầm vẫn có thể phát
triển thành công những năng lực siêu nhiên thông qua sự thực hành của người
đó.
Trong trường hợp này, người đã
rơi vào quan điểm xấu ác hay quan điểm sai lầm nhưng vẫn nghĩ rằng họ có thể
phát triển thành công năng lực siêu nhiên thông qua việc thực hành. Họ nghĩ rằng
một ngày bánh trung thu sẽ rơi từ trên trời xuống khi họ đưa bàn tay mình ra
hoặc hễ họ ra lệnh thì các vị hộ pháp sẽ xuất hiện ngay lập tức.
Điều đó là không thể. Không có
những điều như vậy. Chỉ cần các con rơi vào quan điểm xấu ác hay quan điểm sai
lầm các con sẽ không thể phát triển năng lực siêu nhiên thông qua thực tập. Thậm
chí dù các con có phát triển năng lực siêu nhiên thì rồi nó cũng sẽ biến mất. Có
hai vị rinpoche là hai ví dụ sống: Một người trong số họ đã có một nền tảng tốt
trong Phật pháp. Vì vậy, ông ta yêu cầu được thọ quán đảnh Thiền Nhất Vị trong
“Giải Thoát Đại Thủ Ấn Tối Thượng”.
Tuy nhiên, sau khi nhận
được lễ quán đảnh đó, ông ta không thể nhập định vào cảnh giới nhất vị, ở đó sự
trống rỗng và tồn tại là một và giống nhau. Điều duy nhất có thể được làm là
thực hiện một lễ quán đảnh khác, lần này là lễ quán đảnh Thần Tài Trắng. Sau khi
nhận lễ quán đảnh Thần Tài Trắng, ông ta vẫn không thể đạt đuợc trạng thái phát
sinh. Vì vậy việc nhận quán đảnh đã không thành công.
Vị rinpoche khác đã thực hành
pháp tập trung nội nhiệt (tummo), ông ta có thể nâng nhiệt độ cơ thể của mình
lên đến 163 độ F (73 độ C). Tuy nhiên, sau đó điều lạ lùng đã xảy ra. Nhiệt độ
cơ thể ông có được từ việc thực hành pháp tập trung nội nhiệt càng ngày càng hạ
thấp và hoàn toàn biến mất trong vòng nửa năm. Ông trở lại với tình trạng ban
đầu của một chúng sinh bình thường.
Cả hai vị rinpoche đều thấy
nguyên nhân các vấn đề của họ. Đó là họ đã rơi vào quan điểm xấu ác và quan điểm
sai lầm. Một trong những vị rinpoche ngay lập tức sửa chữa chính mình. Ông đã
nhận được một quán đảnh khác nhưng vẫn không thành công, Ông ta đã nhiều lần tìm
nguyên nhân và đã tìm ra hơn ba quan điểm xấu ác hay quan điểm sai lầm ông đã
rơi vào. Tuy nhiên, vì ông ta không sám hối triệt để, nên việc nhận quán đảnh
lại vẫn không thành công. Cuối cùng ông ta đã sám hối một cách sâu sắc triệt để.
Sau đó, ông ta đã có thể trải nghiệm trạng thái phát sinh trong suốt lần quán
đảnh kế tiếp.
Vị rinpoche thứ hai là người
đã thực hành pháp tập trung nội nhiệt. Sau khi ông ta sám hối triệt để từ tận
lòng mình, một điều rất tuyệt vời đã xảy ra với sức nóng bên trong của ông.
Nhiệt độ tâm phong minh điểm, tam mạch, ngũ luân, và mật luân của ông đều tăng
theo từng ngày. Sự thực hành giáo pháp Tummo của ông từ từ trở về trạng thái ban
đầu.
Chỉ hai ví dụ này đã nói rõ
triệt để về điều trên. Vì vậy, tất cả mọi người phải nhớ rằng không thể có việc
một người rơi vào quan điểm xấu ác và quan điểm sai lầm lại có thể đạt được năng
lực siêu nhiên hay sự chứng ngộ.
7.
Quan điểm cho rằng, việc một bậc thầy có thể đưa ra những yêu cầu phi lý đối với
học trò là chấp nhận được.
Thậm chí có rất nhiều người
được gọi là đạo hạnh rơi vào quan điểm này. Họ tự coi mình là quá tuyệt vời và
nghĩ rằng đệ tử phải chấp nhận những yêu cầu vô lý của họ như là một biểu hiện
tuân theo của ba nghiệp. Trên thực tế, những người được gọi là đạo hạnh như vậy
có tâm thái ích kỷ của một kẻ phàm phu. Họ chắc chắn không có những khả năng
siêu nhiên thật sự. Quan điểm như vậy là sai lầm.
Có lẽ họ hành động theo những
lời nói sai lầm của các bậc đạo hạnh thuở xưa. Trên thực tế, họ đã sai bất kể
việc họ dựa vào quy định của bất cứ bậc đạo hạnh ngày xưa nào. Một bậc thầy
không có quyền đưa ra một yêu cầu vô lý đối với đệ tử. Nếu vị thầy là một bậc
thánh thì càng phải giảng pháp một cách đúng đắn hơn. Ông ta không nên gây ra
thậm chí một chút hiểu lầm có thể tổn hại về thể chất hoặc tinh thần cho đệ tử.
Một bậc thầy linh thánh càng phải dùng đạo đức vô tư vị tha của mình để thu hút
chúng sinh đến với Phật pháp.
Bất cứ ai nghĩ rằng một bậc
thầy có thể đưa ra những yêu cầu phi lý đối với đệ tử là chứa chấp quan điểm sai
lầm này. Tuy nhiên, chỉ trong một trường hợp vị thầy kiểm tra đệ tử để xem duyên
nghiệp đệ tử đó đối với Pháp, bậc thầy có thể sử dụng các phương pháp đặc biệt
để quan sát đệ tử.
Tuy vậy, một tiêu chuẩn cơ bản
là người thầy phải làm điều đó dựa trên tấm lòng đại bi dành cho đệ tử và vì lợi
ích tương lai của đệ tử hơn là lợi ích cá nhân của người thầy. Hơn nữa, những
người duy nhất đủ điều kiện để thực hiện những bài kiểm tra như vậy là những bậc
thầy linh thánh, những bậc thầy đã đạt đến hai bậc cao nhất trong sáu bậc của
năng lực kim cương. Ví dụ như đạo sư Marpa, người đã kiểm tra tổ sư Milarepa.
8.
Quan điểm cho rằng, việc nghe hoặc đọc những quan niệm ngoại đạo của ai đó mà
không lưu ý với thính chúng rằng đó là những quan niệm ngoại đạo là chấp nhận
được.
Những người có quan niệm này
khi thấy ai đó tuyên truyền tà thuyết có hại cho chúng sinh, họ chỉ nghĩ đến
việc tu tập của bản thân mà không quan tâm đến người khác. Họ nghĩ: “Sai lầm của
người khác tức là sai lầm của tôi. Xem tất cả mọi người như là một thực thể
chính là có một lòng đại bi. Tôi sẽ không nói cho người khác biết về điều này.
Tôi sẽ không làm điều đó. Tôi sẽ chỉ tập trung vào tu tập bản thân".
Quan điểm như vậy là sai lầm.
Các con phải làm tất cả những gì các con có thể để ngăn chặn những tà thuyết.
Các con nên nói cho những người đã nghe các ý tưởng đó như thế này: “Tất cả
những gì các bạn đã nghe là những tà thuyết đi ngược lại những giáo lý kinh
điển. Thầy của chúng tôi đức Dorje Chang III tuyệt đối
không giảng như vậy.” Các con phải ghi nhớ một điều. Bất cứ khi nào các con nhìn
thấy một người tuyên truyền những tà thuyết, các con phải báo cho chúng sinh để
họ hiểu. Đừng để những tà thuyết của người ấy tiếp tục lan truyền làm hại chúng
sinh nhiều hơn.
Tuy nhiên các con phải ghi
nhớ rằng nếu những lời nói ti tiện của kẻ ấy trực tiếp làm tổn hại đến con thì
hãy nghĩ rằng, “Sai lầm của người khác tức là sai lầm của mình. Xem tất cả mọi
người như là một thực thể chính là lòng đại bi.” Các con con nên lặng lẽ chịu
đựng sự sỉ nhục đó và không nên nói cho người khác biết về nó.
9.
Quan điểm cho rằng việc ốm đau có thể chữa khỏi được bằng sự cầu nguyện gia trì
mà không cần tu dưỡng bản thân.
Những người có quan điểm này
nghĩ rằng không tu dưỡng bản thân thì bệnh của họ vẫn có thể được chữa khỏi
chỉ bằng cách cầu chư Phật và chư Bồ tát hay đạo sư của họ gia trì cho họ. Suy
nghĩ như vậy là sai lầm. Người ta phải tu dưỡng bản thân. Tu dưỡng bản thân, cầu
nguyện sự gia trì cộng thêm uống thuốc, làm tất cả những điều đó thì bệnh của
người ấy mới được chữa khỏi.
10.
Quan điểm cho rằng, thuốc của Phật giáo có thể chữa trị mọi chứng
bệnh.
Những người có quan điểm này
nghĩ rằng những loại thuốc khác nhau như là thuốc kéo dài cuộc sống (trường thọ
hoàn), thuốc quý giá nhất (chí bảo hoàn), thuốc quý (đại bảo hoàn), thuốc kim
cương (kim cương hoàn), thuốc cam lộ (cam lộ hoàn) có thể chữa được bách bệnh.
Đây là điều vô lý, các con không nên chấp nhận. Quan điểm này là vi phạm luật
nhân quả. Nếu các con chấp nhận nó các con đã rơi vào quan điểm sai lầm. Không
sai, ta có rất nhiều thuốc của Phật. Hơn nữa đều là thuốc quý. Trong đó có nhiều
loại thuốc linh thánh thật sự có sức gia trì rất lớn. Tuy nhiên, chúng tuyệt đối
không phải là thuốc chữa trị bách bệnh.
11.
Quan điểm cho rằng, một người có thể ăn thịt sau khi người đó được xuống tóc và
trở thành tu sĩ.
Sau khi một người đã xuống tóc
và trở thành một tu sĩ, người đó sẽ thọ nhận các giới luật, chẳng hạn như giới
luật dành cho các nữ tu mới tu (sa-di ni giới), giới luật dành cho các nhà sư
nam mới tu (sa-di giới), giới luật dành cho nữ tu (tỉ -khâu ni giới), giới luật
dành cho các nhà sư nam(tỉ-khâu giới) v.v.. Một khi các con đã thọ nhận những
giới luật như thế, các con không được phép ăn thịt. Đây là một quy định rất
nghiêm ngặt. Dù các con ở trong bất cứ địa vị nào, nếu ăn thịt các con sẽ bị vi
phạm giới luật.
12.
Quan điểm cho rằng, không cần phải thực hành Bồ-đề tâm sau khi con đã nhận được
quán đảnh cao cấp.
Những người có quan điểm này
cho rằng: “Hôm nay tôi đã thực hành một bài Pháp cao cấp. Tại sao tôi phải thực
hành Bồ-đề tâm nữa? Pháp mà tôi nhận được tuyệt vời như vậy, tôi sẽ sớm đạt được
thành tựu. Tôi không cần thực hành Bồ-đề tâm nữa.” Đây là quan điểm sai lầm. Nếu
người ta không hành động xuất phát tử Bồ-đề tâm, thì kết quả thực hành bất kỳ
một Pháp cao cấp nào đều sẽ giống như sự phản chiếu của mặt trăng trên mặt nước
hoặc sự phản chiếu của những bông hoa trong gương - nhìn thấy được nhưng không
có thật.
13.
Quan điểm cho rằng, không thực hành sáu hạnh ba la mật là chấp nhận được.
Cho dù các con đang thực hành
Pháp nào, các con vẫn phải thực hành sáu hạnh ba la mật: bố thí, trì giới, tinh
tấn, nhẫn nhục, thiền định và trí tuệ. Nếu các con nghĩ rằng các con không cần
phải thực hành sáu hạnh ba la mật thì các con đã rơi vào quan điểm sai lầm. Dù
các con có thực hành bất kỳ Pháp nào cũng không thể thay thế cho sáu hạnh ba la
mật.
14.
Quan điểm cho rằng, có tồn tại một Pháp tối thượng có thể phù hợp với tất cả
chúng sinh.
Các đệ tử của ta thường nói:
“Pháp của chúng tôi là cao cấp nhât. Pháp của Đức Dorje Chang III là tối
thượng. Nó là vô song. Nó có thể cứu độ tất cả chúng sinh. Không có chúng sinh
nào mà Pháp này không cứu độ được!” Hôm nay ta nói cho tất cả các con rằng quan
điểm này là sai lầm. Có một số chúng sinh không thể cứu độ được, một số chúng
sinh là những kẻ xấu ác. Họ thậm chí còn phỉ báng Pháp. Ba nghiệp của họ sẽ
không phù hợp với Pháp. Một số người trong họ thực sự là ma quỷ muốn chống lại
Phật Pháp.
Hơn nữa, trong Phật Pháp,
không có Pháp nào là Pháp tối thượng phù hợp với tất cả chúng sinh. Chưa bao giờ
có một Pháp nào như vậy. Trong số tất cả các chư Phật, không có một vị Phật nào
có Pháp như vậy. Chúng sinh là những thực thể với những duyên nghiệp khác nhau.
Một người sẽ trải nghiệm được kết quả lợi lạc từ việc thực hành Pháp chỉ khi
Pháp đó phù hợp với người ấy. Một người sẽ không thể trải nghiệm được lợi ích từ
việc thực hành Pháp nếu Pháp đó không phù hợp với người ấy.
Mặc dù có Pháp vô cùng tuyệt
vời, nhưng một bậc thầy sở hữu Pháp đó sẽ không dạy cho người không có đủ lòng
sùng mộ. Thậm chí nếu vị thầy có dạy Pháp như vậy cho người đó thì họ cũng không
thể thực hành Pháp thành công. Vì vậy, mặc dù Pháp như vậy là tốt nhưng nó vẫn
không thể cứu độ được họ.
15.
Quan điểm cho rằng, có thể tiến hành một buổi lễ quán đảnh ở một vị trí cách xa
nơi mà người nhận quán đảnh đang ở.
Luôn luôn có những buổi lễ
quán đảnh như vậy trong xã hội. Những người thực hiện chúng thực chất là những
thầy giả hiệu. Ví dụ, một ai đó đang ở một nơi xa, ông ta gửi một số tiền cùng
với tên và địa chỉ của mình cho một hành giả Mật tông - người sẽ tiến
hành buổi lễ quán đảnh. Vị hành giả Mật tông này sau đó sẽ
tiến hành một buổi lễ quán đảnh cho người đó. Đó gọi là lễ quán đảnh từ xa.
Những người tiến hành nó là những kẻ hoàn toàn bịp bợm.
Mặc dù họ mặc y áo của người
tu tập Phật giáo nhưng họ chỉ là những kẻ phàm phu tục tử xấu ác. Các con phải
hiểu rằng trước khi các con học một Pháp, cần phải xác định liệu các con có một
nền tảng tâm linh phù hợp và liệu các con có là người phù hợp để nhận Pháp đó
hay không. Các con phải trải qua sự quan sát và kiểm tra rất nghiêm ngặt. Một
buổi lễ quán đảnh không thể được tiến hành cho một người không gặp gỡ người thực
hiện lễ quán đảnh, người chưa trải qua những bài kiểm tra và người chưa được xác
định phù hợp với những tiêu chuẩn của Pháp. Nếu các con đồng ý với quan điểm
nhận lễ quán đảnh từ xa là các con đã sai lầm.
16.
Quan điểm cho rằng, miễn là con làm việc thiện, con có thể đạt giải thoát mà
không cần thực hành Pháp.
Những người có quan điểm này
cho rằng miễn là họ làm việc thiện như: xây nhiều chùa, mở một số tuyến đường
hoặc cung cấp cứu trợ cho một số người có nhu cầu, họ có thể đạt được giải thoát
mà không cần thực hành Pháp. Đây là quan điểm sai lầm. Làm những việc tốt như
vậy sẽ nhận được nghiệp quả hạn chế như những phước báu ở cõi người và cõi trời.
Nó sẽ không dẫn đến giải thoát. Người ta có thể đạt được giải thoát chỉ khi
người đó kết hợp làm viện thiện cùng với sự tu tập và thực hành Pháp.
17. Quan điểm cho rằng, việc cắt bỏ bám chấp vào bản ngã đồng
nghĩa với việc không quan tâm đến sự khổ đau của những người khác.
Trong nổ lực thoát khỏi bám
chấp vào bản ngã, những người có quan điểm này cho rằng họ không phải quan tâm
đến nỗi đau khổ của người khác, thậm chí cho dù là người thân của họ đang đau
khổ. Họ nghĩ rằng nếu quan tâm đến bệnh tật hay nỗi buồn của người khác, họ sẽ
bị bó buộc bởi sự lo lắng về những nỗi đau đó. Họ quyết định làm ngơ trước những
nỗi đau như vậy và nghĩ rằng đó là cắt bỏ bám chấp vào bản ngã.
Đây là một quan điểm sai lầm.
Cắt bỏ bám chấp vào bản ngã có nghĩa là đặt lợi ích của bản thân xuống sau cùng
và đặt lợi ích của người khác lên trên đầu. Nó có nghĩa là không làm hại kẻ khác
về thể chất hoặc tinh thần và không làm họ đau buồn. Tuy nhiên, tất cả những gì
chúng ta làm phải xuất phát từ bồ đề tâm. Chúng ta không được tạo ra bất kỳ bám
chấp nào vào bản ngã. Đây là sự tu tập thật sự để cắt bỏ bám chấp vào bản
ngã.
18.
Quan điểm cho rằng, việc thực chứng tánh Không không liên quan đến trình độ
chứng
ngộ và công đức.
Ngày xưa có nhiều người đi
theo quan điểm này, ngày nay cũng có nhiều người như vậy. Những người có quan
điểm này nghĩ rằng việc thực chứng tính Không có nghĩa là hiểu được sự rỗng
không của tứ đại và sống một cuộc sống không bị ô nhiễm bởi các đối tượng của
sáu giác quan. Làm sao công đức và năng lực thực chứng lại có thể tồn tại trong
tính Không đây?
Đây là một quan điểm sai lầm.
Tất cả các năng lực siêu nhiên đều phát sinh từ việc thực chứng tính Không.
Những thực chứng về tính Không đạt được thông qua công đức tính luỹ được từ tu
tập. Chỉ bằng cách chuyển đổi nghiệp của một người thông qua tu tập tích lũy
công đức mà người ấy mới có thể thực chứng tính Không. Đó là lý do tại sao Đức
Phật dạy tất cả chúng sinh liên tục thực hành sáu hạnh ba la mật, tuân thủ các
giới luật và v.v… Đây là cách nhìn mà từ đó con nên cố gắng hiểu vấn đề này.
19.
Quan điểm cho rằng, tất cả những người lãnh đạo một dòng truyền thừa chính thống
đều là những đạo sư xứng đáng đứng đầu dòng phái của họ.
Những người có quan điểm này
nghĩ rằng một bậc thầy dẫn dắt một dòng truyền thừa pháp chính thống phải là
những đạo sư đứng đầu hợp pháp dòng phái của họ. Tình hình này gây ra sự nhầm
lẫn và hỗn loạn lớn trong giới Phật giáo và là một vấn đề nghiêm trọng nhất. Có
thể nói rằng trong số một trăm người được gọi là bậc thầy lãnh đạo dòng truyền
thừa chính thống của họ, hầu như tất cả là giả mạo.
Vậy dòng truyền thừa của họ có
chính thống không? Dòng truyền thừa của họ là chính thống, nhưng thường thì sự
tu tập và thực hành của họ là sai. Trong số một ngàn vị thầy lãnh đạo dòng phái
có lẽ chỉ duy nhất một vị là lãnh đạo xứng đáng dẫn đầu dòng phái của họ. Đó là
bởi vì tu tập là hành vi của cá nhân. Việc một bậc thầy dẫn đầu của dòng truyền
thừa chính thống là xứng đáng phải phụ thuộc vào sự tu dưỡng và thực hành cụ
thể. Các con không thể chỉ đơn giản nhìn vào dòng truyền thừa của họ mà xác định
sự xứng đáng của họ.
Ví dụ, ta, Kim Cương Trì III
trực tiếp truyền pháp. Đây là dòng truyền thừa Pháp đích thực. Các đệ tử của ta
thường tu dưỡng bản thân và thực hành tốt. Những năng lực siêu nhiên mà họ đã
thực chứng có được là rất hiếm hoi và ít thấy trên thế giới này. Tuy nhiên, ta
vẫn có không ít đệ tử, bao gồm cả một số là các bậc thầy, đi theo quan điểm xấu
ác và quan điểm sai lầm. Hơn nữa, họ không chỉ rơi vào một hoặc hai trong số
những quan điểm đó. Vì vậy, tất cả các con phải chú ý vấn đề này. Dùng 128 quan
điểm này để xác định người nào có sự hiểu biết đúng đắn và có quan điểm đúng đắn
hay không và người nào là một đạo sư xứng đáng dẫn đầu dòng phái của họ.
Một vài đệ tử nói với ta:
“Thưa sư phụ, Ngài có thể nói về những quan điểm sai lầm một cách mềm mại hơn
không? Nếu không, làm thế nào chúng con có thể ra ngoài và cứu độ chúng sinh? Có
tông phái nào nói rằng đệ tử của họ là có vấn đề? Dù thế nào không phải là chúng
con vẫn tốt hơn nhiều so với những người được gọi là cao tăng và những đại đức ở
các tông phái của họ sao?” Ta nói với họ "Cho dù con có tốt hơn họ nhiều hay ít
đều vô dụng. Các con phải trở thành những vị thầy thuần tịnh trên con đường đi
đến giác ngộ. Thậm chí nếu các vị thầy trong giới Phật giáo, bao gồm tất cả các
con, tất cả đều than phiền về ta và rời bỏ ta, ta vẫn phải nói về những hiểu
biết đúng đắn và những quan niệm đúng đắn để duy trì giáo Pháp thật sự của các
đấng Như Lai và bảo vệ những gốc rễ trí huệ của chúng sinh dẫn đến giải
thoát."
20.
Quan điểm cho rằng việc tiến hành một buổi lễ quán đảnh hoặc truyền Phật pháp vì
tiền là chấp nhận được.
Có những người tổ chức ngay
lập tức một lễ quán đảnh cho một người nào đó sau khi nhận được tiền cúng dường
của họ. Làm như vậy là đã rơi vào quan điểm sai lầm. Cho dù một lễ quán đánh
được tổ chức hay không nên được dựa trên năng lực tâm linh và thiện căn của
người được nhận. Không được để một lễ quán đảnh được thực hiện đơn giản chỉ dựa
trên sự cúng dường bằng tiền bạc.
Các đệ tử nên cúng dường cho
thầy của họ. Dĩ nhiên, ta không nói là các con nên cúng dường cho ta. Ta đã nói
là ta không nhận cúng dường. Điểm mấu chốt là phải có một sự hiểu biết rõ rằng
sau đây: một người không nên nhận một lễ quan đánh chỉ vì người đó đã trả tiền
và người ta không nên nhận Phật pháp chỉ vì người đó đã trả tiền. Một lễ quán
đảnh được thực hiện dựa trên tiền bạc là một lễ quán đảnh sai trái.
Điều này cũng có nghĩa những
ai tổ chức lễ quán đảnh khi được trả tiền là những vị thầy giả mạo. Nếu các con
không tin điều này, thì hãy để vị thầy như vậy làm bài kiểm tra sáu bộ về những
phẩm chất của một vị thầy. Các con sẽ thấy ngay vị thầy đó là thật hay giả.
21. Quan điểm cho rằng, những ai được kế thừa vị trí lãnh đạo
của một ngôi chùa lớn chắc chắn là một bậc thánh nhân đạo hạnh.
Có một số ngôi chùa rất lớn.
Và khi có ai đó kế thừa vị trí cao nhất của ngôi chùa như vậy, tất cả mọi người
thường nghĩ rằng người kế tục này chắc chắn là một thánh nhân. Điều đó không
đúng! Hãy nhớ những gì ta nói ở đây. Không có gì đảm bảo rằng người đứng đầu một
ngôi chùa vĩ đại là một thánh nhân. Ông ta có thể là một thánh nhân, hoặc ông ta
cũng có thể chỉ là một người bình thường. Tất cả mọi thứ phải dựa trên chân lý
tuyệt đối, chứ không phải trên bất cứ điều gì khác ngoài chân lý tuyệt đối.
22. Quan điểm cho rằng, một ngôi chùa nhỏ chẳng có vị tu sĩ nào xuất sắc.
Khi một người theo quan điểm
này thấy một ngôi chùa rất nhỏ và chỉ có hai nhà sư, họ sẽ thắc mắc làm sao một
ngôi chùa bé như vậy có thể có nổi tu sĩ xuất sắc nào ở đó? Đối với họ, điều đó
là không thể. Đây cũng là một quan điểm sai lầm. Một ngôi chùa nhỏ cũng có thể
có các tu sĩ xuất sắc. Không thể kết luận một tu sĩ có xuất sắc hay không thông
qua tầm cỡ ngôi chùa nơi tu sĩ đó cư trú trong hay thông qua dòng truyền thừa
của người đó. Nếu sự tu tập, thành tựu và sự thực chứng của tu sĩ đó lớn lao,
thì họ sẽ là tu sĩ xuất sắc. Những người bình thường không biết về dòng truyền
thừa của một số tu sĩ xuất sắc vì những tu sĩ thực sự xuất sắc này không khoe
khoang tự ca ngợi mình do bám chấm vào bản ngã. Họ không tiết lộ về bản thân
mình. Ví dụ đã có sự thắc mắc về nơi mà Kaichu Rinpoche đã học được năng lực tập
trung nội nhiệt (tummo) của mình. Người bình thường không có cách nào biết được
dòng truyền thừa mà từ đó ông đã nhận được Pháp này. Tới giờ họ vẫn không
biết.
23.
Quan điểm cho rằng, việc giảm bớt tinh tấn trong thực hành sau khi đã hiểu tâm
và thấy bản tính tự nhiên của con là chấp nhận được.
Có những người hiểu tâm và
thấy bản tính tự nhiên của họ. Sau khi họ đạt được năng lực chứng ngộ và hiểu
bản chất của mọi hiện tượng và chân như, họ giảm bớt sự tinh tấn thực hành. Họ
không còn cảm hứng thực hành giáo pháp và không thực hành tinh tấn sáu hạnh
ba-la-mật. Họ chỉ muốn lặp lại một hoặc hai câu châm ngôn. Trong quá trình giảng
dạy người khác, họ nói, "Hãy nhớ những gì ta sắp nói. Con phải quán tưởng. Quán
tưởng năng lượng này và giữ vững. Tâm thức của con phải đứng yên. Hãy để suy
nghĩ đã sinh của con ra đi và không để phát sinh suy nghĩ tiếp theo...” Những từ
như vậy hoàn toàn là tà thuyết của ngoại đạo, hoàn toàn vô nghĩa và và hoàn toàn
sai lầm. Một dạo sư cần dạy cho người khác cách tu tập và hành động trong bồ đề
tâm. Đó là những điều mà người đã hiểu tâm và nhìn thấy bản tính tự nhiên của họ
nên làm.
24.
Quan điểm cho rằng, việc trì hoãn học hỏi giáo lý đạo Phật cho tới khi con hết
vướng bận những việc thế gian là chấp nhận được.
Một số người nghĩ rằng, "Hiện
tại tôi rất bận rộn. Tôi sẽ học hỏi Phật pháp sau khi hoàn tất công việc đang
làm” hoặc "Tôi sẽ học hỏi Phật pháp sau khi doanh nghiệp của tôi phát triển tốt"
hoặc "Tôi sẽ học hỏi Phật pháp sau khi đã già hơn và nghỉ hưu”. Ngay khi con
nghĩ như thế, con đã gieo những hạt giống của sự suy đồi. Những hạt giống đó
được trồng ngay tại thời điểm con có quan điểm sai lầm này. Việc học Phật pháp
phải được bắt đầu ngay bây giờ. Tư duy đúng đắn phải được thiết lập ngay lập
tức. Con nên bắt đầu ngay bây giờ - tại thời điểm này trong khi ta đang giảng.
Vì người ta không thể xác định được ngày tháng mình sẽ ra đi và con không biết
ngày con sẽ chết.
25. Quan điểm cho rằng, một người có số lượng lớn đệ tử là một bậc thánh nhân và đạo hạnh.
Khi những người có quan điểm
rằng ai đó có một số lượng lớn các môn đồ, chẳng hạn như trên một trăm ngàn, hơn
một triệu, ba hoặc bốn triệu, họ nghĩ rằng, "Điều này thật đáng kinh ngạc. Ông
ấy là một bậc thánh vĩ đại!” Quan điểm như vậy là sai lầm. Dù một người có thể
có nhiều đệ tử đến thế nào, ông ấy có thể vẫn không phải là một bậc thánh. Trong
số những người có nhiều đệ tử, có những người thực sự là những bậc thánh vĩ đại.
Một trong số họ là đức Pháp vương Dodrupchen IV Thupten Trinle Palzang,
hóa thân của đức Liên Hoa Sanh. Vì thế, con
hãy nhớ phải rất cẩn thận. Sự nổi tiếng của một người không phản ánh bản chất
thực chứng linh thánh của người đó.
Ta biết ba vị thánh nhân đạo
hạnh vĩ đại; một trong số đó có một ít đệ tử là các rinpoche, và hai vị còn lại
chưa bao giờ có bất kỳ một đệ tử nào. Tuy nhiên, trong số những vị pháp vương
giả mạo, rinpoche giả mạo, và các vị giảng sư giả mạo – những người có hơn một
triệu người môn đệ và nói những lý thuyết rỗng tuếch, đã có ai trong số những
người này thể hiện chứng ngộ cao và đạt được thành tựu tuyệt vời như ba vị ta đã
nói ở trên hay chưa? Họ thậm chí không thể tiến gần tới cấp độ của ba vị kia. Vì
vậy, đó là quan điểm sai lầm khi coi một người là bậc thánh dựa trên số lượng đệ
tử mà ông ta có.
26.
Quan điểm cho rằng, việc coi một người không có sự thực chứng linh thánh và
Bồ-đề tâm như là một bậc thánh nhân thực thụ là chấp nhận được.
Một số người vừa không có cả
sự thực chứng inh thánh lẫn Bồ-đề tâm. Tuy nhiên, những bài giảng pháp của họ
lại thu hút người nghe và rất dễ chịu với người nghe. Hơn nữa, vì thế gian không
hiểu các kinh điển và luận giải, họ đánh giá sai về những người này. Tất cả điều
đó dẫn tới kết quả là những người như vậy đang được coi như là những bậc thánh.
Quan điểm này là một sai lầm. Một bậc thánh thực sự phải có sự thực chứng linh
thánh, và người đó còn phải có Bồ-đề tâm. Không thể thiếu một trong hai điều
này.
27.
Quan điểm cho rằng, có thể coi terma (bảo tạng) như một bảo bối trong khi terma
không phải là terma đúng nghĩa.
Nhiều bậc đạo hạnh và các
rinpoche ở Tây Tạng thường đưa một terma ra cho những người khác xem và nói với
họ rằng đó là terma. Họ nói rằng một terma như vậy đã được một vị lama nào đó
hay một vị pháp vương vĩ đại nào đó trong tháng nào đó, của năm nào đó, tại địa
điểm nào đó đã khám phá ra. Đó không phải là một terma đúng nghĩa. Một terma
đúng nghĩa là gì? Là terma đó phải được xác thực. Việc xác thực này sẽ chứng
minh một terma được nói tới có chính thống hay không. Một pháp cụ thể phải được
thực hiện theo đúng giáo pháp. Nếu trong lúc thực hiện pháp đó, các hiện tượng
linh thánh được nhìn thấy chứ không phải là hiện tượng ảo huyễn hay chỉ là sự
thay đổi ánh sáng, hình dáng và màu sắc, thì nó có thể được gọi là terma đúng
nghĩa. Nếu con coi bất cứ thứ gì không phải là một terma đúng nghĩa như một
terma chính thống, thì con đang có quan điểm sai lầm này.
28. Quan điểm cho rằng, việc cố ý chối bỏ những gì mà thực tế con đã nói hoặc làm là chấp nhận được.
Một bậc thánh chắc chắn sẽ
không phủ nhận những gì mình đã nói hoặc đã làm. Bất cứ ai không thực hiện những
gì họ nói rằng họ sẽ thực hiện hoặc những người phủ nhận những gì trong thực tế
họ đã làm, thì người đó không phải là thánh nhân. Họ không phải là một vị thầy
có đủ tư cách. Con đi theo quan điểm sai lầm này nếu bản thân con có nó và hành
động theo nó, hoặc nếu con chấp thuận những người khác có nó và hành động theo
nó.
29.
Quan điểm cho rằng, việc cố ý che giấu những vấn đề với bậc thầy đạo hạnh và
linh thánh của con là chấp nhận được.
Một số người cố tình che giấu
những vấn đề với đạo sư linh thánh của họ. Họ lo sợ sẽ bị người thầy linh thánh
chỉ trích, phê bình nếu đạo sư biết về những vấn đề đó. Hoặc họ cảm thấy quá xấu
hổ khi phải nói ra những điều đó với đạo sư linh thánh của mình. Vì vậy, họ cố
tình che giấu các vấn đề với đạo sư. Đây là một quan điểm sai lầm.
30.
Quan điểm cho rằng, con có thể trở nên thành tựu trong Pháp nếu con có một hay
vài viên trong năm loại thuốc vĩ đại.
Những người có quan điểm này
nghĩ rằng họ có thể thành tựu một khi họ có một viên thuốc kim cương (kim cương
hoàn), thuốc quý (đại bảo hoàn), thuốc quý giá nhất (chí bảo hoàn), thuốc cam lộ
(cam lộ hoàn), và/hoặc thuốc trường thọ (trường thọ hoàn). Có những viên thuốc
là một điều tốt nhưng không liên quan gì tới việc đạt được các thành tựu. Một
người phải dựa vào sự tu tập thực sự để trở nên thành tựu.
31.
Quan điểm cho rằng, con không có hạt giống để trở thành một vị Phật bởi vì con
quá nặng nghiệp.
Một số người nghĩ rằng
họ quá nặng nghiệp. Họ nghĩ “Nghiệp xấu của tôi quá nặng. Nghiệp tiêu cực của
tôi quá sâu dày. Tôi đã làm nhiều điều xấu xa. Than ôi, tôi thật đáng thương.
Tôi sẽ không bao giờ có được hạt giống để trở thành một vị Phật." Đây là một
quan điểm sai lầm. Cho dù nghiệp của con nặng nề đến thế nào, miễn là con thành
khẩn hối cải, trở thành người tốt, tu dưỡng bản thân và học hỏi Phật pháp thật
tốt, con cũng có thể đạt đến giác ngộ.
32.
Quan điểm cho rằng, một chúng sinh ở cõi phi nhân không có Phật tính.
Những ai theo quan điểm này
nghĩ rằng, chỉ có mỗi loài người có Phật tính và tất cả các loài còn lại thì
không. Họ nghĩ rằng một số chúng sinh khác đương nhiên ở cấp thấp và một số khác
đương nhiên được sinh ra chỉ để làm thức ăn cho con người. Nghĩ như vậy là sai
lầm. Mọi sinh linh sống đều bình đẳng. Tất cả họ đều có cảm xúc. Tất cả họ đều
có buồn và vui. Hơn nữa, tất cả họ đều nằm trong sáu cõi luân hồi và chuyển từ
cõi giới này sang cõi giới khác thông qua sự tái sinh. Hãy suy ngẫm về điều này
và con sẽ hiểu. Loài người có Phật tính. Liệu có thể nào một người tái sinh
thành một con chim, thì chú chim đó lại không thể có Phật tính hay sao?
33.
Quan điểm cho rằng, miễn là một người học hỏi giáo Pháp, người ấy
có thể đạt những năng lực thực
chứng.
Những ai theo quan điểm này
nghĩ rằng, miễn là họ học hỏi giáo Phật, chắc chắn họ sẽ ó được năng lực thực
chứng. Điều này là không thể. Một người phải dựa vào sự tu tập để có được khả
năng thực chứng. Đương nhiên, sẽ là tốt nhất nếu dựa trên Pháp Giải thoát đại
thủ ấn tối thượng. Đây là Phật pháp cao nhất. Vào thời điểm nhận được một quán
đảnh “trạng thái hành trì” nội mật theo nghĩa linh thánh, một người có thể phát
tâm tu tập đúng đắn, bắt đầu hành trì đúng đắn và thâm nhập Phật pháp đích thực.
Do đó, người đó có thể kết hợp phát tâm, hành trì và nguyện lực của họ cùng với
giáo pháp linh thánh. Đó là giáo pháp duy nhất mà nhờ đó, người đó có thể thực
chứng năng lực linh thánh ngay lập tức. Tuy nhiên, để nhận được quán đảnh “trạng
thái hành trì” này, người đó đầu tiên phải học tốt và hành các pháp tu sơ khởi
và chính yếu của Pháp Giải thoát đại thủ ấn tối thượng, điều tuyệt đối không thể
thiếu trên con đường tu tập.
34.
Quan điểm cho rằng, việc không sửa chữa lỗi lầm ngay là chấp nhận
được.
Khi người theo quan điểm này
nhận ra rằng họ vừa tạo ra một lỗi lầm, họ không sửa chữa ngay lập tức. Họ thực
hiện điều đó sau một thời gian, có thể sau nửa tiếng hoặc chỉ sau mười phút. Mọi
hành vi như vậy đều không tốt. Lỗi lầm cần được sửa chữa ngay lập tức. Sửa chữa
lỗi lầm ngay lập tức chính là làm theo quan điểm đúng đắn.
35.
Quan điểm cho rằng, một người làm những việc tốt và bố thí cho những người khác
chắc chắn phải là một vị cao tăng hoặc một
bậc vĩ nhân đạo hạnh.
Khi những người theo quan điểm
này nhìn thấy một ai đó vốn được coi như một bậc cao tăng hay vĩ nhân đạo hạnh
làm việc thiện và bố thí hào phóng cho người khác, họ nghĩ rằng bởi vì người đó
thật tốt bụng và thích giúp đỡ người khác, như vậy, chắc chắn đó là một bậc cao
tăng hoặc vĩ nhân đạo hạnh và chắc chắn là một bậc thánh nhân. Tuy nhiên, họ lại
không quan tâm đến việc liệu người đó có hiểu kinh điển không, liệu người đó có
theo những quan điểm xấu ác hay sai lầm không, hoặc liệu người đó có sở hữu pháp
linh thánh không. Nghĩ như vậy là sai lầm.
36.
Quan điểm cho rằng, việc thay đổi một giáo pháp, ấn quyết hoặc mật chú là chấp
nhận được.
Nhiều người thường tạo ra
những ấn quyết hoặc thần chú sai nhằm lừa dối chúng sinh. Con phải hiểu rằng,
mỗi ấn quyết và thần chú tương ứng với một vị bổn tôn hộ pháp cụ thể. Hơn nữa,
một ấn quyết phải được áp dụng kết hợp với thần chú tương ứng. Chỉ khi đó, một
ấn quyết hoặc thần chú mới thực sự hiệu quả. Sẽ không thể chấp nhận được nếu con
có suy nghĩ thay đổi một giáo lý, một ấn quyết hoặc một thần chú đã được viết
trong giáo lý. Cũng sẽ không thể chấp nhận được nếu con nhìn thấy người khác làm
điều này mà không phản đối. Tất cả điều này, kể cả việc thay đổi bài pháp thoại
đã được ghi âm của ta về Phật pháp, đều phản ánh một quan điểm sai lầm nghiêm
trọng.
37.
Quan điểm cho rằng, Ngũ Minh có thể đạt được bởi những bậc không phải là Bồ
Tát.
Kinh điển nói rằng, các bậc Bồ
Tát đạt được Ngũ Minh. Tuy nhiên, một
số người lại nói rằng, Bồ Tát không cần thiết phải thông tuệ Ngũ Minh. Một câu hỏi phải được đặt ra cho những người này
về sự thật. Liệu những bậc Bồ Tát lại thấp kém hơn người bình thường? Tất cả các
đại Bồ Tát đều phải thông thạo Ngũ Minh. Nếu trí tuệ của một vị được cho là Bồ Tát thậm
chí không thể vượt qua một người bình thường, người đó chắc chắn là một vị Bồ
Tát giả mạo, hoặc ít nhất, người đó cũng không phải là một vị đại Bồ Tát. Hãy
suy ngẫm về điều này và con sẽ hiểu. Làm sao một người có một năng lực trí tuệ
thấp hơn người bình thường lại có thể chứng minh được rằng sự kết hợp về thân
khẩu ý của người đó lại là của một vị Bồ Tát sở hữu năng lực trí tuệ linh
thánh?
38.
Quan điểm cho rằng, một bậc đạo sư yêu cầu và lấy tài sản của học trò là chấp
nhận được.
Một bậc thầy hoặc một bậc thầy
gốc ủng hộ quan điểm này nghĩ rằng người đó có thể yêu cầu học trò mình đưa tiền
khi ông ta cần. Người đó nghĩ rằng, ông ta có thể yêu cầu học trò mình đưa cho
ông ta những tài sản của riêng họ khi ông ta cần. Điều này là sai lầm. Khi một
bậc thầy hành động như vậy, người đó đang theo quan điểm xấu ác. Người học trò
nào cho rằng điều này có thể chấp nhận được, người đó cũng đang theo quan điểm
sai lầm.
39.
Quan điểm cho rằng, việc sử dụng sự kế vị vị trí lãnh đạo dòng truyền thừa như
là phương tiện để có được sự cúng dường từ các đệ tử là chấp nhận
được.
Một số người tự xưng là những
người thừa kế vị vị trí lãnh đạo của một dòng phái nào đó. Ta lấy ví dụ, một
người có thể tự xưng là kế vị vị trí lãnh đạo đời thứ nhất, thứ hai hay thứ ba
của dòng Kagyu. Một người có thể tự xưng là người
kế vị vị trí lãnh đạo một đời nào đó của dòng truyền thừa Nyingma hoặc Sakya. Một người có thể tự
xưng là kế vị vị trí lãnh đạo dòng truyền thừa Geluk, truyền thống Phật giáo Hiển thừa
hay truyền thống Phật giáo nguyên thuỷ. Họ sử dụng sự kế vị vị trí lãnh đạo dòng
truyền thừa của họ như là vốn liếng để quảng bá bản thân, là công cụ để tư lợi
và lấy đi của cải và tài sản của người khác, và là phương tiện để yêu cầu những
đệ tử cúng dường. Tất cả những việc làm trên đều sai trái. Chúng không phải là
hành vi của chư Phật hay Bồ Tát. Những kẻ nêu trên cũng không phải là những bậc
thầy đạo hạnh vĩ đại. Họ chỉ là những kẻ giả mạo đội lốt những bậc thầy linh
thánh mà thôi.
40.
Quan điểm cho rằng, việc ca tụng, tán dương bản thân như là một bậc đạo hạnh,
thánh nhân hay tấm gương cho người khác là chấp nhận được.
Người theo quan điểm này ca
ngợi, tán dương bản thân như là bậc thánh nhân đạo hạnh. Đi theo quan điểm này
bao gồm việc con sẽ hành động giống như vậy hoặc ủng hộ người khác hành động
giống vậy. Bất kỳ ai tự tán dương bản thân như một bậc thánh nhân đạo hạnh hay
là hình mẫu cho người khác noi theo chắc chắn là một người bình thường đang hành
động sai trái.
41.
Quan điểm cho rằng, con cái không cần phải hướng dẫn tử tế để cha mẹ có quan
điểm đúng đắn.
Đôi lúc những người con gặp
phải tình huống cha mẹ họ không muốn học hỏi đạo Phật. Vì họ không biết phải làm
gì, họ đơn giản là từ bỏ và để cha mẹ làm những gì cha mẹ muốn làm. Điều này là
sai lầm. Con cái nên làm tất cả những gì có thể để chứng tỏ lòng hiếu thảo với
cha mẹ, để cha mẹ được hạnh phúc, khai trí cho họ và hướng dẫn họ một cách tử
tế. Con cái nên giúp cha mẹ dần dần chấp nhận những quan điểm đúng đắn và bước
vào con đường Phật pháp. Con cái phải hướng dẫn cha mẹ mình một cách tử tế và
kiên trì chấp nhận những quan điểm đúng đắn. Họ nên hướng cha mẹ tới hạnh phúc.
Họ không thể chỉ buông xuôi và từ bỏ.
42.
Quan điểm cho rằng, việc gọi một mạn-đà-la không được tạo hình từ những hạt cát
màu bằng năng lực điều khiển từ xa bởi một bậc đạo sư xuyên qua một tảng đá chắn
ngang là một mạn-đà-la linh thánh.
Nhiều người thực hành Mật tông Tây Tạng cho
rằng, mạn-đà-la mà họ dùng để thực hành Pháp là mạn-đà-la linh thánh, giống như
mạn đà la linh thánh của Kalachakra, mạn-đà-la linh thánh của Vajrakila, của
Guhyasamaja, của Yamantaka, của Chakrasamvara, của Ekajati hay của Samsara-Yama.
Điều này như thể là bất kỳ mạn-đà-la nào cũng đều là mạn-đà-la linh thánh. Cát
kim cương họ dùng để làm mạn-đà-la được bán để lấy tiền. Tình trạng này cực kỳ
hỗn độn và bừa bãi. Hãy nhớ rằng, chỉ có duy nhất một loại mạn-đà-la linh thánh.
Đây là nhận thức về Pháp rất quan trọng, chỉ xếp sau nhận thức về cam lồ được
ban bởi chư Phật. Chỉ khi mạn-đà-la được thành hình bởi năng lực điều khiển từ
xa của một bậc đạo sư xuyên qua một tảng đá chắn ngang mới có thể được coi là
một mạn-đà-la linh thánh đích thực. Bất kỳ mạn-đà-la nào không thành hình bằng
sức mạnh điều khiển từ xa của một vị đạo sư xuyên qua một tảng đá phẳng chắn
ngang đều không phải là mạn-đà-la linh thánh.
43.
Quan điểm cho rằng, năng lực hộ trì của những vị sơn thần thổ địa lớn hơn sức
mạnh hộ trì của các bậc đại Bồ Tát.
Những người đi theo quan điểm
này nghĩ rằng, thậm chí dù cho một vị là bậc đại Bồ Tát, vị đó cũng không thể có
được những năng lực lớn lao và không thể bảo vệ và gia hộ cho chúng sinh. Họ
nghĩ rằng, chỉ có những vị sơn thần thổ địa mới có thể bảo vệ được chúng sinh.
Họ nghĩ rằng, chúng sinh được những vị long thần thổ địa bảo vệ hiệu quả hơn.
Bất kỳ suy nghĩ nào như vậy đều là một quan điểm sai lầm. Các bậc đại Bồ Tát
thực sự vô cùng vĩ đại! Năng lực của những vị thổ địa không thể sánh được với
năng lực của các bậc đại Bồ Tát. Những vị sơn thần thổ địa không thể bảo vệ các
bậc Bồ Tát; đúng hơn là các bậc Bồ Tát bảo vệ những vị sơn thần thổ địa.
44.
Quan điểm cho rằng, viên thuốc được làm từ các thảo dược thông thường là cam lồ
đích thực.
Có những người pha trộn các thảo dược thông thường làm
thành những viên thuốc. Sau đó, họ gia trì cho những viên thuốc đó bằng cách
tụng kinh, trì chú và thực hành pháp. Họ gọi những viên thuốc đó là cam lồ đích
thực. Đây cũng là một quan điểm sai lầm.
45.
Quan điểm cho rằng ánh sáng mà con nhìn thấy khi nhắm mắt là sự thị hiện của
năng lực Phật pháp
Những người theo quan điểm này
nghĩ rằng, ánh sáng mà họ thấy khi nhắm mắt là sự thị hiện Phật pháp hoặc năng
lực của Phật. Con phải nhớ điều này. Ánh sáng mà con nhìn thấy khi nhắm mắt
không phải là sự thị hiện sức mạnh của Phật pháp. Hiện tượng ảo ảnh không phải
là sự thị hiện năng lực của Phật pháp. Năng lực của Phật pháp thị hiện ở những
điều thực tế. Ta lấy ví dụ, những gì mà nhiều người trong số các con nhìn thấy
tận mắt và trải nghiệm trong ngày hôm nay là thực tế, như năng lực thực chứng
của Gar Tongstan, pháp tập trung nội nhiệt của Kaichu, và trạng thái thực chứng
của Miaokong và Akou Lamo. Đương nhiên là có nhiều điều có thực khác mà các con
chưa nhìn thấy. Tóm lại, ánh sáng không có thực được nhìn thấy khi nhắm mắt chỉ
là hiện tượng ảo ảnh. Thậm chí nếu con nhìn thấy với mắt mở, nó vẫn cần được xác
định rõ ràng liệu ánh sáng đó là từ sức mạnh đích thực của chư Phật hay từ điện
phát ra.
46.
Quan điểm về việc tin vào những câu chuyện kể về những chiến công vinh quang và
những lý thuyết rỗng tuếch về Pháp của một người nào đó mà không kiểm tra những
năng lực kim cương của người đó.
Nhiều người thích nói về những chiến công vinh quang của
họ. Họ thường nói về những điều như “Hãy nhìn vào luồng Phật quang xuất hiện khi
ta thực hành Pháp ở đây”, hay “Hãy nhìn vào sương mù xuất hiện khắp nơi khi ta
thực hành Pháp ở đây”, hoặc “hãy nhìn những vị sơn thần bắt đầu nằm phủ phục khi
ta thực hành pháp ở đây”, hoặc “Con có thể thấy tất cả những chiếc lá rơi từ
trên cây này khi ta thực hành Pháp ở đây”, hay “Con có thể thấy cam lồ rơi xuống
từ cây này khi ta thực hành Pháp ở đây”. Trên thực tế, chỉ có hạt mưa rơi xuống.
Họ có thể nói về cầu vồng trên bầu trời hoặc những điều tương tự khác. Những
hiện tượng như vậy chỉ là tưởng tượng. Những cuộc nói chuyện trên là không chân
thực, sai lầm và là một phần của quan điểm sai lầm này. Những kẻ trên nói về
những chiến công có vẻ vinh quang của họ và nói những giáo lý rỗng tuếch về giáo
pháp. Họ nói về những giáo lý rỗng tuếch này một cách thuyết phục, logic và ấn
tượng. Thính chúng, những ai không phải là chuyên gia, sẽ không hiểu một chút
nào. Họ không có khả năng phân biệt đúng sai, thậm chí ngay cả khi có rất nhiều
lỗi sai trong toàn bộ bài pháp thoại. Mục tiêu của những vị đạo sư hành động như
trên là thu nhận tiền cúng dường.
Tuy nhiên, những phật tử cúng dường không biết rằng, họ
nên kiểm tra năng lực kim cương của những vị đạo sư này. Nếu một vị đạo sư như
vậy muốn nhận phẩm vật cúng dường của con, đầu tiên, con phải kiểm tra năng lực
kim cương của người đó! Nếu người đó không đáp ứng những phẩm chất của một bậc
đạo sư, làm sao họ có đủ điều kiện nhận phẩm vật cúng dường? Mức kiểm tra cao
nhất về năng lực kim cương là tạo thành một mạn-đà-la từ xa xuyên qua một tảng
đá chắn ngang. Tiếp đến là ba loại năng lực kim cương. Ta cảm thấy xấu hổ khi ta
không có được những năng lực này. Do đó, ta không nhận phẩm vật cúng dường.
Trong giáo pháp Giải thoát Đại thủ ấn Tối thượng, con sẽ biết toàn bộ sáu bước
kiểm tra để xác nhận phẩm chất của một bậc thầy. Những bước kiểm tra này là bắt
buộc và không thể thay đổi. Bây giờ ta sẽ không giảng gì thêm về chủ đề này.
47.
Quan điểm cho rằng, con không thể thành tựu trong Pháp trừ phi con nhận được
quán đảnh, thậm chí cho dù con học hỏi giáo Pháp và tu dưỡng bản thân.
Người nào đi theo quan điểm này nghĩ rằng, bởi vì người đó
chưa bao giờ nhận được quán đảnh, anh ta chắc chắn không thể thành tựu trong
Pháp thậm chí dù cho anh ta học hỏi giáo Pháp và tu dưỡng bản thân. Đây là một
sự hiểu lầm. Thậm chí cho dù con không nhận được quán đảnh, con vẫn có thể thành
tựu và đạt giải thoát miễn là con quy y, học Phật pháp đích thực và tu dưỡng bản
thân phù hợp với Pháp. Chỉ có thể nói rằng, sẽ là tốt nhất nếu con có được sự
chỉ dẫn của một vị đạo sư tốt. Điều này giúp con giảm bớt khả năng rơi vào các
quan điểm xấu ác và sai lầm. Tuy nhiên, một sự quán đảnh không tuyệt đối bắt
buộc. Tu dưỡng bản thân và học Pháp mới thực sự quan trọng.
Học Pháp và tu dưỡng bản thân chính là chìa khóa. Nhận
được quán đảnh không nhất thiết là yếu tố quan trọng nhất. Tất nhiên, một số
pháp chỉ có thể được trao truyền thông qua sự quán đảnh, đặc biệt là pháp “trạng
thái hành trì”. Nếu con không nhận được quán đảnh, điều này không có nghĩa là
con không thể thành tựu. Miễn là con tu dưỡng bản thân phù hợp với Pháp, con có
thể thành tựu trong Pháp. Giải thoát Đại thủ ấn Tối thượng là giáo pháp và là
phương pháp tu dưỡng tốt nhất.
48.
Việc nhìn nhận một ai đó như là một bậc đạo sư có thể quán đảnh Kim-cương Bồ-đề dù người đó không đưa ra những tiên đoán cần thiết trong buổi
lễ quán đảnh đó.
Quán đảnh Bồ-đề Kim Cương là
một trong những quán đảnh cấp cao. Nhiều người nghĩ rằng một quán đảnh Kim-cương
Bồ-đề được coi là hoàn thành dựa vào sự tiến hành một buổi lễ quán đảnh ngắn mà
không có sự tiên đoán linh thánh. Trên thực tế, mặt quan trọng nhất của một buổi
lễ quán đảnh Kim-cương Bồ-đề chính là sự tiên đoán linh thánh. Như vậy, chỉ có
những vị đại sư mới có thể tiến hành những buổi quán đảnh như vậy. Những vị đạo
sư thông thường như những pháp vương không có khả năng làm những việc đó. Vào
thời điểm quán đảnh, 250 viên thuốc bồ-đề được đánh dấu bởi những đốm trắng và
250 viên thuốc kim-cương được đánh dấu bởi những đốm xanh được trộn với nhau.
Tất cả 500 viên thuốc này được đặt trong một chiếc thùng. Mỗi viên đều có kích
thước giống nhau. 500 người sẽ nhận được quán đảnh. Mỗi người lấy ra một viên từ
chiếc thùng. Không ai trong số họ biết mình lấy viên thuốc bồ-đề hay viên thuốc
kim-cương. Bởi vì chiếc thùng được bọc ngoài, và chấm màu trắng hay xanh nước
biển trên viên thuốc rất nhỏ, nhỏ gần bằng một đầu mút của sợi tóc nên không dễ
nhìn thấy. Hơn nữa, người đệ tử không được phép nhìn vào viên thuốc người đó đã
chọn.
Khi một người lấy ra một viên
thuốc bằng ngón tay, họ đang ở trong một chiếc lều tối và phải đưa viên thuốc
vào tuýp thuốc pháp của họ và dán tuýp thuốc lại ngay lập tức. Sau đó, họ rời
khỏi lều tối cùng với chiếc tuýp của mình. Bậc đại đạo sư, người tiến hành buổi
lễ quán đảnh Kim-cương Bồ-đề, phải gieo trồng hạt giống kim-cương bồ-đề cho mỗi
người nhận quán đảnh. Một khi hạt giống kim-cương bồ-đề được gieo, mối liên hệ
nghiệp này sẽ không bao giờ xấu đi. Thậm chí nếu người nhận quán đảnh tạo đủ
loại nghiệp xấu khiến người đó xuống địa ngục sau đó, sau khi trả xong nghiệp
trong cõi địa ngục, người đó vẫn có thể quay lại và tái kết nối với với Pháp
thông qua mối liên hệ nghiệp này. Làm thế nào một người biết liệu hạt giống
kim-cương-bồ-đề này được gieo trồng thành công hay không? Một người không thể
đơn giản chỉ tin vào lời nói của bậc đạo sư rằng, hạt giống đó đã được gieo
trồng một cách thành công. Một đại sư đích thực thì rất giản dị và sẽ không nói
như thế này “À, tốt. Hôm nay, ta đã gieo trồng thành công những hạt giống
kim-cương-bồ-đề bất hoại trong tất cả các con. Lễ quán đảnh giờ đây có thể coi
là hoàn tất. Hãy nhanh chóng cúng dường cho ta”.
Sẽ không có chuyện như vậy.
Một vị đại sư đích thực sẽ nói thế này. “Hỡi các con, giờ đây, ta sẽ chứng minh
mối liên hệ nghiệp của các con. Các con sẽ có thể thấy liệu mối liên hệ nghiệp
của các con được gieo trồng hay chưa. Ta sẽ chia 500 người các con thành hai
nhóm. Những người thuộc nhóm bên này là những người đã lựa chọn viên thuốc
bồ-đề, những người thuộc nhóm bên kia là những người đã lựa chọn viên thuốc
kim-cương. Tuy nhiên, không được mở tuýp thuốc pháp của các con ra nhìn bây
giờ”. Những tuýp thuốc pháp này chứa một viên thuốc kim-cương, hoặc một viên
thuốc bồ-đề đã được dán kín toàn bộ. Mỗi tuýp được dán bởi người đệ tử sau khi
người đó chọn một viên thuốc và nhét vào trong tuýp. Vị đại đạo sư không phân bổ
những viên thuốc đến những người đệ tử của mình.
Khi mỗi người đệ tử đặt viên
thuốc vào tuýp, vị đại đạo sư phải đứng cách xa những học trò mình tối thiểu 30
mét (98 feet) hoặc thậm chí xa hơn 100 mét (328 feet). Sau khi mỗi người đệ tử
đặt một viên thuốc vào tuýp thuốc của mình, vị đại đạo sư sẽ thực hành pháp. Khi
đó, ngài sẽ xướng tên của từng người đệ tử và nói người đó ngồi ở bên nào, bên
phải hay bên trái. Ngài sẽ phân chia toàn bộ đệ tử của mình thành hai bên, mỗi
bên đều có 250 vị đệ tử. Sau đó Ngài sẽ công bố bên nào có toàn bộ viên thuốc
kim-cương, và bên nào có toàn bộ viên thuốc bồ-đề. Sau đó, Ngài sẽ ra lệnh cho
những người đệ tử của mình mở ống tuýp và nhìn vào viên thuốc trong đó.
Tất cả các đệ tử của Ngài khi
đó làm theo ngay lập tức. Thoạt nhìn, mọi viên thuốc đều màu đỏ, cùng kích thước
và hình dáng. Tuy nhiên, sau khi kiểm tra thận trọng những viên thuốc của mình,
những người đệ tử phát hiện ra rằng, toàn bộ những người đệ tử ở một bên đều nắm
giữ viên thuốc bồ-đề với chấm trắng ở trên. Những người ở phía còn lại nắm giữ
viên thuốc kim-cương với chấm xanh ở bên trên, giống như vị đại đạo sư đã tiên
đoán. Điều này được gọi là một tiên tri linh thánh. Do đó, hành giả sẽ theo quan
điểm sai lầm khi họ nhìn nhận một vị đạo sư là một bậc thầy vĩ đại của lễ quán
đảnh Kim-cương Bồ-đề nếu vị đạo sư đó không đưa ra được tiên đoán linh thánh khi
vị đó tiến hành lễ quán đảnh Kim-cương Bồ-đề. Vị đạo sư đó là một bậc thầy Quán
đảnh Kim-cương-Bồ-đề giả mạo và không sở hữu những phẩm chất của một bậc đạo sư
vĩ đại thực thụ.
49. Quan điểm cho rằng, thọ quy y và thọ giới là trạng thái
quy y.
Những ai theo quan điểm này nghĩ rằng, trạng thái quy y
xảy ra khi một người thọ quy y và thọ giới trong một buổi lễ. Điều này là sai
lầm. Có ba trạng thái quy y: trạng thái quy y giai đoạn hình thành, trạng thái
quy y giai đoạn hoàn thiện, và trạng thái quy y giai đoạn áp dụng không dính
mắc. Tại trạng thái quy y giai đoạn hình thành, một người nhìn thấy ngay lập tức
sự hiển hiện những linh ảnh chân thực tương ứng với trạng thái quy y này. Do đó,
quan điểm cho rằng, thọ giới chính là trạng thái quy y là một quan điểm sai lầm.
Quan điểm như vậy của bất cứ vị đạo sư hay đệ tử nào đều là quan điểm sai
lầm.
50. Quan điểm cho rằng, một hiện tượng không chân thực, huyễn
ảo là sự biểu hiện linh thánh.
Một số người thường dựng chuyện. Họ thường nói những câu
dạng như “Hôm qua, tôi thấy một luồng ánh sáng đỏ trong phòng của tôi”, hoặc
“hôm qua, que nhang mà tôi cắm đượm lửa rất lâu mà không cháy hết, trong khi các
que khác đã cháy hết hoàn toàn”, hay “hôm qua, màu nước mà tôi cúng dường chuyển
thành màu của hoa sen”, hay “hôm qua khi tôi rời khỏi nhà, một con quạ đậu trên
đỉnh đầu tôi”, hoặc “một đám mây nhiều màu chuyển thành hình dáng của đức Phật
hoặc Bồ tát”, hoặc “có cầu vồng ở trên ngôi chùa, chắc chắn là có pháp thánh
linh ở đó”, hoặc “một bầy quạ đậu ở mái nhà của tôi khi tôi đang thực hành Pháp,
điều này cho thấy tôi đã thực hành Pháp Bầu trời vĩ đại tối đen thành công”,
hoặc “Trong mơ, chư Phật đến và ban phước cho tôi bằng cách chạm vào đầu tôi”,
và vân vân... Tất cả những điều trên là vô nghĩa, chỉ là tưởng tượng.
Hãy nhớ rằng, tất cả đó đều là tưởng tượng. Một số người
gọi quầng ánh sáng xung quanh mặt trăng là Phật quang. Trên thực tế, đó chỉ là
hiện tượng huyễn ảo. Có thể, nó được tạo ra bởi mưa hay sương mù. Tất nhiên, đôi
lúc các hiện tượng linh thánh xuất hiện theo duyên nghiệp nhất định, nhưng chúng
ta không nên coi chúng là những điều đáng ngạc nhiên. Vậy hiện tượng nào là hiện
tượng linh thánh? Những điều dưới đây là một số ví dụ. Trong pháp hội tại Hua
Zang Si để vinh danh cuốn sách nhỏ về ta, ánh Phật quang đích thực đã xuất hiện
trên bầu trời. Thêm vào đó, tiếng sấm vang rền trong bầu trời trong suốt, không
một gợn mây, và cam lồ liên tiếp rơi xuống từ cây mộc lan. Những hiện tượng đó
không phải là huyễn ảo. Chúng là chân thực. Tại Pháp hội tắm tượng Phật, thiên
long đã cười thật hoan hỉ. Sấm nổ trong bầu trời trong xanh khi mặt trời chiếu
sáng rực rỡ từ phía trên. Một bể chứa một vài tấn nước đã được nâng bởi hai
người. Những điều này không phải là tưởng tượng. Chúng đều là sự kiện thực
tế.
Hôm nay, chúng ta đã chứng kiến Pháp vương Gar Tongstan, một trong ba bậc thánh
nhân đạo hạnh, đã nâng một pháp vật với ý thức ngoài thân thể của mình. Đó là sự
kiện chân thực. Một viên thuốc kim cương nhảy múa trong lòng bàn tay của Kaichu
Rinpoche và Akou Lamo Rinpoche và biến mất không dấu vết. Họ thể hiện năng lực
của họ bằng pháp tập trung nội nhiệt và/hoặc thiền Thế thân Kim Cương. Những
điều này không phải là tưởng tượng. Do đó, không nên tin vào những chuyện kể vô
nghĩa và dối trá về hoa sen, hình ảnh chư Phật và chư Bồ tát, hoặc cây đinh ba
Phật giáo xuất hiện trong lễ hỏa táng. Tất cả những điều này là ảo tưởng. Tuy
nhiên, xá lợi đích thực hay vật rắn được tìm thấy trong tro xương sau nghi lễ
hỏa táng thì không phải là tưởng tượng.
51. Quan điểm cho rằng, Phật giáo Mật thừa là Pháp cao cấp
nhất.
Những người có quan điểm này
cho rằng giáo pháp của Phật giáo Mật thừa là cao hơn cả. Đúng là những lời dạy
của Phật giáo Mật thừa ở một cấp độ sâu hơn những lời dạy của Phật giáo hiển
thừa. Điều này là do các hành giả của Mật thừa tham gia vào các cuộc tranh luận
về các kinh điển và cũng là do sự thực hành cụ thể của họ khi tu tập. Tuy nhiên,
Phật giáo Mật thừa không nhất thiết phải là giáo pháp cao nhất khi nói đến thành
tựu đạt được trong Pháp. Điều này chủ yếu phụ thuộc vào việc liệu một pháp cụ
thể có tương ứng với người nhận được nó hay không.
52. Quan điểm cho rằng, Phật giáo Hiển thừa là Pháp thấp cấp nhất.
Những người có quan điểm này
cho rằng giáo pháp của Phật giáo Hiển thừa là thấp nhất và là pháp yếu nhất và
đó không phải là pháp tốt như pháp của Phật giáo Mật thừa. Bất kỳ suy nghĩ nào
như vậy là đang rơi vào quan điểm sai lầm. Mỗi một trong số 84.000 pháp môn phù
hợp với duyên nghiệp của người nhận được nó. Miễn đó là pháp được dạy bởi Ðức
Phật chứ không phải là lời dạy của ma quỷ, thì đó là pháp tốt.
53. Quan điểm cho rằng, một người ốm không cần uống thuốc.
Những người có quan điểm này
cho rằng, "Chúng ta, những người học Phật giáo không nên dùng thuốc khi chúng ta
bị ốm. Bởi vì chúng ta dựa vào chư Phật và chư Bồ Tát và sự gia trì của Phật
pháp để chữa bệnh". Điều này là không đúng và đây là một quan điểm sai lầm.
54. Quan điểm cho rằng, một người có thể vãng sanh cõi Tịnh độ chỉ khi người đó tụng danh hiệu của đức Phật A Di Đà.
Những người có quan điểm này cho rằng, vì sự kết
nối của đức Phật A Di Đà với cõi Tịnh Độ, nên một người sẽ vãng sanh cõi Tịnh độ
chỉ khi họ thực hành giáo pháp của Tịnh độ tông bằng cách trì tụng danh hiệu của
đức Phật A Di Đà. Trên thực tế, đức Phật A Di Đà là vị Phật cai quản Phật giáo
Kim Cương Thừa. Nhiều người không hiểu
điều này. Hơn nữa, Phật A Di Đà là một vị Phật của tất cả các dòng phái Phật
giáo. Phật A Di Đà không phải chỉ là vị Phật của một dòng phái riêng biệt nào.
Ngài là một vị Phật! Vì vậy, sẽ không đúng đắn khi cho rằng một người sẽ vãng
sanh cõi Tịnh độ chỉ khi họ tụng danh hiệu của Phật A Di Đà. Dù con thực hành
pháp gì, nếu con muốn vãng sanh cõi Tịnh độ, con sẽ vãng sanh cõi Cực lạc Tịnh
độ nếu sự thực hành pháp đó của con thành tựu.
55. Quan điểm cho rằng, chỉ hành giả Thiền tông mới có thể
hiểu được tâm họ và nhận ra bản tính nguyên thủy của họ
Nhiều người nghĩ rằng chỉ các
hành giả của Thiền tông mới có thể hiểu được tâm họ và nhận ra bản tính nguyên
thủy của họ. Họ nghĩ rằng không có con đường nào khác để thành tựu điều đó. Điều
này là không đúng. Các hành giả của bất kỳ tông phái nào cũng có thể hiểu được
tâm họ và nhận ra bản tính nguyên thủy của họ. Khi con đạt đến mức độ thực chứng
cần thiết thông qua sự thực hành, con sẽ hiểu tâm con và nhận ra bản tính nguyên
thủy của con. Sự giải thoát thực sự chỉ đạt được bằng việc đạt đến mức độ đó của
sự thực chứng.
56. Quan điểm cho rằng, việc
coi rằng khi đưa được một cọng rơm cát tường vào đỉnh đầu (một thành tựu của pháp Kalachakra) nghĩa là đỉnh đầu đã được khai mở mà không có bằng chứng
đích thực của sự thành tựu.
Đây là một nhận thức sai lầm mà các con thường mắc phải.
Mọi người thường tự nhận rằng đỉnh đầu họ đã được mở sau khi một cọng rơm cát
tường đã được đưa vào đỉnh đầu của họ.
Như ta đã nói nhiều lần, một cọng rơm cát tường còn cứng
hơn một ống tre. Bởi vậy, tình huống đó có thể dẫn tới hoặc không dẫn tới việc
khai mở đỉnh đầu. Đưa một cọng rơm cát tường vào đỉnh đầu một người chưa chắc đã
dẫn tới việc đỉnh đầu họ được khai mở.
Khi một sợi lông công được đưa vào, đỉnh đầu sẽ được khai
mở. Tuy nhiên, việc mở đỉnh đầu đó rất khác với việc mở đỉnh đầu diễn ra trong
pháp thiền Thân kim cương thay thế. Việc mở đỉnh đầu ở phần trước được làm bởi
phép phổ-oa. Trong mật thừa, có các phép phổ-oa Sáng tỏ, phổ-oa Quan Âm, phổ-oa
Văn Thù và vân vân. Tuy nhiên phép phổ-oa Sáng tỏ được coi là pháp cao nhất
trong Phật giáo mật thừa, pháp thiền Thân kim cương thay thế thực sự còn cao hơn
rất nhiều. Hai pháp mở đỉnh đầu này là khác nhau.
Sau khi một người được mở đỉnh đầu bởi pháp phổ oa, thần
thức người đó không thể quay lại vào sau khi nó đã ra khỏi thân thể. Tuy nhiên,
khi đỉnh đầu được mở nhờ pháp thiền Thân kim cương thay thế, thần thức của họ có
thể quay lại thân thể sau khi đã rời đi. Tuy nhiên, pháp thiền Thân kim cương
thay thế, còn được gọi là pháp thiền Đỉnh đầu rỗng không, đòi hỏi phải có nền
tảng là thực hành Kalachakra.
Chỉ khi một người thực hành Kalachakra đã đạt đến một mức
độ nhất định họ mới có thể thực hành pháp thiền Thân kim cương thay thế, là pháp
tuyệt vời, cao tột và bí mật nhất của Kalachakra. Sau khi một người thực hành
thành công pháp thiền Thân kim cương thay thế, một lỗ hổng lớn được mở ra trên
da đầu, xương sọ, màng não và não. Thần thức của họ sau đó có thể đi ra và đi
vào thân thể. Nếu không thế, thực hành của họ sẽ không thành công. Một vị
rinpoche đã nói "Con đã thực hành pháp Kalachakra. Tại sao con chưa nghe về pháp
thiền Thân kim cương thay thế?".
Câu trả lời rất đơn giản. Ta nói với vị ấy "Sự chứng ngộ
mà con có được từ thực hành chưa đạt đến mức để thực hành pháp thiền Thân kim
cương thay thế, một pháp tối mật. Vì vậy con không thể nhận được giáo pháp về
pháp thiền Thân kim cương thay thế. Chỉ khi nào con đạt đến trạng thái thành tựu
đáng kể của sự thực chứng thông qua thực hành Kalachakra con mới có thể học pháp
này. Nếu chưa đạt đến trạng thái đấy, việc nhận quán đảnh "trạng thái thực hành"
còn chưa đáng để bàn đến.
Đó là lý do tại sao con chưa nghe đến pháp tối mật này. Chính xác là vì vậy, da đầu, hộp sọ và màng não của con đều đang đóng. Nếu con không tin vào điều đó, hãy đi quét MRI đầu của con. Con sẽ thấy bằng chính mắt mình rằng đỉnh đầu con vẫn bị đóng".
Sự thực chứng nào cao hơn, giữa đỉnh đầu đóng và đỉnh đâu
mở? Ta nghĩ các con sẽ biết câu trả lời mà không cần ta nói cho biết. Tuy nhiên,
ta phải nói rằng Kalachakra là một pháp ở mức độ cao nhất của Phật giáo mật
thừa. Con không nhất thiết phải thực chứng trạng thái thiền mà thần thức có thể
rời khỏi thân thể và nhận ra rằng mọi thứ đều trống rỗng.
57. Quan điểm cho rằng, việc
không cúng dường đạo sư của con sau khi con đạt chứng ngộ nhờ việc thọ nhận Pháp
của Ngài là chấp nhận được.
Một số người nhận được sự truyền pháp và quán đảnh từ vị
thầy gốc của họ. Họ thậm chí đạt được chứng ngộ và tăng trưởng tích lũy công đức
và trí tuệ thông qua thực hành pháp đó. Tuy nhiên, họ không suy nghĩ về sự cần
thiết phải biết ơn vị thầy của họ. Họ hành động như thể họ không nhận được bất
cứ điều gì. Nó dường như thể là đối với họ vị thầy, chư Phật, chư Bồ Tát đều nợ
họ một cái gì đó và tất nhiên phải truyền pháp và quán đảnh cho họ.
Họ không hiểu rằng vị thầy gốc
của họ chính là cội nguồn giáo pháp hay hạt giống của sự giải thoát trong tương
lai của họ. Vị thầy gốc của họ là quan trọng nhất với họ vào lúc này. Họ phải
hiểu được sự cần thiết phải biết ơn và phải đền ơn sự tử tế mà họ đã nhận được
bằng cách cúng dường cho vị thầy của họ. Một người không nên coi lợi ích của
chính mình là quan trọng. Người ta phải coi Phật pháp là quan trọng. Bởi vì một
người trở nên thành tựu thông qua việc nhận được giáo pháp. Đây là một sự tử tế
mà vị thầy gốc ban cho các đệ tử của mình. Đây là một điểm rất quan trọng.
Ta không muốn tất cả các con
cúng dường cho ta. Ta đã công bố công khai rằng ta không chấp nhận sự cúng dường
nào. Tuy nhiên, theo những giáo lý và quy tắc của Phật pháp, đây là cách ta phải
giải thích chủ đề này. Sự giải thích của ta là ở phù hợp với Pháp. Ta phải cho
các con biết rõ ràng rằng con thực sự nên cúng dường ta. Vì ta truyền Phật pháp
cho các con, nên thật đúng đắn và chính xác khi ta chấp nhận sự cúng dường của
các con.
Nhưng tại sao ta không chấp
nhận sự cúng dường của các con? Đó là bởi vì ta biết điều kiện sống của các con.
Nói ngắn gọn, ta làm điều này để giảm chi phí của các con. Ta làm điều này vì
lòng từ bi và cảm thông đến các con. Vì vậy, ta đã phát nguyện không chấp nhận
sự cúng dường nào. Ta phục vụ và làm lợi ích cho các con vô điều kiện. Việc tăng
trưởng hạnh phúc của các con là sự cúng dường mà ta muốn.
58.
Việc nhìn nhận một người có năng lực Ngũ Minh tầm thường là một bậc linh thánh và có đức
hạnh.
Mặc dù một người có năng lực Ngũ Minh tầm thường, một số người vẫn nói rằng ông ta là
một bậc linh thánh và đức hạnh tuyệt vời bởi vì ông ta rất giỏi ở một vài khía
cạnh nhất định. Điều này là một sai lầm. Con phải hiểu rằng một bậc linh thánh
và đức hạnh tuyệt vời là một vị đại Bồ Tát. Chỉ có rất ít người như vậy trên
trái đất này. Hãy suy nghĩ về điều đó. Có thể nào một người với trí tuệ của một
vị đại Bồ Tát lại có năng lực Ngũ Minh tầm thường chăng? Có thể nào một người như vậy lại
kém hơn người bình thường? Một vị đại Bồ Tát có một trí tuệ vĩ đại. Năng lực Ngũ Minh của thế gian là một năng lực
không đáng kể gì đối với một vị Bồ Tát. Vì vậy, coi một người có năng lực Ngũ Minh tầm thường là một vị đại Bồ Tát
hoặc một bậc linh thánh và đức hạnh lớn lao là một quan điểm sai lầm.
59.
Quan điểm cho rằng, một người với những tư tưởng và hành vi của một người không
thiết sống nữa là một cao tăng xuất sắc.
Một số tu sĩ nổi tiếng có địa
vị rất cao và có danh tiếng được biết đến một cách rộng rãi. Tuy nhiên, có lẽ họ
đã có ý nghĩ tự tử hay vì quá buồn mà họ không muốn sống nữa. Đây là những suy
nghĩ hoặc hành vi của một icchantika (người không thiết sống). Phật A Di Đà sẽ
không đưa đến Tây phương cực lạc một người với những suy nghĩ hoặc hành vi của
một icchantika như vậy. Làm thế nào một người như vậy lại có thể là một cao
tăng? Cho dù địa vị hay uy tín của ông ta có như thế nào, ông ta dứt khoát không
phải là một cao tăng. Điêu này vi phạm nghiêm trọng của những lời dạy của Đức
Phật.
60. Quan điểm cho rằng, một người đã hiểu tâm họ và nhận ra
bản tánh tự nhiên của họ lại không kính trọng hình ảnh của chư Phật và chư Bồ
Tát.
Những người có quan điểm này
cho rằng, "Tôi đã hiểu tâm tôi và nhận ra bản tính nguyên thủy của tôi. Tôi đã
thâm nhập vào sự thật và hiểu được sự rỗng không của tứ đại. Tôi đã thâm nhập
vào sự thật rằng tất cả các pháp có điều kiện giống như một giấc mơ, ảo ảnh, bọt
nước và hình bóng, giống như sương sớm và tia chớp. Và tại sao, sau đó, bức
tượng đất sét của một vị Bồ Tát lại xứng đáng được ca tụng như vậy?" Một người
có quan điểm như vậy thậm chí không tôn kính một bức tượng khi vào một ngôi đền.
Điều này không đúng.
Một người phải cúng dường
trước các bức tranh và tượng của chư Phật và chư Bồ Tát. Các con phải tôn thờ
những hình ảnh của chư Phật, chẳng hạn như bằng cách lễ lạy, hoặc quỳ xuống, nằm
rạp. Cho dù con có hiểu tâm con và nhận ra bản tính nguyên thủy của con nhiều
thế nào đi nữa, con vẫn phải thực hiện cúng dường và thể hiện sự tôn trọng những
hình ảnh này. Nếu con không tôn trọng các hình thức thế gian này, con sẽ rơi vào
suy nghĩ sa đọa của ma quỷ. Đây là một quan điểm sai lầm rất trầm trọng và có
thể xếp vào hàng những quan điểm xấu ác.
61. Quan điểm cho rằng, một vị đại Bồ Tát thì không mắc
bệnh.
Những người có quan điểm này
nghĩ rằng những bậc đại Bồ Tát tối cao thì không bị mắc bệnh. Nhưng đại Bồ Tát
cũng bị bệnh. Ví dụ như thiền sư Huang Bo là một vị đại Bồ tát. Rất nhiều vị đại
Bồ tát bị mắc bệnh. Tổ sư Milarepa bị ngộ độc, trong khi Ngài là
một vị đại Bồ tát. Đại Bồ tát cũng có thể mắc bệnh, giống như những người khác.
Hơn thế nữa, đôi khi họ còn nhiễm bệnh vì lợi ích của chúng sinh. Giống trường
hợp của Trưởng giả Duy Ma Cật. Chừng nào bệnh của chúng sinh còn thì bệnh của
ngài Duy Ma Cật sẽ không thể lành. Trước đây ta hiếm khi mắc bệnh, nhưng bây giờ
ta bị bệnh rất nặng. Ta không có năng lực để chữa căn bệnh nghiêm trọng như vậy.
Ta cũng không tài giỏi như Gar Tongstan hay Miaokong có khả năng thực hành pháp
Thiền Thế Thân Kim Cương và ngay lập tức tách rời ý thức của họ khỏi bất kỳ bệnh
tật nào. Ta không tài giỏi như Kaichu Rinpoche, có khả năng thực hành pháp tập
trung nội nhiệt và trong một khóa ngồi trừ bỏ tất cả các bệnh trong thân vật lý.
Đó là lý do tại sao ta nói ta không tài giỏi như họ. Ta không định nói nhiều hơn
ở đây. Ta hy vọng rằng tất cả chúng sinh không mắc bệnh. Ta hy vọng rằng mọi
điều trong cuộc sống của họ đem đến cho họ hạnh phúc, và họ trở nên thành tựu
thông qua sự thực hành nghiêm chỉnh. Chỉ đơn giản là như vậy.
62.
Quan điểm cho rằng, một người đệ tử ngồi cao hơn bậc đạo sư tôn quý của anh ta
là chấp nhận được.
Một vài đệ tử ngồi cao hơn
bậc đạo sư gốc của họ mà họ không hề biết hay lưu tâm. Như thế, họ đã mắc vào
quan điểm sai lầm này. Những người khác thấy điều này nhưng không nhắc nhở một
đệ tử như vậy cũng sẽ mắc phải một nghiệp xấu. Phước đức và trí huệ của họ sẽ
không phát triển.
63.
Quan điểm cho rằng, đặt một cuốn sách về đạo Phật và ảnh của chư Phật ở vị trí
thấp hơn vị trí của một bậc cao tăng hoặc bậc có đạo hạnh lớn là chấp nhận
được
Những người với quan điểm này
đặt một cuốn sách về đạo Phật và ảnh của chư Phật ở vị trí thấp hơn vị trí của
một bậc cao tăng hoặc bậc có đạo hạnh lớn. Cho dù bậc cao tăng hoặc bậc có đạo
hạnh lớn như thế nào, kinh sách Phật giáo và ảnh của chư Phật phải được đặt cao
hơn chỗ ngồi của vị đó. Đây là một yêu cầu. Bất kỳ ai không làm theo tức là mắc
phải quan điểm sai lầm này. Tất cả Phật pháp mà người đó thực hành sẽ vô tác
dụng giống như một ảo ảnh hay hình bóng.
64. Quan điểm cho rằng,
một bậc thánh nhân đạo hạnh không cần thiết phải kính trọng và cúng dường cho
những vị thần địa phương và thổ địa.
Có những người thực sự có đạo
hạnh linh thánh mà không tỏ ra kính trọng hay cúng dường những vị thần địa
phương và thổ địa. Họ xem thường những vị thần này, nghĩ rằng các vị thần thật
nhỏ bé và tầm thường. Tâm lý này phản ánh một quan điểm sai lầm. Tại sao? Các vị
thần địa phương và các vị thổ địa nhiều khi tốt đẹp hơn và tử tế hơn một số
chúng sinh. Những vị thần này cũng là những chúng sinh. Trách nhiệm của chúng ta
là làm lợi ích cho họ. Họ đã từng là cha mẹ của chúng ta trong những kiếp trước
đây của chúng ta trong sáu cõi. Vì vậy chúng ta cũng phải cúng dường cho họ. Hơn
nữa, chúng ta phải rất chân thành bày tỏ sự kính trọng và cúng dường cho họ.
65.
Quan điểm cho rằng, những bậc là hoá thân của một vị Phật hoặc Bồ Tát thì không
cần tôn kính hình ảnh của những bậc thánh nhân khi đi vào chùa.
Cho dù là hoá thân của một vị
Phật hoặc Bồ tát, một người phải tôn kính những hình ảnh của thánh nhân sau khi
vào chùa. Đây là một yêu cầu. Ta thực sự được công nhận là Kim Cương Trì III.
Trên thực tế, ta không được đề cao hơn bởi việc được công nhận cũng không bị
đánh giá thấp đi bởi việc không được công nhận. Điểm quan trọng là sự thực chứng
mới là quyết định. Tuy thế, ta cảm thấy rất bình thường. Ta cũng chú trọng tới
nghi lễ của sự tôn kính hình ảnh của các thánh nhân. Một ngày, ta đã đi đến chùa
Hua Zang Si. Ta đã bắt đầu quỳ lạy trước những bức tượng của thánh nhân ngay sau
khi ta bước vào cánh cửa và tiếp tục làm như vậy cho đến khi ta đi tới chính
điện. Một vài người thậm chí nói, “Thế nào mà Đức Dorje Chang III lại khấu
đầu trước những bức tượng thánh nhân?”. Họ không hiểu rằng tất cả chư Phật phải
là một hình mẫu cho chúng sinh. Ta phải khấu đầu trước những bức tượng. Không
làm như vậy là theo một quan điểm sai lầm. Tất cả chúng sinh có đức hạnh linh
thánh, đặc biệt là các vị Phật, phải là hình mẫu cho tất cả chúng sinh. Khi
những vị Phật đến thế giới của chúng ta, họ thậm chí có thể lễ lạy khi một vị
thần địa phương khi đi qua một cây cầu mà vị thần địa phương giám sát để cảm ơn
ông ta đã bảo vệ chúng sinh. Những vị Phật là những hình mẫu tốt nhất về sự
khiêm tốn. Ta, với tâm khiêm nhường, càng nên khiêm tốn hơn nữa.
66.
Quan điểm cho rằng, không phải tất cả chúng sinh đều có Phật tính.
Những người có quan điểm này
nghĩ rằng chỉ có những chúng sinh như là người, voi, và chó là có Phật tính. Họ
nghĩ rằng những chúng sinh khác, đặc biệt là những chúng sinh bé nhỏ, không có
Phật tính và không thể trở thành Phật. Đây là một quan điểm sai lầm. Tất cả mọi
chúng sinh đều có Phật tính.
67.
Quan điểm đồng ý với việc dự báo trước một thảm hoạ toàn cầu sẽ xảy ra trong một
năm nhất định.
Có rất nhiều tin đồn như vậy
trong thế giới này. Chúng ta thường nghe thấy những thứ như thế giới này
sẽ sớm bị huỷ diệt, nó sẽ bị nổ tung vào lúc nào đó, lũ lụt và hỏa hoạn sẽ lớn
đến nỗi con người không thể tồn tại, bệnh dịch hoặc virus sẽ gây ra sự tuyệt
chủng của loài người, hay vào tháng nào đó của năm nào đó sẽ có đại họa do trái
đất sẽ va chạm với một thiên thạch. Tất cả điều đó phản ánh một quan điểm sai
lầm rất trầm trọng. Ta nói với tất cả các con rằng trái đất sẽ không bị phá hủy
và sẽ không trải qua một đại họa lớn như những gì vừa được nói đến. Nhân loại
cũng sẽ không trải qua một đại họa như những gì vừa được đề cập. Tất cả mọi thứ
từ từ sẽ phát triển theo duyên nghiệp riêng của nó và luật nhân quả. Sẽ không có
những thảm hoạ toàn cầu. Tất cả các tin đồn đó chỉ là lời nói tà ác gây hiểu lầm
cho công chúng. Nếu con có loại niềm tin như vậy, con đã mắc phải quan điểm sai
lầm này.
68.
Quan điểm cho rằng, ai đó mặc y áo của tu sĩ hoặc của rinpoche đều là thánh
nhân.
Những người có quan điểm này
nghĩ rằng bất cứ ai họ thấy mặc quần áo của một rinpoche hay quần áo của một tu
sĩ là bậc thánh nhân cần được kính trọng tuyệt đối. Khi một mảnh vải trông giống
như áo choàng đỏ của tu sĩ Tây Tạng nằm trên mặt đất, những người có quan điểm
này chắc chắn sẽ nhặt nó lên và tôn thờ nó trên bàn thờ pháp của họ. Họ sẽ trân
trọng lễ lạy bộ đồ hay khăn vải với màu của áo ngoài của các tu sĩ. Đây là sai
lầm. Nếu bộ đồ đó được mặc bởi một con quỷ dữ thì sao? Nếu bộ đồ đó được mặc bởi
một kẻ tồi tệ thì sao? Nếu vải màu đỏ là do sự đổ máu bởi một con dao sử dụng để
giết chóc thì sao? Con sẽ bị mắc tội không nếu tôn thờ một chiếc áo như vậy ư?
Hơn nữa, trong các cửa hàng vải có rất nhiều loại vải có màu giống áo choàng đỏ
của tu sĩ Tây Tạng. Con có định nói là con sẽ lễ lạy mỗi khi đi vào một cửa hàng
như vậy? Con đừng nên làm thế. Đó chỉ là mê tín, không phải chân lý tối hậu.
Chúng ta phải theo chân lý tối hậu. Chúng ta không được phép tđi heo những gì
không phải là chân lý tối hậu. Chúng ta nên tôn kính những bộ y phục của những
bậc đức hạnh ilnh thánh đích thực và không ai khác.
69. Quan điểm cho rằng, ai đó truyền bá giáo pháp bằng giọng
nói êm dịu thì đích thực là một vị Bồ Tát.
Những người có quan điểm này
nghĩ rằng người truyền pháp bằng một giọng nói nhẹ nhàng và âm điệu rất từ bi là
những vị Bồ Tát đích thực. Con nên nhớ rằng một số người hành động một cách có
chủ tâm bằng cách thay đổi giọng nói của họ để làm cho âm thanh nhẹ nhàng và từ
bi. Nhiều người bị lừa khi nghe tiếng nói của họ và xem họ như là hóa thân của
chư Bồ Tát. Trên thực tế, họ cố ý tạo ra một không khí bí ẩn bằng việc làm ra vẻ
từ bi. Tất cả các pháp họ giảng thì mang tính ngoại đạo hơn là chân lý tối hậu
và đi ngược lại những lời dạy của kinh điển. Vì thế, con không nên nghĩ rằng một
người giảng pháp bằng một giọng nói nhẹ nhàng thì chắc chắn là một vị Bồ Tát.
Cho dù một người nói bằng giọng nhẹ nhàng hay to lớn thì đó không phải là yếu tố
quyết định ông ta là một vị Bồ Tát hay không. Việc một ai đó là vị Bồ Tát thật
hay giả được quyết định bởi những nguyên tắc của Phật pháp.
70.
Quan điểm cho rằng, việc dùng lời nói kim cương [phê bình để chỉ ra chỗ sai -
ND] để truyền bá giáo pháp và tiêu trừ nghiệp chướng là không từ bi.
Những người có quan điểm này
nghĩ rằng sẽ không từ bi khi truyền giảng pháp trong đó lời nói kim cương được
sử dụng để khiển trách nghiêm khắc, phê bình, và đánh thức chúng sinh vô minh và
bướng bỉnh. Đây là một quan điểm sai lầm. Một số chúng sinh chỉ có thể được đánh
thức bằng cách trách mắng nghiêm khắc bằng ngữ kim cương. Nếu không, họ sẽ tiếp
tục con đường sai lầm của họ. Cách sử dụng lời nói kim cương này không phải là
không từ bi. Hơn thế, nó còn là biểu hiện của lòng đại bi đích thực. Một hành
động làm lợi ích của chúng sinh hay không là cơ sở để xác định hành động đó có
bản chất từ bi hay không.
71.
Quan điểm cho rằng, một người dùng dạng kim cương của hạnh Bồ-đề [trừng phạt để
chỉ ra chỗ sai - ND] để làm lợi ích cho người khác không phải một bậc thánh
nhân đức hạnh cao quý.
Hạnh Bồ-đề được thể hiện thông
qua vẻ bề ngoài từ bi và sự hiểu hiện của lòng yêu thương. Mặt khác, hạnh kim
cương còn được thể hiện thông qua sự trừng phạt và khiển trách nghiêm khắc. Việc
này được thực hiện bằng cách sử dụng pháp phẫn nộ. Sẽ là quan điểm hoàn toàn sai
lầm khi nghĩ rằng những người sử dụng dạng kim cương của hạnh Bồ-đề để giảng dạy
và chuyển hóa những chúng sinh không phải là những thánh nhân. Đó là bởi vì chư
Phật hoạt động bằng nhiều loại phương tiện và thị hiện dưới nhiều hình thức. Ví
dụ, Bồ Tát Quan Âm xuất hiện như quân vương Truton, vị vua hùng mạnh nhất của
những tinh linh xấu ác trong cõi giới địa ngục. Vua Truton xé những tinh linh
xấu ác thành từng miếng và ăn chúng. Bằng cách này, vua Truton dạy dỗ và chuyển
hóa vô số tinh linh xấu ác. Trong thực tế, ông đã hành động với lòng đại bi, khi
ông sử dụng phương tiện thiện xảo đó để nâng đỡ những tinh linh xấu ác lên cõi
giới cao hơn.
Trong Phật giáo Mật thừa, có
rất nhiều Bồ Tát Kim cương có vẻ ngoài rất hung hãn. Trên thực tế, các ngài làm
lợi lạc cho chúng sinh với lòng đại bi. Lấy ví dụ, bổn tôn hộ pháp Ruonama, là
vị kim vương uy quyền, hung dữ với sức mạnh lớn lao. Ngài là chúa tể tối cao của
loài ma, nhưng ngài cũng sở hữu sức mạnh thánh linh và có sự thực chứng của một
bậc thánh nhân. Một ví dụ khác là vị hộ pháp Rahula và vị hộ pháp Ekajati, cả
hai vị đều trông cực kỳ hung tợn. Nhiều người sợ hãi khi họ thấy một bức hình
của các ngài. Họ nghĩ, “Làm thế nào họ có thể là những thánh nhân? Họ không có
lòng từ bi gì cả. Thật đáng sợ!” Điều này là sai lầm. Họ là những bậc đạo sư
giác ngộ với lòng bi mẫn lớn lao, làm lợi lạc cho chúng sinh. Đó chỉ là do các
phương pháp của họ sử dụng khác với hầu hết những vị khác. Vì vậy, quan điểm cho
rằng, một người dùng dạng kim cương của hạnh Bồ-đề để làm lợi lạc cho người khác
không phải là bậc thánh nhân đức hạnh cao quý là một quan điểm sai lầm.
72.
Quan điểm cho rằng, việc nhìn nhận một người nào đó có sự tự tôn và kiêu ngạo
như là bậc thầy kim cương là chấp nhận được.
Một số người có sự tự tôn to
lớn. Họ kiêu căng khoe khoang về bản thân mình. Họ hoàn toàn dốt nát về Phật
pháp và không hiểu về các nguyên tắc của Pháp. Họ không tuân thủ các giới luật,
không có Bồ-đề tâm, và không có thực chứng linh thánh. Tất cả cái họ có là sự
kiêu ngạo và tất cả điều họ làm là lừa gạt các môn đệ của họ. Con không nên nhìn
nhận một người như vậy như đạo sư kim cương của con. Nếu con làm như vậy, con
đang đi trên con đường sai lầm.
73.
Quan điểm cho rằng, con phải kính trọng một đạo sư linh thánh “dởm” theo năm
mươi khổ thơ về lòng sùng mộ đạo sư.
Từ khi “Năm mươi khổ thơ về lòng sùng mộ đạo sư” được công
bố, nhiều người không còn dám phản đối đạo sư của mình. Bởi vì “Năm mươi khổ thơ
về lòng sùng mộ đạo sư” đã cấm như vậy, họ nghĩ rằng họ không thể phản đối đạo
sư của họ bất kể vị này là người tốt hay xấu. Bây giờ con phải hiểu rõ rằng đó
chính xác là điểm con bị mắc kẹt. Mặc dù “Năm mươi khổ thơ về lòng sùng mộ đạo
sư” đưa ra rằng con phải tôn kính đạo sư của mình, trước tiên con phải nhận ra
thầy của mình đang hành động phù hợp với giáo pháp hay không và ông ta có thực
sự sở hữu những phẩm chất của một vị thầy hay không. Nếu ông ta theo những quan
điểm sai lầm, hoặc cả quan điểm xấu ác, con vẫn còn muốn theo ông ta chứ? Con có
rời bỏ ông ta không? Nếu con không rời bỏ ông ta, con sẽ bị ô nhiễm bởi cùng
nghiệp đen tối đó. Nếu con không rời khỏi ngay lập tức, con sẽ phải chịu số phận
bi đát. Con không nên tôn trọng “đạo sư linh thánh” dởm.
“Năm mươi khổ thơ về
lòng sùng mộ đạo sư” đòi hỏi con phải tôn
kính bậc đạo sư linh thánh đích thực, chứ không phải những kẻ giả mạo. Vì vậy,
việc sử dụng “Năm mươi khổ thơ về lòng sùng mộ đạo sư” như là cơ sở để yêu cầu
con tôn kính “dạo sư linh thánh” dởm phản ánh một quan điểm sai lầm.
74.
Quan điểm cho rằng, theo một vị thầy không còn Bồ-đề tâm là chấp nhận được.
Nếu bậc thầy của con không còn
có Bồ đề tâm và không còn trau dồi bản thân dựa trên Bồ đề tâm, sẽ là sai lầm
khi con vẫn còn theo và chấp thuận ông ta. Cho dù ông ta có địa vị thế nào,
chẳng hạn như là một vị pháp vương, một tôn giả, một rinpoche vĩ đại, hoặc một
giảng sư tuyệt vời, ông ta không phải là một bậc thầy tốt nếu ông ta không có Bồ
đề tâm. Ông ta là một người đạo đức giả và đã rơi vào trong những quan điểm sai
lầm.
75. Quan điểm cho rằng,
ai đó nắm giữ một chứng nhận được phát hành bởi một pháp vương vĩ đại thì chắc
chắn là bậc thánh nhân vĩ đại.
Giả sử một vị pháp vương vĩ đại đã viết một giấy chứng
nhận cho một ai đó, hoặc hai vị pháp vương đã viết một giấy chứng nhận công nhận
cho người đó. Những người có quan điểm sai lầm sẽ nghĩ rằng người đó chắc chắn
là một bậc thánh nhân. Suy nghĩ như vậy là không chính xác. Cần xác định xem đó
có phải là xác nhận mang ý nghĩa cao nhất hay là một xác nhận mang ý nghĩa trần
tục. Phải xác định xem phương pháp sử dụng để chứng nhận bao gồm quan sát một hồ
nước, bói toán, hình tượng được tạo ra khi đập vào nước, quay một viên thuốc làm
từ bột lúa mạch rang, hoặc một số phương pháp khác.
Sự công nhận theo ý nghĩa thế gian có thể là chính xác, và
cũng có thể đi trệch khỏi sự thật đó. Vì vậy một sự công nhận theo ý nghĩa thế
gian không thể xác định chắc chắn rằng người được công nhận là một thánh nhân.
Cũng không thể xác định chắc chắn rằng người được công nhận không phải là một
thánh nhân. Ngay cả khi sự công nhận được thực hiện phù hợp với giáo pháp, chúng
ta cũng cần xem liệu người được công nhận này có theo 128 quan điểm xấu ác và
sai lầm hay không. Mặt khác, một người không theo 128 quan điểm này trong hành
động của mình và do đó không vi phạm các chuẩn mực của các quan điểm này chắc
chắn là một bậc thực sự có đức hạnh linh thánh ngay cả khi người ấy không có
chứng chỉ công nhận nào.
76.
Quan điểm cho rằng, không nên đưa những tinh linh xấu ác lên những cõi giới cao
hơn.
Những người có quan điểm này
cho rằng những tinh linh xấu ác chắc chắn không nên được đưa lên những cõi giới
cao hơn. Những người có suy nghĩ như vậy đã rơi vào quan điểm sai lầm. Những
tinh linh xấu ác nên được đưa lên những cõi giới cao hơn. Cho dù họ có xấu ác
kinh khủng đến thế nào, họ vẫn là những chúng sinh. Chúng ta là những người tu
tập, nên có lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh. Hơn nữa, chúng ta đưa các tinh
linh xấu ác lên các cõi giới cao hơn sớm bao nhiêu thì càng ngăn chặn họ khỏi
làm hại nhiều người tốt bấy nhiêu.
77.
Quan điểm cho rằng, ma quỷ xấu ác phải bị tiêu diệt thay vì được dạy dỗ và giúp
đỡ sửa chữa.
Những người có quan điểm này
cho rằng ma quỷ phải bị tiêu diệt. Suy nghĩ như vậy là sai lầm. Tùy thuộc vào
từng hoàn cảnh cụ thể, ma quỷ phải được dạy dỗ và giúp đỡ sửa chữa hoặc phải bị
tiêu diệt. Khi thực sự là không có cách nào để dạy dỗ, sửa chữa chúng và chúng
quyết tâm tiếp tục làm hại chúng sinh, chúng phải bị tiêu diệt. Nếu thậm chí còn
có cơ hội dù là nhỏ nhất để dạy dỗ và sửa chữa chúng, chúng ta nên làm tất cả
điều có thể làm để dạy dỗ và giúp chúng sửa chữa và không nên tiêu diệt chúng,
vì ma quỷ cũng là những chúng sinh.
78.
Quan điểm cho rằng, một người không cần thiết phải cúng dường thức ăn cho loài
la sát và quỷ đói.
Những người có quan điểm này
nghĩ rằng chúng ta không nên cúng dường thức ăn cho loài la sát và quỷ đói. Đây
cũng là sai lầm. Thức ăn nên được cúng dường cho loài la sát và quỷ đói. Chúng
cũng là những chúng sinh. Chỉ khác là chúng có những quan điểm xấu ác. Chúng ta
phải sửa chữa chúng để chúng có hiểu biết và cái nhìn đúng đắn. Chúng ta cần tìm
ra những cách để đưa chúng đến với giáo pháp chân chính. Chúng ta cần cúng dường
cho chúng để chúng sẽ được chuyển biến, sửa chữa lối sống xấu ác, và làm những
điều tốt.
79.
Quan điểm cho rằng, người ta phải trả tiền để đổi lấy việc được học hay nghe
Pháp.
Hiệu tượng kiểu này đã tồn tại
từ xưa cho tới nay. Dựa theo quan điểm này, một người phải trả tiền trước khi họ
được phép học Pháp, nghe Pháp hay là bước vào một ngôi đền. Như vậy là họ không
thể được học hoặc là nghe pháp nếu không trả tiền. Trước đây ta đã gặp phải
trường hợp này khi ta ở trong một số ngôi chùa. Mọi người trong ngôi đền thường
nói rằng, “Hôm nay bạn có mang theo vật phẩm cúng dường không? Bạn không được
vào đền trừ khi bạn mang theo một vật phẩm. Nếu bạn không mang theo tiền cúng
dường, bạn không được phép nghe giảng kinh pháp. Hôm nay chỉ những người mang
theo vật phẩm cúng dường mới được vào chùa! Chỉ những người đó mới có thể đến ăn
ở phòng ăn. Những người khác không được phép.” Đó là điều rất sai lầm. Có những
người giàu có và những người nghèo khổ. Chúng ta nên quan tâm tới hạnh phúc của
tất cả mọi người. Nếu họ thực sự nghèo khó, chúng ta thậm chí nên cung cấp tiền
cho họ. Chúng ta không nên nói họ phải cúng dường tiền bạc trước khi họ được
phép học Pháp, nghe Pháp hoặc là ăn uống. Đó là điều không đúng đắn và cấm kỵ
tuyệt đối.
80.
Quan điểm cho rằng, việc thính chúng không kính trọng Pháp truyền khẩu qua ghi
âm là chấp nhận được.
Một số người khi nghe giáo
pháp đã không tôn kính những bài thuyết pháp truyền khẩu được ghi lại và bàn
luận khiếm nhã về những bài thuyết pháp này. Họ nghĩ rằng do họ không buộc phải
trả tiền để đổi lấy việc nghe Pháp, nên họ sẽ không cúng dường bất cứ vật phẩm
nào có giá trị tiền bạc. Họ nghĩ rằng không có điều gì mà họ cần quan tâm và họ
có thể nghe những bài thuyết pháp một cách thông thường. Đây là điều thiếu tôn
trọng Tam bảo. Hành vi thiếu tôn trọng những bài pháp truyền khẩu đã được ghi âm
lại tự nó sẽ ngăn cản một người đạt được sự thành tựu. Phật pháp quý giá vô
cùng. Sao con có thể đối xử thiếu tôn trọng với Phật pháp? Con nên cố gắng giúp
đỡ bằng việc cúng dường nếu con có thể. Tuy nhiên, nếu con thực sự gặp khó khăn
về tài chính, con vẫn nên lắng nghe giáo pháp cho dù con không thể cúng dường
vật phẩm gì. Con có thể nghe một lần, một trăm lần hay một nghìn lần. Vị thầy
của con sẽ giúp con. Tuy nhiên, nếu con có thể giúp đỡ bằng một vật phẩm cúng
dường nhưng không làm vậy do tính ích kỷ, hẹp hòi, hoặc là con có quan điểm cho
rằng Phật pháp là điều ít quan trọng hơn so với những vấn đề thế gian, con cũng
có thể vẫn nghe giáo pháp. Tuy nhiên, bằng cách này con đang gieo trồng những
hạt giống của những duyên nghiệp sẽ ngăn cản con trở nên thành tựu.
81.
Quan điểm cho rằng, một vị đạo sư có thể chuyển một phần tuổi thọ cho học trò
của mình là chấp nhận được.
Đây là một quan điểm ngoại đạo
khá phổ biến. Dựa trên quan điểm này, một bậc thầy nói với đệ tử của mình rằng
ông ta đã thực hành một pháp và do đó đã chuyển một phần trong tuổi thọ của mình
cho đệ tử hoặc cho một thành viên nào đó trong gia đình đệ tử này. Ông ta nói
với các đệ tử rằng các đệ tử hoặc thành viên gia đình của đệ tử vẫn còn sống là
kết quả của điều đó. Ông ta còn tiếp tục nói rằng ông đã nhận hộ những nghiệp
xấu của các đệ tử hoặc thành viên gia đình của đệ tử. Nói những lời như vậy là
sai và không thể biện hộ nổi. Nếu một vị thầy muốn chuyển một phần trong tuổi
thọ của mình cho một đệ tử, ông có thể cầu nguyện sẽ làm điều đó. Tuy nhiên,
điều này chỉ là ước muốn của ông ta và không liên quan đến sự thành công của
việc chuyển giao hay không. Vị thầy không nên tiết lộ ước muốn này cho đệ tử của
mình bởi vì đây là một phần trong sự tu tập của ông. Trong thực tế, thực sự rất
khó khăn để những việc chuyển giao như vậy thành công theo như luật nhân quả.
Các vị thầy nên dạy các đệ tử để thay đổi tuổi thọ của chính mình thông qua quá
trình tự tu tập. Một bậc thầy, đệ tử, hay bất cứ ai nghĩ rằng một vị thầy có thể
chuyển giao một phần của tuổi thọ của mình cho đệ tử là đang có một quan điểm
sai lầm.
82.
Quan điểm cho rằng, một người học tại một ngôi chùa nổi tiếng chắc chắn là một
vị tu sĩ xuất sắc.
Những người với quan điểm này
cho rằng nếu một người nào đó đến từ một tu viện lớn với một ngàn hoặc thậm chí
vài ngàn tu sĩ trong đó, ông ta chắc chắn sẽ là một tu sĩ lỗi lạc. Họ nghĩ rằng
một ai đó với danh hiệu narenpa geshe - người dành vị trí dẫn đầu trong các cuộc
tranh luận kinh điển chắc chắn phải là một tu sĩ xuất sắc. Điều này là sai. Ta
cho các con biết rằng người này không nhất thiết đã là một tu sĩ xuất chúng. Ông
ta thậm chí có thể là một kẻ xấu xa vô lại, hoặc một tên lừa đảo. Một người
trở thành một tu sĩ lỗi lạc thông qua việc tự tu tập và nhận ra sự thật tối hậu.
Con sẽ không thể xác định được xem một ai đó là một tu sĩ lỗi lạc chỉ đơn giản
bằng cách xem họ đến từ tu viện nào .
83.
Quan điểm cho rằng, một người đã học hỏi dưới sự dẫn dắt của nhiều bậc đạo sư
chắc chắn là một vị thánh nhân.
Có những người theo học với
nhiều bậc đạo sư. Họ nhận được hơn một nghìn quán đảnh và chính thức công nhận
một hoặc hai trăm người là thầy của họ. Họ tự nhận rằng đã thực hành pháp tập
trung nội nhiệt tummo, pháp Kalachakra, và pháp Đại Toàn Thiện. Hơn thế
nữa, họ nói rằng họ đã bước vào tầng cao nhất của pháp của Kalachakra bởi thực
hành thành công pháp thiền Thân kim cương thay thế . Con nghe điều này và nghĩ
rằng những người như vậy chắc chắn phải là những tu sĩ xuất sắc. Con đang rất
lầm lẫn! Con chỉ tin vào những gì con nghe thấy và không tuân theo sự thật tối
hậu. Con đã xác minh thông qua một cuộc kiểm tra khoa học xem đỉnh đầu của họ có
thật sự mở ra được hay chưa? Ý thức của họ có thể rút ra rồi quay trở lại cơ thể
họ chăng? Nếu không có xác minh, con không thể rút ra kết luận rằng họ đã hoàn
thiện việc thực hành pháp thiền Thân kim cương thay thế.Tại sao vậy? Lý do rất
đơn giản. Việc ai đó là một tu sĩ xuất sắc hay không phụ thuộc việc tự tu dưỡng
và thực hành của họ. Nếu một người tu dưỡng và thực hành không tốt, cho dù anh
ta có là đệ tử chính thức của bao nhiêu bậc thầy đi nữa cũng là vô nghĩa. Vì
vậy, thật là sai lầm khi nghĩ rằng nếu có ai đó đã theo học nhiều bậc thầy hẳn
sẽ là một tu sĩ xuất sắc hay một bậc thánh nhân.
84.
Quan điểm cho rằng, nền tảng tâm linh của phụ nữ không tốt bằng của đàn ông.
Những người có quan điểm này
cho rằng nền tảng tâm linh của phụ nữ là không tốt bằng của nam giới. Họ nghĩ
rằng đàn ông có năng lực tâm linh tốt hơn. Đây là quan điểm sai lầm. Những người
có một nền tảng tâm linh tốt có thể được tìm thấy giữa cả nam và nữ.
85. Quan điểm cho rằng, những sinh mạng của những chúng sinh nhỏ bé là không giá trị như sinh mạng của những chúng sinh to lớn.
Những người có quan điểm này
cho rằng khi cứu giúp chúng sinh, những chúng sinh to lớn hơn nên được cứu giúp
trước. Ví dụ, họ nghĩ con bò nên được cứu trước. Họ cho rằng con voi nên được
giải cứu đầu tiên. Họ không vội vàng để cứu các loài chim nhỏ và họ cứu lũ kiến
cuối cùng. Điều này là sai lầm. Chúng ta phải coi tất cả chúng sinh bình đằng
như nhau.
86.
Quan điểm cho rằng, việc trì tụng kinh điển mà không hiểu ý nghĩa là chấp nhận
được.
Những người có quan điểm này
nghĩ rằng có nhiều công đức chỉ bằng việc trì tụng một bản kinh cho dù người trì
tụng không hiểu được ý nghĩa và nguyên tắc của bản kinh này. Điều này là không
đúng. Trước khi trì tụng một bản kinh, người ta phải hiểu được nội dung của nó
trước đã.
87.
Quan điểm cho rằng, việc bí mật tích luỹ tiền bạc dưới chiêu bài kêu gọi quyên
góp xây chùa, bảo tháp hay tổ chức pháp hội là chấp nhận được.
Dưới chiêu bài xây dựng một
ngôi chùa, xây dựng một bảo tháp, hoặc tổ chức một pháp hội lớn, có những người
trong thực tế, đã bí mật tích lũy tiền bạc cho bản thân họ. Chúng ta không được
chấp nhận hành vi đó và phải phản đối chúng.
88.
Quan điểm cho rằng, việc lạm dụng quỹ từ thiện hỗ trợ thảm hoạ cho những mục
đích tham lam của cá nhân là chấp nhận được.
Một số người thu nhận rất
nhiều tiền bạc dưới ngọn cờ của tổ chức từ thiện và cứu trợ thiên tai. Tuy
nhiên, họ bí mật lạm dụng các quỹ đó cho mục đích riêng tham lam của mình. Đây
là đang đi theo một quan điểm sai lầm. Cho dù là một vị thầy hay đệ tử, nhưng
nếu lạm dụng cho dù một xu của những quỹ đó cho sự tham lam, ích kỉ của mình thì
cũng là một vi phạm về nghiệp. Bất cứ ai sử dụng sai lầm các quỹ đó và bất cứ ai
chấp nhận cho những hành động này đều đang đi theo quan điểm sai lầm này.
89.
Quan điểm cho rằng, một người phải bỏ hết công việc của người đó để tu dưỡng bản
thân và học đạo Phật.
Một vài người nói rằng họ sẽ đơn giản là từ bỏ hết
những công việc của mình để tu dưỡng bản thân và học hỏi Phật pháp. Họ nói rằng
chỉ bằng cách từ bỏ công việc, họ mới có thể tập trung sự chú ý của họ vào tu
tập và do đó tu dưỡng bản thân thật tốt. Đây là một quan điểm sai lầm. Một người
tu tập thực sự sẽ hành động theo giáo lý nhà Phật cho dù họ ở trong bất kì
trường hợp nào. Không nên nghĩ rằng chỉ bằng cách từ bỏ công việc của mình và
tập trung hoàn toàn vào tu tập mới là đang hành động theo đúng giáo lý nhà
Phật.
90.
Quan điểm cho rằng một người đã thọ quy y chắc chắn là một Phật tử.
Những người có quan điểm này
nghĩ rằng nếu họ đã quy y, tham gia vào một buổi lễ quy y và nhận được chứng
nhận quy y thì họ sẽ là Phật tử. Điều này không chính xác. Nhận lễ quy y không
có nghĩa rằng người đó nhất thiết là một Phật tử. Một người có thể đại diện cho
Phật giáo không nếu ông ta lại giết người và phóng hỏa sau khi quy y? Nếu một
người sau khi quy y lại thực hiện tất cả những điều xấu xa suốt trong một ngày
dài, làm nhục người khác, lừa dối người khác, thực hành và truyền bá tư tưởng
ngoại đạo, liệu người này có phải là một Phật tử không? Không, anh ta không hề.
Chỉ những người tuân thủ các giới luật trong thực hành mới là Phật tử thật sự.
Chỉ những người không phạm phải 128 quan điểm xấu ác và sai lầm này mới là những
Phật tử tinh thuần, chính thống, xuất sắc và là những người tu dưỡng đạo đức sâu
sắc. Điều này là cực kỳ quan trọng.
Chúng ta nên xem xét bản thân một cách sâu sắc để xem liệu
chúng ta có đang theo bất kỳ một quan điểm sai lầm nào đó hay không. Nếu con
theo một, hai, hoặc ba trong số các quan điểm sai lầm trên, hậu quả sẽ phụ thuộc
vào việc vi phạm là nặng hay nhẹ. Điều đó lại phụ thuộc vào quan điểm sai lầm mà
con mắc phải là gì. Nếu con theo ba quan điểm sai lầm mà gây ra hậu quả tương
đối nhẹ hoặc nếu con theo một hoặc hai quan điểm sai lầm nhưng hậu quả tương đối
nặng mà con không ngay lập tức sửa đổi thì con sẽ không thể có được bất kỳ hiệu
quả lợi lạc nào từ việc tu tập bất cứ pháp nào. Con sẽ không đạt được bất cứ khả
năng siêu nhiên hay năng lực thực chứng nào thông qua thực hành. Con sẽ không
thể thực hiện được bất cứ năng lực đích thực nào ngoại trừ khi con theo các pháp
thực hành của ngoại đạo và năng lực đó là biểu hiện của tà pháp. Tuy nhiên, điều
đó sẽ khiến cho con chết sớm và bị đoạ xuống địa ngục vô gián. Sẽ không có kết
quả nào khác ngoài điều này.
Chỉ có duy nhất một con đường
đúng đắn trong tu tập. Nếu con làm theo những quan điểm xấu ác và/hoặc các quan
điểm sai lầm mà không ngay lập tức sửa mình thì có thể từ thời điểm đó cho đến
hết quãng đời còn lại con sẽ đánh mất tất cả cơ hội để nhận được Phật pháp đích
thực, đánh mất tất cả những chánh pháp con đã từng thọ nhận và sẽ bị đọa xuống
một trong ba cõi thấp mà không bao giờ có thể đạt được giải thoát. Vì thế, con
tuyệt đối không được theo bất cứ quan điểm xấu ác và sai lầm nào đã được làm rõ
trong ngày hôm nay. Không quan trọng việc con học theo giáo pháp nào, con thuộc
dòng phái nào, nếu con theo các quan điểm xấu ác và/hoặc quan điểm sai lầm, thì
đơn giản con là một kẻ ngoại đạo. Con sẽ phải nhận quả báo trong tương lai. Đây
là điều không thể tránh khỏi. Đây là điều chắc chắn. Đó là cách mà tất cả mười
phương chư Phật và chư Bồ tát bảo vệ những tri thức và quan điểm đúng đắn. Bất
cứ ai theo những quan điểm xấu ác và sai lầm này sẽ trở nên giống như cội nguồn
của một khối u ác tính làm ngộ độc chúng sinh và chính họ. Vì thế, ta phải cho
các con biết rằng các con không được theo bất cứ một quan điểm nào như vậy.
Đồng thời, chúng ta phải khắc
sâu trong tâm một điều vô cùng quan trọng. Một số người nói rằng “128 quan điểm
này không có trong giáo huấn của tông phái chúng tôi. Chúng không liên quan gì
tới chúng tôi." Nếu con có tư tưởng này thì con đã gieo mầm mống để rơi vào một
trong ba cõi thấp. Những quan điểm xấu ác và sai lầm này mang tính bất bộ phái.
Chúng thuộc về Phật giáo chứ không phải bất cứ dòng phái riêng biệt nào. Chúng
thuộc về luật nhân quả trong vũ trụ. Chúng được đưa ra để tương ứng với sự tương
sinh tương diệt của chúng sinh và tương ứng với các nghiệp xấu phát sinh do ảo
tưởng của chúng sinh. Do đó, những quan điểm này mang tính bất bộ phái.
Ta sẽ đưa ra cho các con một
ví dụ tương đồng ở đây. Hãy xem việc có ai đó nói rằng “thuốc độc và thuốc tốt
không ảnh hưởng gì đến việc kinh doanh của chúng tôi, bởi vì chúng tôi bán vải
chứ không bán thuốc. Chỉ các bệnh viện và các dược sĩ mới làm việc với các loại
thuốc. Chúng tôi không muốn sử dụng thuốc hay dược phẩm gì cả”. Quan điểm này
hoàn toàn sai lầm. Mặc dù dược phẩm hay thuốc được sử dụng trong bệnh viện,
nhưng tác dụng của chúng là như nhau trên tất cả mọi người. Bất kể con đang kinh
doanh gì, nếu con nghĩ rằng uống một loại thuốc độc là vô hại và con vẫn uống
thì con sẽ bị nhiễm độc dẫn đến cái chết. Vì vậy bất kể con đang thuộc tông phái
nào, việc theo hay không theo những quan điểm xấu ác và sai lầm này đều chắc
chắn sẽ gây ra nghiệp báo tương ứng theo quy luật nhân quả tự nhiên.
Ta sẽ đưa ra một ví dụ có thực
xảy ra trong thực tế tu tập. Một vị rinpoche từ Tây Tạng đã đến để tỏ lòng kính
trọng với Kaichu Rinpoche. Vị Rinpoche Tây Tạng này nói: “Tôi đến từ tông phái
này của Phật giáo mật thừa truyền thống, và tông phái chúng tôi thực hành bốn
pháp yoga. Tôi là đệ tử của vị đạo sư này, là một vị đạo sư yoga cao nhất ở Tây
Tạng”. Ông ấy hỏi Kaichu Rinpoche, “Theo Ngài, tông phái nào của Phật giáo là
cao nhất và tốt nhất?” Kaichu Rinpoche trả lời, “Bất cứ tông phái nào cũng có
thể tốt hoặc không tốt. Nếu những quan điểm của tông phái là đúng thì tông phái
đó là tốt. Nếu quan điểm của tông phái đó là xấu ác và sai lầm thì đó là tông
phái không tốt”. Vị rinpoche Tây Tạng nói: “Tôi đã đọc 128 quan điểm của tông
phái của Ngài. Những hành giả chúng tôi không liên quan gì đến những quan điểm
này. Tôi có thể nâng nhiệt độ cơ thể mình qua việc thực hành pháp tập trung nội
nhiệt tummo mặc dù tôi không học về 128 quan điểm này.” Kaichu Rinpoche nói với
ông ta rằng: “Tôi không thuộc tông phái nào cả. Tất cả những gì tôi có là Phật
giáo.”
Trong quá trình thảo luận của
họ, họ bắt đầu thi triển những năng lực của mình từ việc thực hành pháp tập
trung nội nhiệt. Kaichu Rinpoche áp dụng pháp tập trung nội nhiệt bên ngoài cơ
thể của mình và do đó lập tức chữa khỏi bệnh tật của một người khác ngay tại đó.
Sau khi các cuộc thi triển năng lực kết thúc, vị rinpoche đó hỏi: “Làm thế nào
để tôi có thể có được những năng lực như Ngài?” “Hãy chú ý đến 128 quan điểm”
Kaichu Rinpoche trả lời ông ta như vậy.
Bởi vì điều này đã để lại
một ấn tượng rất sâu sắc với vị Rinpoche Tây Tạng đó, ông ngay lập tức tập trung
vào việc xem mình có theo quan điểm nào trong 128 quan điểm này hay không. Trong
vòng một tháng, ông đã có thể tăng nhiệt độ cơ thể lên gấp đôi trong pháp tummo.
Ông ấy nói: “Điều này thật kỳ diệu. Tôi đã thực hành pháp tummo trong 16 năm,
nhưng trong suốt thời gian đó tôi đã không thể thực hiện được một bước tiến
triển nhảy vọt như tôi đã thực hiện trong tháng vừa rồi. Tôi vẫn đang thực hành
pháp như tôi đã thực hành trước đây. Bây giờ tôi biết rằng 128 quan điểm không
thuộc về bất cứ tông phái riêng biệt nào. Chúng là những nguyên tắc của Pháp
mang lại lợi ích cho tất cả các hành giả và dựa trên quy luật nhân quả.”. Đó là
những ấn tượng rất sâu sắc của vị rinpoche đó.
Ta phải nhắc lại một lần nữa
với tất cả các con về điều này. Không được rơi vào bất cứ quan điểm nào trong
các quan điểm này. Nếu không việc tu tập của các con là vô ích. 128 quan điểm
xấu ác và sai lầm này cũng là một phần của pháp quan trọng chứa đựng trong
Giải thoát Đại thủ
ấn tối
thượng. Bài giải thích ngắn gọn về pháp của ngày hôm nay sẽ kết
thúc ở đây.
Các đệ tử: Chúng con đảnh lễ Đức Dorje Chang
III.
Khi ta nghe các con xưng
hô như vậy, ta cảm thấy rất xấu hổ. Đừng gọi ta là Đức Dorje Chang III. Chỉ cần
gọi ta là Sư phụ, cách xưng hô giản dị
nhất
|
Read more: 128 quan điểm xấu ác và quan điểm sai lầm | Phật pháp http://tuyenphap.com/Phat-phap/128-quan-diem-xau-ac-va-quan-diem-sai-lam#ixzz1sLjAxiRE.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH.( MHDT ).18/4/2012.
No comments:
Post a Comment