Wednesday 20 November 2013

Kinh Pháp-Cú là cuốn Kinh chọn lọc những câu nói của Ðức Phật Thích-Ca Mâu-Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, Ðức Phật đã giảng nói rất nhiều pháp-ngữ, bao gồm nghĩa lý thâm thiết để cởi mở nghiệp khổ cho chúng-sanh mà đưa họ đến Niết-Bàn an lạc. Những giáo-pháp ấy, ngay 3 tháng sau khi Phật diệt độ các vị Cao-đệ đã hội họp kết tập thành Tam-tạng để truyền lại cho hậu thế noi theo. Ðồng thời những câu dạy ngắn gọn đầy ý nghĩa của Phật trong 300 trường hợp giáo hoá khác nhau, cũng được kết tập thành Kinh Pháp-Cú này và lưu truyền mãi đến ngày nay.
Thường thường chúng ta thấy trong báo chí, sách vở của các nhà nghiên cứu Phật-học hay trích dẫn những câu nói ngắn gọn nhưng rất có giá trị của Ðức Phật, là phần nhiều ở Kinh này mà ra.
Cuốn Kinh này gồm 26 phẩm, 423 câu (câu kệ), là cuốn thứ 2 trong 15 cuốn thuộc Tiểu-bộ (Khuđaka-nikaya) trong Kinh tạng, và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng ở Á-Châu và Âu-Mỹ. Theo chỗ chúng tôi được biết, có bản chữ Anh của Ðại-đức Narada, xuất bản tại Tích-Lan, bản chữ Anh của Giáo sư C.R Lanman, do Ðại-học đường HAVARD tại Mỹ Quốc xuất bản; bản chữ Nhật của Phước-đảo Trực-tử-lang, xuất bản tại Nhật và các bản Hán dịch rất cổ với danh đề Pháp-Cú-Kinh, Pháp tập-yếu-tụng v.v...
Xưa nay các nước Phật giáo Nam-truyền như Tích-Lan, Miến-Ðiện v.v... đều đặc biệt tôn bộ Kinh này làm bộ Kinh nhật tụng quý báu; hàng Tăng-giới ít ai không biết, không thuộc, không hành-trì, và hàng Cư-sĩ cũng lấy đó phụng hành để sống một đời sống an-lành thanh khiết.
Riêng tại Việt-Nam, lâu nay thấy có trích dẫn nhưng chưa ai dịch hết toàn bộ. Nay nhân dịp may, tôi gặp được bản Kinh Pháp-Cú do Pháp-sư Liễu-Tham vừa dịch từ nguyên bản Pali ra với sự tham khảo chú thích rạch-ròi, có thể giúp ta đọc như đọc thẳng vào bản văn Pali, nên tôi kính cẩn dịch ra để góp vào kho Phật Kinh tiếng Việt, mà chúng ta hy vọng một ngày nào sẽ được thiệt-hiện đầy đủ.
Ðọc xong Kinh Pháp-Cú, độc giả sẽ thấy trong đó gồm những lời dạy về triết lý và luân lý cho cả hai giới xuất gia và tại gia. Những lời dạy cho hàng xuất gia tất nhiên không bao hàm hàng tại gia, nhưng những lời dạy cho hàng tại gia đương nhiên trùm cả hàng xuất gia. Do đó, dù ở hạng nào, đọc cuốn Kinh này cũng thu thập được nhiều ích lợi thanh cao. Tôi tin rằng, những lời dạy dản dị mà thâm thúy trong Kinh có thể làm cho chúng ta mỗi khi đọc đến thấy một niềm siêu thoát lâng lâng tràn ngập tâm hồn, và những đức tính từ bi, hỷ xả, bình tĩnh, lạc quan vươn lên tỏa rộng giữa những ngang trái, hẹp hòi, khổ đau, điên đảo của cuộc thế vô thường.
Ngoài những lời dạy trong Kinh này, tôi lại thấy còn có rất nhiều lời dạy cao đẹp khác rải rác khắp các Kinh, nên tôi hy vọng sau này sẽ trích lục thêm để quí vị độc giả có dịp lãnh thụ được nhiều pháp-vị của Phật hơn nữa.
Sau đây, tôi không quên thành thật cám ơn hai đạo hữu Hùng Khanh và Nguyễn Khoa Việt, đã giúp cho bản dịch này được thêm phần hoàn mỹ.
TRÍ ÐỨC
1. PHẨM SONG YẾU : YAMAKAVAGGO.
(Những pháp-yếu được diễn nói theo cách song đối.)
1. Trong các pháp (ở đây chỉ pháp bất thiện; trong câu hai chỉ về pháp thiện), tâm dẫn đầu, tâm là chủ, tâm tạo tác tất cả. Nếu đem tâm ô-nhiễm tạo nghiệp nói năng hoặc hành động, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật (thú) kéo xe.
2. Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm là chủ, tâm tạo tác tất cả. Nếu đem tâm thanh-tịnh tạo nghiệp nói năng hoặc hành động, sự vui vẻ sẽ theo nghiệp kéo đến như bóng theo hình.
3. 'Người kia lăng mạ tôi, đánh đập tôi, phá hại tôi và cướp đoạt của tôi'. Ai còn ôm ấp tâm niệm ấy, thì sự oán giận không thể nào dứt hết.
4. 'Người kia lăng mạ tôi, đánh đập tôi, phá hại tôi và cướp đoạt của tôi'. Ai bỏ được tâm niệm ấy, thì sự oán giận tự nhiên sang bằng.
5. Ở thế-gian này, chẳng phải hận-thù trừ được hận-thù, chỉ có từ-bi mới trừ được hận-thù. Ðó là định luật của ngàn xưa. (Nguyên văn : Sanantano, có nghĩa là đời xưa. Cổ pháp (Sannatano Dhamma hoặc Paranako Damma) tức chỉ cho tất cả các pháp tắc vĩnh cửu bất dịch mà chư Phật và đệ tử quá khứ đã gìn giữ và truyền dạy).
6. Người kia (chỉ người tranh luận. Nhân khi Phật ở Kỳ-đà-lâm, đối với vị Tỳ-kheo ưa tranh luận tên Câu-sanh-bi (Kosambi) mà nói kinh này, nên có sự xưng hộ đó.) vì không hiểu rằng : 'Chúng ta sắp bị hủy diệt' (nên mới phí sức tranh luận hơn thua) (Nguyên văn : Mayam Ettha Yamamasa, nếu dịch thẳng thì 'chúng ta sắp bị diệt vong theo đó (tranh luận) nghĩa là do sự tranh luận bị thua mà bước đến con đường hư hỏng. Nếu họ hiểu rõ điều đó, thì chẳng còn tranh luận nữa.
7. Những người chỉ muốn sống trong khoái lạc (tự cho thân mình là trong sạch rồi đắm ưa hoài) , không chịu nhiếp hộ các căn, uống ăn vô độ, biếng-nhác chẳng tinh-cần, họ thật là người dễ bị ma (Mala (mara) ở đây chỉ tình dục) nhiếp phục như cành mềm trước cơn gío lốc.
8. Những người nguyện ở trong cảnh chẳng khoái lạc (chẳng khoái lạc (Asubha), chỉ phép bất-tịnh-quán, như quán thân với 32 điều bất tịnh v.v...) khôn khéo nhiếp hộ các căn, uống ăn tiết-độ, vững tín và siêng năng, ma không dễ gì thắng họ như gió thổi núi đá.
9. Mặc áo ca-sa mà không rời bỏ những điều uế trược (chỉ tham dục v.v..) , không thành thật khắc kỷ, thà chẳng mặc còn hơn.
10. Rời bỏ những điều uế trược, giữ gìn giới luật tinh nghiêm, khắc kỷ và chân thành, người như thế đáng mặc áo ca-sa.
11. Phi chơn (như 4 thứ tư cụ là áo, cơm, thuốc uống, nhà ở và 10 thứ tà kiến v.v..) tưởng là chơn thật, chơn thật (như giới, định, huệ, và chánh kiến v.v..) lại thấy là phi chơn, cứ tư-duy một cách tà vạy, người như thế không thể nào đạt đến chơn thật.
12. Chân thật nghĩ là chân thật, phi chân biết là phi chân, cứ tư duy một cách đúng đắn, người như thế mau đạt tới chân thật.
13. Nhà lợp không kín ắt bị mưa dột thế nào, kẻ tâm không biết tu tất bị tham dục lọt vào cũng thế.
14. Nhà khéo lợp kín ắt không bị mưa dột, kẻ tâm khéo tu tất không bị tham dục lọt vào.
15. Ở chỗ này ăn-năn, tiếp ở chỗ khác cũng ăn-năn, kẻ làm điều ác-nghiệp, cả hai nơi đều ăn-năn; vì thấy ác-nghiệp mình gây ra, kẻ kia sinh ra ăn-năn và chết mòn.
16. Ở chỗ này vui, tiếp ở chỗ khác cũng vui, kẻ làm điều thiện nghiệp, cả hai nơi đều an vui; vì thấy thiện nghiệp mình gây ra, người kia sinh ra an lạc và cực lạc.
17. Ở chỗ này than buồn, tiếp ở chỗ khác cũng than buồn, kẻ gây điều ác nghiệp, cả hai nơi đều than buồn : nghĩ rằng 'tôi đã tạo ác' vì vậy nên nó than buồn. Hơn nữa còn than buồn vì phải đọa vào cõi khổ (Do tạo ác-nghiệp mà đưa đến sự bi-ai trong đời này, gọi là 'buồn tôi đã tạo ác', nhưng mà nỗi bi ai này còn có hạn, chứ tương lại đọa vào ác đạo thọ báo lâu dài, cái khổ này vô cùng.)
18. Ở chỗ này hoan hỷ, tiếp ở chỗ khác cũng hoan hỷ, kẻ tu hành phước nghiệp, cả hai nơi đều hoan hỷ : nghĩ rằng 'tôi đã tạo phước' vì vậy nên nó hoan hỷ. Hơn nữa còn hoan hỷ vì được sinh vào cõi lành.
19. Dù tụng nhiều Kinh mà buông lung không thật hành theo, thì chẳng hưởng được phần ích lợi của Sa-môn, khác nào kẻ chăn bò, chỉ lo đếm bò cho người khác (để lấy công, chứ sữa thịt của bò thì không hưởng được) (Kẻ chăn bò thuê, cứ sáng sớm dắt bò ra đồng, tối lại lùa bò về chuồng giao cho chủ, ngày ngày chỉ đếm bò mà đổi lấy một ít tiền công, còn sữa, lạc, sanh tô, đề hồ của bò thì anh ta không hưởng được. Tụng kinh mà không tu-hành theo kinh thì chẳng hưởng được ích-lợi của kinh cuả kẻ tu hành.)
20. Tuy tụng ít Kinh mà thường y giáo hành trì, hiểu biết chân chánh, trừ diệt tham, sân, si, tâm hiền lành, thanh tịnh, giải thoát, xa bỏ thế dục, thì dù ở cõi này hay cõi khác, người kia vẫn hưởng phần ích lợi của Sa-môn.
 
2. Phẩm Không buông lung - APPAMADAVAGGO.
21. Không buông lung đưa tới cõi bất tử (Niết-bàn) , buông lung đưa tới đường tử sanh; người không buông lung thì không chết, kẻ buông lung thì sống như thây ma (Bởi vì người không buông lung mà chứng nhập cảnh Niết-bàn thì không còn luân hồi sanh-tử tiếp nối nữa. Còn người buông lung thì tuy sống mà vẫn như thây chết, không biết hướng thiện và nỗ-lực làm lành.).
22. Kẻ trí biết chắc điều ấy (bải này tiếp bài trên, khuyên đừng nên phóng dật mà gắng chuyên cần) , nên gắng làm chứ không buông lung. Không buông lung thì đặng an vui trong các cõi Thánh (Cảnh giới chư Phật, Bích-chi và A-la-hán) .
23. Nhờ kiên nhẫn, dõng mãnh tu thuyền-định và giải-thoát (muốn chứng đặng Niết-bàn thì phải trừ 4 ách) , mà kẻ trí được an ổn, chứng nhập Vô-thượng Niết-bàn.
24. Không buông lung, cố gắng, hăng hái chánh niệm, khắc kỷ theo tịnh hạnh, sinh hoạt đúng như pháp, thì tiếng lành càng ngày càng tăng trưởng.
25. Bằng sự cố gắng, hăng hái không buông lung, tự khắc chế lấy mình, mà kẻ trí tự tạo cho mình một hòn đảo (Như cõi đất cao có thể tránh khỏi thùy tai. Kẻ trí khi chứng được A-la-hán thì không còn bị phiền não quấy nhiễu, nhận chìm) chẳng có ngọn thủy triều (Các phiền não tham, sân, si, buộc ràng và sai sử chúng-sanh trong vòng ba cõi) nào nhận chìm được.
26. Người ám độn ngu si đắm chìm trong vòng buông lung, nhưng kẻ trí lại chăm giữ tâm mình không cho buông lung như anh nhà giàu chăm lo giữ của.
27. Chớ nên đắm chìm theo buông lung, chớ nên mê say với dục lạc; hãy nên kỉnh giác và tu thuyền, mới mong đặng an lạc.
28. Nhờ trừ hết buông lung, kẻ trí không còn lo sợ gì. Bậc Thánh Hiền khi bước lên lầu cao của trí-tuệ, nhìn lại thấy rõ kẻ ngu si ôm nhiều lo sợ, chẳng khác nào khi lên được núi cao, cúi nhìn lại muôn vật trên mặt đất.
29. Tinh-tấn giữa đám người buông lung, tỉnh táo giữa đám người mê ngủ, kẻ trí như con tuấn-mã thẳng tiến bỏ lại sau con ngựa gầy hèn.
30. Nhờ không buông lung, Ma-gia (Ma-già - Maghavà - , tên khác của trời Ðế-Thích (Sakka). Khi chưa đủ phúc báo làm trời Ðế-Thích, ở nhân gian tên là Ma-già, nhờ công-đức siêng-năng quát tước sạnh sẽ mà được làm chủ cõi chư tiên). lên làm chủ cõi chư thiên. Không buông lung luôn luôn được khen ngợi, buông lung luôn bị khinh chê.
31. Tỳ-kheo nào thường ưa không buông lung hoặc sợ thấy sự buông lung, ta ví họ như ngọn lửa hồng, đốt tiêu tất cả kiết-sử (Kiết-sử (Samyojana) tức là phiền-não (Kilesa), danh từ chuyên môn nhà Phật) tứ lớn chí nhỏ.
32. Tỳ-kheo nào thường ưa không buông lung hoặc sợ thấy sự buông lung, ta biết họ là người gần đến Niết-bàn, nhất định không bị sa đọa dễ dàng như trước.
3. Phẩm Tâm - CITAVAGGO.
33. Tâm kẻ phàm phu thường xao động biến hóa rất khó chế phục gìn giữ, nhưng kẻ trí lại chế phục tâm mình làm cho chánh trực một cách dễ dàng, như thợ khéo muốn uốn nắn mũi tên.
34. Như con cá bị quăng lên bờ sợ sệt và vùng-vẫy thế nào, thì cũng như thế, các ngươi hãy đem tâm lo sợ, phấn đấu để mau thoát khỏi cảnh giới ác-ma.
35. Tâm phàm phu cứ xoay vần theo ngũ dục, xao động không dễ nắm bắt; chỉ những người nào đã điều phục được tâm mình mới được yên vui.
36. Tâm phàm phu cứ xoay vần theo ngũ dục, biến hóa u-uẩn khó thấy, nhưng người trí lại thường phòng hộ tâm mình, và được yên vui nhờ tâm phòng hộ ấy.
37. Tâm phàm phu cứ lén lút đi một mình, đi rất xa, vô hình vô dạng như ẩn náu hang sâu (Mấy câu này đều hình dung cái Tâm) , nếu người nào điều phục được Tâm, thì giải thoát khỏi vòng ma trói buộc.
38. Người Tâm không an định, không hiểu biết chánh pháp, không tín tâm kiên cố, thì không thể thành tựu được trí tuệ cao siêu.
39. Người Tâm đã thanh-tịnh, không còn các điều hoặc-loạn, vượt trên những nghiệp thiện ác thông thường (Khi chứng được A-La-Hán thì vô-lậu thiện-nghiệp đã viên mãn, hữu lậu ác nghiệp và hữu lậu thiện nghiệp đã hết rồi, không còn tạo thêm nghiệp mới nữa, và tuy vẫn ở trong đạo-quả viên mãn mà thường làm những việc lợi tha một cách tự nhiên).
40. Hãy biết rằng thân này mong manh như đồ gốm và giam giữ Tâm người như thành quách, ngươi hãy đánh dẹp ma quân với thanh huệ kiếm sẵn có của mình và nắm giữ phần thắng lợi (Kết quả thắng lợi là chỉ cho cảnh giới thiền định được tiến bộ) , chứ đừng sanh tâm đắm trước (Không nên nhiễm trước vào cảnh giới đã chứng được, phải nỗ lực cầu tiến mãi).
41. Thân này thật là ngắn ngủi ! Nó sẻ ngủ một giấc ngủ dài dưới ba thước đất, vô ý thức, bị vất bỏ như khúc cây khô vô dụng (Phật-giáo đồ các nước Phật-giáo nam-phương mỗi khi lâm chung có lễ thỉnh chư tăng đến để cúng dường làm phước lần chót. Chư tăng liền tụng bài kệ này 3 biến) .
42. Cái hại của kẻ thù gây ra cho kẻ thù hay của oan gia đối với oan gia, cũng không bằng cái hại của tâm niệm hướng về hành vi tà-ác (Ðem tâm hướng về 10 hạnh ác (Akusala) : Sát sinh (Panatipato), thâu đạo (Adinnadanam), tà dâm (Kamesu micchacara), vọng ngữ (Musavado), lưỡng thiệt (Pisunavaca), thô-ác ngữ (Pharusa vaca), ỷ ngữ (Samphápphalapo), tham (abhikkha), sân (vydapado) tà kiến (micchoditthi) gây ra cho mình.
43. Chẳng phải cha mẹ hay bà con nào khác làm, nhưng chính tâm niệm hướng về hành vi chánh-thiện (Ðem tâm hướng về 10 hạnh lành (Kusala) : Bố-thí (Danam), trì-giới (Silam), tu thiền định (Bhavana), tôn kính (Apacaynnam), tác sự (Veỳavaccam), hồi hướng công đức (Pattidacam), tùy hỷ công đức (Pâanumodana), thính pháp (Dhammausavanam) thuyết pháp (Dhammadesana), Chánh kiến (Dithujjukammam) làm cho mình cao thượng hơn.
4. Phẩm Hoa - PUPPAVAGGO.
(Ngài Ngô Chi Khiêm dịch là Phẩm Vương-Hoa)
44. Ai chinh phục (1) được địa giới (2) , diêm-ma-giới (3), thiên-giới (4), và ai khéo giảng nói Pháp-Cú (5), như tay thợ khéo (6) nhặt hoa làm tràng ?
(1) : Chinh phục (Visjessati), cứ theo Pali nguyên chú (bản chú thích kinh Pháp-cú rất xưa và đầy đủ chi thiết bằng văn Pali của Ngài Buđhaghosa, căn bản của lời chú thích sau này. Bản này do E. W. Burlinghame dịch ra Anh-văn trong loại sách Harvard Oriental Series) là 'hiểu xác thật'. Bổn ở Miến-Ðiện chép là Vicessati, thì nên dịch là 'chọn tìm' hoặc 'dò xét'.
(2) Ðịa giới : (Pathavi) là chỉ tự-kỷ hay tự thân (Attabhava). Bổn Dhammapada Anh-văn của Ðại-đức Narađa dịch, trang 8 có chú thích rằng : 'This is one who will understand this self asit really is'. Câu này có nghĩa là như thật tự biết rõ mình.
(3) Diêm-ma-giới (Yamalokà) : theo nguyên chú thì bao quát cả 4 giới (Cat ubbhidam apayalokan ca) : địa-ngục, ngạ-quỉ, súc-sanh và A-tu-la (Asura). Bản chú bằng Anh-văn của Ngài Narada rằng : 4 'the four woeful states, viz : hell (địa ngục), Animal kindom (súc sanh), peta realm (ngạ quỉ) and the Asura realm (Atula).
(4) Thiên giới (Sadevakam) : theo nguyên chú thì bao quát 6 cõi trời dục giới và nhân giới (Imam sadevakan itmanussalokan ca). Ngài Narada chú 5 : 'Namely the world of human beings and the six celestial realms'.
(5) Pháp-cú (Dhammapada) tức là pháp-tích, pháp như 37 đạo phẩm (Bodhipakkhikà dhamma) v.v..
(6) Thợ khéo là thợ làm tràng hoa, để ví dụ cho người khéo giảng nói pháp-cú, có lớp-lang không lộn xộn như thợ xâu hoa vậy.
45. Bậc hữu-học (7) chinh phục được địa-giới, diêm-ma-giới, thiên-giới và bậc hữu-học khéo giảng nói pháp-cú như tay thợ khéo nhặt hoa làm tràng (8).
(7) Hữu-học (Sekha) : tức là các vị chứng sơ-quả Tu-đà-hoàn (Sotapattiphala), nhị quả Tư-đà-hàm (Sakadagamiphala), tam quả A-na-hàm (Anagamiphala) và sơ-quả hướng, nhị-quả-hướng, tam-quả-hướng, tứ-quả-hướng; vì những vị này còn phải học tập giới, định, huệ. Ðến khi chứng tứ-quả A-la-hán mới được gọi là Vô-học (Asekha).
(8) Bải tụng trên là hỏi, bài này đáp.
46. Hãy biết thân này như bọt nổi, rõ ràng là pháp huyển hóa, để bẻ gãy mũi tên cám dỗ của bọn ma quân (Sự dụ hoặc của Dục-cảnh) , mà thoát ngoài vòng dòm ngó của tử-thần.
47. Như nước lũ cuốn phăng những xóm làng say ngủ giữa đem trường (Những người đang say ngủ trong xóm làng giữa đêm khuya, bị nước lũ cuốn đi mà không hay biết. Người me miết trong dục-lạc cũng vậy) , tử thần sẽ lôi phăng đi những người mê muội sinh tâm ái trước những bông hoa (Cảnh dục lạc) mình vừa góp nhặt được.
48. Cứ sinh tâm ái trước và tham luyến mãi không chán những bông hoa mà mình vừa góp nhặt được, đó chính là cơ hội tốt cho tử thần lôi đi.
49. Hàng Sa-môn (mâu ni) (Muni : có nghĩa là người vắng lặng, nhân-từ, trí-tuệ thánh giả. Ở đây chỉ hàng sa-môn khất thực) đi vào xóm làng để khất thực ví như con ong đi kiếm hoa, chỉ lấy mật rồi đi chứ không làm tổn thương về hương sắc.
50. Chớ nên dòm ngó lỗi người, chớ nên dòm coi họ đã làm gì hay không làm gì (nguyên văn của câu này là 'Na paresam Katakamtam' dịch thẳng là 'chẳng nên dòm ngó người khác làm hay không làm') , chỉ nên ngó lại hành động của mình, thử đã làm được gì và chưa làm được gì.
51. Như thứ hoa tươi đẹp chỉ phô trương màu sắc mà chẳng có hương thơm, những người chỉ biết nói điều lành mà không làm điều lành chẳng đem lại ích lợi.
52. Như thứ hoa tươi đẹp vừa có màu sắc lại có hương thơm, những người nói điều lành và làm được điều lành, sẽ đưa lại kết quả tốt.
53. Như từ đống hoa có thể làm nên nhiều tràng hoa, từ nơi thân người có thể tạo nên nhiều việc thiện.
54. Mùi hương của các thứ hoa, dù là hoa chiên đàn, hoa đa-già-la hay hoa mạt-lỵ (Chiên-đàn na (Cadana), Ða-gia-la (Cagara) tên hai thứ cây thơm. Mạt-lỵ-ca (Mallika) là một thứ hoa nhỏ thơm, mọc tùm lum như giây bìm) đều không thể bay ngược gió, chỉ có mùi hương đức-hạnh của người chân chính, tuy ngược gió vẫn bay khắp cả muôn phương.
55. Hương chiên-đàn, hương đa-già-la, hương bạt-tất-kỳ (Vassiki : là Vũ quí hoa) , hương thanh-liên, trong tất cả thứ hương, chỉ thứ hương đức hạnh là hơn cả.
56. Hương chiên-đàn, hương đa-già-la đều là thứ hương vi diệu, nhưng không sánh bằng hương người đức hạnh, xông ngát tận chư thiên.
57. Người nào thành tựu các giới hạnh, hằng ngày chẳng buông lung, an-trụ trong chính-trí và giải thoát, thì ác ma không thể dòm ngó được.
58. 59. Như từ trong đống bùn nhơ vất bỏ, mới sinh ra hoa sen thanh khiết ngào ngạt làm đẹp ý mọi người, cũng thế, chỉ từ nơi chốn phàm phu manh muội mới sản xuất những đệ tử bậc chánh-giác, đem trí tuệ soi sáng thế-gian.
5. Phẩm Ngu - BALAVAGGO.
60. Ðêm rất dài đối với kẻ mất ngủ, đường rất xa đối với kẻ lữ hành mỏi mệt. Cũng thế, vòng luân hồi (Samsara : chỉ sự sanh tử lưu-chuyển mãi không ngừng) sẽ tiếp nối vô tận đối với kẻ ngu si không minh đạt Chánh-Pháp.
61. Không được kết bạn với kẻ hơn mình, không được kết với kẻ ngang mình, thà quyết chí ở một mình tốt hơn kết bạn với người ngu muội.
62. 'Ðây là con ta; đây là tài sản ta' : Kẻ phàm phu thường lo nghĩ như thế, nhưng chẳng biết chính ta còn không thiệt có, huống là con ta hay tài sản ta ?
63. Ngu mà tự biết ngu tức là có trí, ngu mà tự xưng rằng trí, chính đó mới thật là ngu.
64. Người ngu suốt đời gần gũi người trí, vẫn chẳng hiểu gì Chánh-Pháp, ví như cái muỗng múc thuốc thang luôn mà chẳng bao giờ biết được mùi vị của thuốc.
65. Người trí dù chỉ gần gũi người trí trong khoảnh khắc cũng hiểu ngay được chánh-pháp, chẳng khác gì cái lưỡi mới tiếp xúc với thuốc-thang đã biết ngay được mùi vị của thuốc.
66. Kẻ phàm phu không giác ngộ nên đi chung với cừu địch một đường. Cũng thế, những người tạo ác nghiệp nhất định phải cùng ác nghiệp đi đến khổ báo.
67. Những người gây điều bất thiện, làm xong ăn năn khóc lóc, giỏ lệ dầm-dề, vì biết mình sẽ phải thọ lấy quả báo tương lai (Thọ quả báo lành dữ tương lai tức là thọ thân dị-thục (vipaka). Ở đây chỉ riêng ác quả).
68. Những người tạo các thiện nghiệp, làm xong chẳng chút ăn năn, còn vui mừng hớn hở, vì biết mình sẽ thọ lấy quả báo tương lai (Ðây chỉ thiện quả).
69. Khi ác nghiệp chưa thành thục, người ngu tưởng như đường mật, nhưng khi ác nghiệp đã thành thục, họ nhất định phải chịu khổ đắng cay.
70. Từ tháng này qua tháng khác, với món ăn bằng đầu ngọn cỏ Cô-sa (cỏ thơm), người ngu có thể lấy để nuôi sống (Cô-sa (Kosa) tên cỏ thơm. Nguyên văn là Kusaggena, tức là dùng đầu ngọn cỏ Cô-sa) , nhưng việc làm ấy không có giá trị bằng một phần mười sáu của người tư duy Chánh-Pháp (Người tư duy Chánh-pháp (Sankhata Dhamman) là người thâm-nhập chánh-pháp, đây là người giác-ngộ Tứ-đế) .
71. Người cất sữa bò, không phải chỉ sáng chiều đã thành ra vị đề-hồ được (Muốn sữa đông đặc thành đề hồ không phải một ngày một đêm mà đung được kịp) , Cũng thế, kẻ phàm phu tạo ác nghiệp tuy chẳng cảm thụ ác quả liền, nhưng nghiệp lực vẫn âm thầm theo họ như lửa ngún giữa tro than.
72. Kẻ phàm phu, lòng thì muốn cầu được tri thức mà hành động lại dẫn tới diệt vong, nên hạnh phúc bị tổn hại, mà trí tuệ (Trong Hán văn chữ này cũng gọi là đầu-thủ, đầu não) cũng tiêu tan.
73. Kẻ ngu xuẩn thường hay muốn danh tiếng mà mình không xứng : chỗ ngồi cao trong tăng chúng, oai quyền trong tăng lữ, danh vọng giữa các gia tộc khác.
74. Hãy để cho người Tăng kẻ Tục nghĩ rằng : 'sự này do ta làm, trong mọi việc lớn hay nhỏ đều coi theo ta cả'. Kẻ phàm phu cứ tưởng lầm như thế, nên lòng tham lam ngạo mạn tăng hoài.
75. Một đàng đưa tới thế-gian, một đàng đưa tới Niết-bàn, hàng Tỳ-kheo đệ-tử Phật, hãy biết rõ như thế, chớ nên tham đắm thế lợi để chuyên chú vào đạo giải-thoát.
6. Phẩm Trí-giả - PANDITAVAGGO.
(bản chữ Nhật dịch là Hiền Phẩm).
76. Nếu gặp được người hiền trí thường chỉ bày lầm lỗi và khiển trách mình những chỗ bất toàn, hãy nên kết thân cùng họ và xem như bậc trí thức đã chỉ cho kho tàng bảo vật. Kết thân với người trí thì lành mà không dữ.
77. Những người hay khuyên răn dạy dỗ, can ngăn tội lỗi kẻ khác, được người lành kính yêu bao nhiêu thì bị người dữ ghét bỏ bấy nhiêu.
78. Chớ nên làm bạn với người ác, chớ nên làm bạn với người kém hèn, hãy nên làm bạn với người lành, với người chí khí cao thượng (người không còn điều ác ở thân khẩu ý nữa, chuyên việc tế độ chúng-sanh) .
79. Ðược uống nước Chánh-pháp thì tâm thanh tịnh an lạc, nên người trí thường vui mừng, ưa nghe Thánh-nhơn (Chư Phật và A la Hán) thuyết pháp.
80. Người tưới nước lo dẫn nước, thợ làm cung tên lo uốn cung tên, thợ mộc lo nảy mực đo cây, còn người trí thì lo tự điều phục lấy mình (khắc chế 5 căn đừng cho thấy, nghe, ngửi, nếm xúc đều quấy).
81. Như ngọn núi kiên-cố, chẳng bao giờ bị gió lay, những lời ủy báng hoặc tán dương chẳng bao giờ làm lay động người đại-trí.
82. Như hồ nước sâu, vừa yên lặng trong sạch, những người có trí tuệ sau khi nghe pháp, tâm họ cũng thanh tịnh và yên lặng.
83. Người lành thường xa lìa mà không bàn đến những điều tham dục. Kẻ trí đã xa lìa niệm-lự mừng lo, nên chẳng còn lay động vì khổ, lạc.
84. Không vị tình thiên hạ, cũng không vị tình một người khác, người trí không làm bất cứ điều gì sai quấy; không nên cầu con trai, sự giàu có, vương quốc bằng việc sai quấy; không nên cầu mong thành công của mình bằng những phương-tiện bất chánh. Ðược như vậy mới thật là người đạo đức, trí tuệ và ngay thẳng.
85. Trong đám quân-nhân này chỉ có một ít người đã đạt đến bờ kia (cảnh giới Niết Bàn) , còn bao nhiêu người khác thì đang bồi hồi vơ vẩn tại bờ này(cảnh giới sinh tử).
86. Những người nào hay thuyết pháp, hay theo Chánh-pháp tu hành, thì được đạt tới bờ kia, thoát khỏi cảnh giới tà-ma (cảnh giới sanh tử. Câu này ý nghĩa liên quan tới câu trên).
87. Người trí hãy nên rời bỏ hắc-pháp (ác pháp) mà tu tập bạch-pháp (thiện pháp), xa gia đình nhỏ hẹp, xuất gia sống độc thân theo phép tắc Sa-môn.
88. Người trí phải gột sạch những điều cấu-uế trong tâm, hãy cầu cái vui Chánh-Pháp, xa lìa ngũ dục mà chứng Niết-bàn.
89. Người nào thường chính-tâm tu tập các phép giác-chi (1), xa lìa tánh cố chấp (2), rời bỏ tâm nhiễm ái, diệt hết mọi phiền não (3) để trở nên sáng suốt, thì sẽ chứng Niết-bàn ngay trong đời hiện tại.
(1) : Giác chi (Sambodhiyangam) là 'thất bồ-đề phần' hay 'thất giác chi' là : Niệm-giác-chi (Satisambojjhango), trạch-pháp giác-chi (Dhammavicayasambojjhango), tinh tấn giác-chi (Virihasambojjhango), định giác-chi (Samadhisalbojjhango), xã giác-chi (Upekhasambojjhango).
(2) : Chứng được Niết-bàn, giải thoát tự tại.
(3) : Nguyên văn : Khinasava, dịch là 'dứt hết các lậu' hoặc 'các lậu đã sạch hết', tức là dứt hết mọi phiền não.
7. PHẨM A-LA-HÁN (1) : ARAHANTAVAGGO
90. Người đã giải thoát hết thảy, đã dứt hết thảy buộc ràng (2), là người đi đường đã đến đích (3), chẳng còn chi lo sợ.
(1) : A-la-hán (Arahant) là bậc thánh đã dứt sạch mọi phiền não, chứng Niết-bàn, không còn bị sanh tử nữa.
(2) : Trói buộc (Gantha) có 4 thứ : Tham (Abhaijjha), sân (vyapada), giới-cấm-thủ (Sibbhataparo-Masa), kiến-thủ (Idan saccabhinivesa).
(3) : Con đường hữu vi lậu-nghiệp đã đi cùng. Có chỗ gọi là 'các lậu đã dút sạch, việc tu hành đã xong, phạm-hạnh đã thành lập'.
91. Kẻ dũng mãnh chánh-niệm, tâm không ưa thích tại gia, ví như con ngỗng khi ra khỏi ao, chúng bỏ lại cái nhà ao hồ của chúng không chút nhớ tiếc. (Con ngỗng mỗi khi ra khỏi ao thì chẳng còn nghĩ tưởng đến những mồi, cỏ, nước trong ao là của mình nữa; vị A-la-hánh đã xuất gia rồi thì không còn luyến tưởng tới gia tài của cải nữa.)
92. Những vị A-la-hán không chất chứa tài sản (4), biết rõ mục đích sự ăn uống (5), tự tại đi trong cảnh-giới 'không, vô tướng, giải-thoát' (6), như chim bay giữa hư không.
(4) : Chẳng còn hoạt động theo nghiệp lực.
(5) : Biết rõ sự ăn uống là cốt để duy trì tánh mạng để tu hành.
(6) : Chứng được Niết-bàn gọi là giải thoát (Vimokha); lại gọi là không (Sinnata), vì không còn có tham, sân si, phiền não; lại gọi là Vô-tướng (animitta), vì từ nay đã được tự-tại không còn đảm trước các tướng tham dục.
93. Những vị A-la-hán, dứt sạch các hoặc lậu (7), không tham đắm uống ăn, tự tại đi trong cảnh giới 'không, vô-tướng, giải-thoát', như chim bay giữa hư không.
(7) : Lậu có 4 thứ : Dục lậu (Kamasava), hữu lậu (Bhavasava), kiến lậu (Ditthasava), vô minh lậu (Avijjasava).
94. Những vị A-la-hán, đã tịch tịnh được các căn, như tên kỵ-mã đã điều được ngựa lành, nên không còn phiền não ngã mạn và được các hàng nhơn thiên kính mộ.
95. Những vị A-la-hán, đã bỏ hết lòng sân hận, tâm như cõi đất bằng, lại chí thành kiên cố như nhân-đà yết-la (8), như ao sâu không bùn, nên chẳng còn bị luân-hồi xoay chuyển.
(8) : Nhân-đà-yết-la (Indakhila), nhiều bản dịch là môn-hạn (chắn cửa), tức là đặt một tảng đá giữa chỗ cửa lớn, dùng để chặn then cửa để đóng cho chắc. Có một chỗ nói inda-khila theo Phạn tự là Indrakhila, tức cái trụ của trời nhân đà la (Ðế Thích). Ở tại chỗ tiến vào thành, dựng một cái trụ lớn để tượng trưng chỗ ở của nhân-đà-la (thần bảo hộ của dân Ấn-độ). Chính ngày xưa đã dịch là cái tràng kiên cố, là bảy tràng đế thích, là đài-tọa.
96. Những vị A-la-hán, ý nghiệp thường vắng lặng, ngữ nghiệp, hành nghiệp thường vắng lặng, lại có chánh trí giải-thoát, nên được an ổn luôn.
97. Những vị A-la-hán chẳng còn phải tin ai (9), đã thấu hiểu đạo Vô-vi, dứt trừ vĩnh viễn nguyên nhân (10) cùng quả báo ràng buộc (11), lòng tham dục cũng xa lìa. Chính đó là bậc Vô-thượng-sĩ.
(9) : Vô tín (Assađho) hoặc dịch là Bất-tín, ý nói vị thánh nhân tự mình chứng biết chứ không phải do ai làm cho giác ngộ.
(10) : Các nghiệp thiện, nghiệp ác trong vòng hữu lậu thế gian.
(11) : Sanh tử luân hồi.
98. Dù ở xóm làng, dù ở rừng núi, dù ở đất bằng, dù ở gò-trúng (12), bất cứ ở chốn nào mà có vị A-la-hán, thì ở đó đầy dẫy cảnh tượng yên vui.
(12) : Nguyên văn chép : Ninna là chỗ thấp, Thala là chỗ cao.
99. Lâm-dã là cảnh vui đối với vị A-la-hán, nhưng người đời chẳng ưa thích, trái lại dục lạc là cảnh ưa thích đối với người đời, vị A-la-hán lại lánh xa.
8. PHẨM NGÀN - SAHASSAVAGGO
100. Tụng đến ngàn câu vô nghĩa, chẳng bằng một câu có nghĩa lý, nghe xong tâm liền thanh tịnh.
101. Tụng đến ngàn câu kệ vô nghĩa, chẳng bằng một câu kệ có nghĩa lý, nghe xong tâm liền thanh tịnh.
102. Tụng đến trăm câu kệ vô nghĩa, chẳng bằng một pháp-cú (1), nghe xong tâm liền thanh tịnh.
(1) : Theo bản Tích-Lan thì chữ này là Dhammapada, nên dịch là 'Pháp cú', nhưng theo bản của 'hiệp hội xuất bản Pali thánh-điển' thì chép là Gathapada, chữ này nên dịch là 'nhất cú kệ'.
103. Thắng ngàn quân địch chưa thể gọi là thắng, tự thắng được mình mới là chiến công oanh liệt nhất.
104. Tự thắng mình còn vẻ vang hơn thắng kẻ khác. Muốn thắng mình phải luôn luôn chế ngự lòng tham dục (câu này liên quan với câu trên).
105. Dù là thiên thần, càn-thát-bà (2), dù là ma-vương (3) hay phạm-thiên (4), không một ai chẳng thất bại trước người đã tự thắng.
(2) : Càn-thát-bà (Gandhabha) tên một vị nhạc thần ở thiên giới.
(3) : Tên một vị thiên thần.
(4) : Phạm thiên tức là Bà-la-môn-thiên (Brahma).
106. Mỗi tháng bỏ ra hàng ngàn vàng để sắm vật hy-sinh (5) tế tự cả trăm năm, chẳng bằng trong giây lát cúng dường bậc chân tu; cúng duờng bậc chân tu trong giây lát thắng hơn tế tự quỷ thần cả trăm năm.
(5) : Nguyên văn : Yittham va. Hutam va, gồm có nghĩa là cúng hy sinh, là tế-tự, là cúng dường v.v... đồng nghĩa là bố thí trong hội hè, lễ tiết; Hutam thì có nghĩa là dự bị cung cấp khách qua đường, hoặc làm việc cúng dường dựa theo một tín ngưỡng về tác nghiệp và quả báo mà mình tin tưởng.
107. Cả trăm năm ở tại rừng sâu thờ lửa, chẳng bằng trong giây lát cúng dường bậc chân tu, cúng dường bậc chân tu trong giây lát thắng hơn thờ lửa cả trăm năm.
108. Suốt một năm bố thí cúng dường để cầu phước, công đức chẳng bằng một phần tư sự kính lễ bậc Chính-trực (Chính-giác) (chỉ tứ quả thánh nhân).
109. Thường hoan hỷ, tôn trọng, kính lễ các bậc trưởng lão (người tuổi cao đức trọng) thì được tăng trưởng bốn điều : sống lâu, đẹp đẽ, vui vẻ, khoẻ mạnh (Các tăng lữ ở các nước Nam phương, mỗi khi thọ người lễ kỉnh thì đọc bài tụng này).
110. Sống trăm tuổi mà phá giới và buông lung, chẳng bằng sống chỉ một ngày mà trì giới, tu thiền định.
111. Sống trăm tuổi mà thiếu trí-huệ, không tu thiền, chẳng bằng sống chỉ một ngày mà đủ trí, tu thiền định.
112. Sống trăm tuổi mà giải đãi không tinh tấn, chẳng bằng sống chỉ một ngày mà hăng hái tinh cần.
113. Sống trăm tuổi mà không thấy pháp vô thường sinh diệt (Năm uẩn sanh diệt, tức là các pháp do nhân duyên hòa hợp, không thường trú) , chẳng bằng sống chỉ một ngày mà được thấy pháp sinh diệt vô thường.
114. Sống trăm tuổi mà không thấy đạo tịch tịnh vô vi, chẳng bằng sống chỉ một ngày mà được thấy đạo tịch tịnh vô vi.
115. Sống trăm tuổi mà không thấy pháp tối thượng, chẳng bằng sống chỉ một ngày mà được thấy pháp tối thượng.
9. PHẨM ÁC - PAPAVAGGO
116. Hãy gấp rút làm lành, chế-chỉ tâm tội ác. Hễ biếng nhác việc lành giờ phút nào thì tâm ưa chuyện ác giờ phút ấy.
117. Nếu đã lỡ làm ác, chớ nên thường làm hoài, chớ vui làm việc ác; hễ chứa ác nhất định thọ khổ.
118. Nếu đã làm việc lành; hãy nên thường làm mãi, nên vui làm việc lành; hễ chứa lành nhất định thọ lạc.
119. Khi nghiệp ác chưa thành thục, kẻ ác cho là vui, đến khi nghiệp ác thành thục, kẻ ác mới hay là ác.
120. Khi nghiệp lành chưa thành thục, người lành cho là khổ, đến khi nghiệp lành thành thục, người lành mới biết là lành.
121. Chớ khinh điều ác nhỏ (1), cho rằng 'chẳng đưa lại quả báo cho ta'. Phải biết giọt nước giỏ lâu ngày cũng làm đầy bình. Kẻ ngu phu sỡ dĩ đầy tội ác bởi chứa dồn từng khi ít mà nên.
(1) : Nguyên văn : Mappamannetha, có 2 nghĩa : a) Ma-appamnnati, là 'chớ kinh thị' ; b) Ma-appa Mannati, là 'chớ tưởng ít'.
122. Chớ khinh điều lành nhỏ, cho rằng 'chẳng đưa lại quả báo cho ta'. Phải biết giọt nước giỏ lâu ngày cũng làm đầy bình. Kẻ trí sở dĩ toàn thiện bởi chứa dồn từng khi ít mà nên.
123. Như người đi buôn mang nhiều của báu mà thiếu bạn đồng hành, tránh xa con đường nguy hiểm làm sao, như kẻ tham sống tránh xa thuốc độc thế nào, thì các ngươi cũng phải tránh xa điều ác thế nấy.
124. Với bàn tay không thương tích, có thể nắm thuốc độc mà không bị nhiễm độc, với người không làm ác thì không bao giờ bị ác.
125. Ðem ác ý xâm phạm đến người không tà vạy, thanh tịnh vô nhiễm, tội ác sẽ trở lại kẻ làm ác như ngược gió tung bụi.
126. Một số sinh ra từ bào thai, kẻ ác thì đọa vào địa ngục, người chính trực thì sinh lên chư thiên, nhưng cõi Niết-bàn chỉ dành riêng cho những ai đã diệt sạch nghiệp sanh tử.
127. Chẳng phải bay lên không trung, chẳng phải lặn xuống đáy bể, chẳng phải chui vào hang sâu núi thẳm, dù tìm khắp thế gian này, chẳng có nơi nào trốn khỏi ác nghiệp đã gây.
128. Chẳng phải bay lên không trung, chẳng phải lặn xuống đáy bể, chẳng phải chui vào hang sâu núi thẳm, dù tìm khắp thế gian này, chẳng có nơi nào trốn khỏi tử thần.
10. PHẨM ÐAO TRƯợNG - DANDAVAGGO
(Danda : hình phạt)
129. Ai ai cũng sợ cũng sợ gươm đao; ai ai cũng sợ sự chết; vậy nên lấy lòng mình suy lòng người, chớ giết chớ bảo giết.
130. Ai ai cũng sợ gươm đao; ai ai cũng thích được sống còn; vậy nên lấy lòng mình suy lòng người, chớ giết chớ bảo giết.
131. Người nào cầu hạnh phúc cho mình mà lại lấy đao gậy phá hoại hạnh phúc kẻ khác, thì sẽ không được hạnh phúc.
132. Người nào cầu hạnh phúc cho mình mà không lấy đao gậy phá hoại hạnh phúc kẻ khác, thì sẽ được hạnh phúc.
133. Chớ nên nói lời thô ác. Khi ngươi dùng lời thô ác nói với người ác, người khác cũng dùng lời thô ác nói với ngươi, thương thay những lời nóng giận thô ác chỉ làm cho các ngươi đau đớn khó chịu như đao gậy mà thôi.
134. Nếu ngươi mặc nhiên như cái đồng-la bể trước những người đem lời thô ác cãi-vã đến cho mình, tức là ngươi đã tự-tại đi trên đường Niết-bàn, người kia chẳng làm sao tìm sự tranh cãi với ngươi được nữa.
135. Như với chiếc gậy, người chăn trâu xua trâu ra đồng, sự già sự chết cũng thế, thường xua chúng-sanh đến tử-vong.
136. Kẻ ngu phu tạo các ác nghiệp vẫn không tự biết có quả báo gì chăng ? Người ngu tự tạo lấy lửa đốt mình.
137-140. Nếu lấy đao gậy hại người toàn thiện toàn nhân (chỉ vị A-la-hán đã sạch hết các lậu), lập tức kẻ kia phải thọ lấy đau khổ trong mười điều này : Thống khổ về tiền tài bị tiêu mất, thân thể bị bại hoại, hoặc bị trọng bịnh bức bách, hoặc bị tán tâm loạn ý, hoặc bị vua quan áp bách, hoặc bị vu trọng tội, hoặc bị quyến thuộc ly tán, hoặc bị tài sản tan nát, hoặc phòng ốc nhà cửa bị giặc thiêu đốt, và sau khi chết bị đọa vào địa-ngục.
141. Chẳng phải đi chân không, chẳng phải để tóc xù (bờm), chẳng phải xoa tro đất vào mình, chẳng phải tuyệt thực, chẳng phải nằm trên đất, chẳng phải để thân hình nhớp nhúa, cũng chẳng phải ngồi xổm (1) mà người ta có thể trở nên thanh tịnh. Nếu không dứt trừ nghi hoặc (2).
(1) : Ðây là một cách ngồi xổm đặc biệt mà các người tu ngoại đạo xưa Ấn-độ, thùng dùng để hành hạ xác thân.
(2) : Bài này nói về các cách tu khổ hạnh vô ích, không thể chứng Niết-bàn.
142. Người nào nghiêm giữ thân tâm, chế ngự khắc phục ráo riết, thường tu phạm-hạnh, không dùng đao gậy gia hại sanh linh, thì chính người ấy là Bà-la-môn, là Sa-môn, là Tỳ-khưu vậy.
143. Biết lấy điều hổ thẹn để tự cấm ngăn mình, thế gian ít người làm được. Nhưng người đã được, họ khéo tránh hổ-nhục như ngựa hay khéo tránh roi da.
144. Các ngươi hãy nỗ lực sám hối như ngựa hay còm thêm roi. Hãy ghi nhớ lấy chánh tín, tịnh giới, tinh tiến, tam-ma-địa (thiền định), trí phân biệt Chánh Pháp và minh-hành-túc (Trí và hành đầy đủ) để tiêu diệt vô lượng thống khổ.
145. Người tưới nước lo dẫn nước, thợ làm tên lo uốn tên, thợ mộc lo nảy mực cưa cây, người làm lành thì tự lo chế ngự.
11. PHẨM LÃO - JARAVAGGO
(Nói về sự già)
146. Làm sao vui cười, có gì thích thú, khi ở trong cõi đời luôn luôn bị thiêu đốt (1) ? Ở trong chỗ tối tăm bưng bít (2), sao không tìm tới ánh sáng quang minh (3) ?
(1) : Thế giới bị 11 thứ lửa này thường thiêu đốt : Tham (Raga), Sân (dosa), Si (moha), Bịnh (Vyadhi), Lão (Jara), Tử (Marana), Sàu (Soka), Bi (Parideva), Khổ (Dukha), Ưu (Domanasa), Não (Upayasa).
(2) : Ví vô minh.
(3) : Dụ trí-tuệ.
147. Hãy ngắm cái thân tốt đẹp này chỉ là đống xương (4) lở lói (5), chồng chất bệnh tật đã được người ta tưởng là yêm ái (6), trong đó tuyệt đối không có gì trường tồn.
(4) : Chín chỗ nơi thân : 2 mắt, 2 mũi, miệng, đường đại, đường tiểu.
(5) : Thân này do trên 300 đốt xương hợp thành.
(6) : Lầm nghĩ thân này mỹ lệ , êm ái, lâu bền.
148. Cái hình hài suy già này là cái rừng tập trung bịnh tật, dễ hư nát. Ðã có tụ tất có tán, có sinh tất có tử.
149. Trái hồ-lô (trái bầu) về mùa thu thì khô tàn. Thân này cũng vậy, khi đã hư hoại, thì chỉ còn một đống xương màu lông hạc; rõ thật chẳng có gì vui.
150. Thân này là cái thành xây bằng xương cốt và tô quét bằng máu thịt để cất chứa sự già sự chết, ngã mạn và dối gian (Hư ngụy (Makkho), xưa dịch là che lấp (phú) ).
151. Cái xe vua đi dù được trang hoàng lộng lẫy cũng phải hư hoại, thân này dù có trau tria cũng có lúc già yếu. Chỉ trừ thiện pháp của bậc thiện nhân (chỉ Phật, Bích Chi, La Hán) là không bị suy già và cứ di-chuyển từ người lành này sang người lành khác.
152. Những người ít nghe kém học, suốt đời chỉ như trâu nái, gân thịt dẫu lớn mạnh mà trí tuệ không tăng thêm.
153,154. Ta lang thang trong vòng luân hồi qua bao kiếp sống, tìm mãi mà không gặp kẻ làm nhà. Ðau khổ thay kiếp sống cứ tái diễn mãi ! Hỡi kẻ làm nhà ! Nay ta đã gặp được ngươi rồi. Ngươi không được làm nhà nữa ! Bao nhiêu rui mè của ngươi đều gãy cả rồi, kèo cột của ngươi đã tan vụn cả rồi. Trí ta đã đạt đến vô-thượng Niết-bàn, bao nhiêu dục vọng đều dứt sạch cả.(7)
(7) : Ðây là lời đức Thích-Ca Mâu-Ni khi thành đạo, tâm sinh hoan-hỷ mà nói ra. Sau này có lần, nhân ngài A-Nan hỏi mà Phật nói lại lời đó. Kẻ làm nhà là chỉ nguyên nhân luân hồi, lòng tình dục; nhà là chỉ thân thể; rui mè là chỉ các thứ dục khác; kèo cột là chỉ vô minh.
155. Lúc thanh niên cường tráng đã không kiếm ra tài của, cũng chẳng lo tu hành, thì khi già cả chẳng khác gì con cò già bên bờ ao, chẳng kiếm ra mồi phải khô héo chết mòn.
156. Lúc thanh niên cường tráng đã không kiếm ra tài của, cũng chẳng lo tu hành, nên khi già nằm xuống, dáng người như cây cung gãy cứ buồn than về dĩ vãng.
12. PHẨM TỰ-KỶ - ATTAVAGGO
157. Nếu tự biết thương mình, phải gắng tự bảo hộ, trong ba thời phải có một, người có trí nên tỉnh ngộ chớ mê man (1).
(1) : Thông thường nói ba thời là đầu đêm, giữa đêm, cuối đêm. Ở đây 3 thời là chỉ vào một đời người : thanh niên, trung niên, lão niên. Người ta lúc thanh niên nên nỗ lực học tập, trung-niên nên dạy học, hoằng pháp, tu thiền định v.v.. nhưng trong 2 thời gian đó mà chưa kịp thích thời hành sự thì lúc lão niên phải tỉnh ngộ học tập gấp rút nếu không thì luống uổng một đời, mang lấy thống khổ, chẳng ích chi.
158. Trước hãy tự đặt mình vào Chánh-đạo rồi sau giáo hóa kẻ khác, được như vậy mới tránh khỏi điều lầm lỗi xảy ra.
159. Nếu muốn khuyên người khác nên làm như mình, trước hãy sửa mình rồi sau sửa người, vì tự sửa mình vốn là điều khó nhất.
160. Chính tự mình làm chỗ nương cho mình (2), chứ người khác làm sao nương được ? Tự mình khéo tu tập mới đạt đến chỗ nương dựa nhiệm mầu (3).
(2) : Phật giáo chủ trương mỗi cá nhân phải tự lực lo giải thoát cho mình. Phật giáo đồ phát nguyện quy y Phật, Pháp, Tăng Tam-bảo, không có nghĩa là phát một lời cầu-đạo để Tam-bảo lo giải thoát cho, song Tam-bảo là đức Thầy chỉ đạo tu-hành đúng đường để được giải-thoát, vậy nên muốn đến cảnh-giới giải-thoát tự-tại là tự mỗi người phải gắng sức thật hành đúng lời Tam-bảo chỉ dạy.
(3) : Chỉ quả vị A-la-hán.
161. Ác nghiệp chính do mình tạo, từ mình sinh ra. Ác nghiệp làm hại kẻ ngu phu dễ dàng như kim cang phá hoại bảo thạch.
162. Sự phá giới làm hại mình như giây mang-la bao quanh cây Ta-la làm cho cây này khô héo (4). Người phá giới chỉ là người làm điều mà kẻ thù muốn làm cho mình.
(4) : Mạng-la-phạm (Maluva) một loại dây bìm. Cây Ta-la khi đã bị nó leo quấn vào là khô chết ngay.
163. Việc hung ác thì dễ làm nhưng chẳng lợi gì cho ta, trái lại việc từ thiện có lợi cho ta thì lại rất khó làm.
164. Những người ác-tuệ ngu si, vì tâm tà kiến mà vu miệt giáo pháp A-la-hán, vu miệt người hành Chánh-đạo và giáo pháp Ðức Như-Lai để tự mang lấy bại hoại, như giống cỏ cách-tha, hễ sinh hoa quả xong liền tiêu diệt.(5)
(5) : Cách-ha-cách (Katthaka) loại cây lau, có tên là cách-tha-cách trúc (velu-sankhata kattha), hễ ra hoa kết trái rồi là chết.
165. Làm dữ bởi ta mà nhiễm ô cũng bởi ta, làm lành bởi ta mà thanh tịnh cũng bởi ta. Tịnh hay bất tịnh đều bởi ta, chứ không ai có thể làm cho ai thanh tịnh được ?
166. Chớ vì lợi ích cho kẻ khác mà quên hẳn lợi ích cho chính mình (chỉ việc giải thoát sinh tử) . Người biết lo ích lợi mình mới thường chuyên tâm vào những điều ích lợi.
13. PHẨM THẾ GIAN - LOKAVAGGO
167. Chớ nên theo điều ty liệt, chớ nên đem thân buông lung, chớ nên theo tà thuyết, chớ làm tăng trưởng tục-trần (ở Tích Lan giải thích là Luân hồi).
168. Hăng hái đừng buông lung, làm lành theo Chánh-pháp. Người thực hành đúng Chánh-pháp thì đời này vui đời sau cũng vui. (1)
(1) : Sau khi đức Phật thành đạo, lần đầu Ngài trở về hoàng cung tại thành Ca-tỳ-La (Kapila), sáng hôm sau Ngài vẫn chiếu lệ mang bát đi khất thực. Vua Tinh Phạn (Suđhodana) thấy vậy vội đến trước đức Phật mà nói rằng : 'Này con ơi ! Sao làm nhục nhà ta vậy ? Con vốn là chủ thành này, từng ở trên châu báu, nay cứ cầm bát lần đi từng nhà, có phải hổ nhục cho ta lắm sao !'. Ðức Phật liền nói cho vua nghe đó là phép tắc lâu đời của chư Phật, và nói 2 bài này. Nếu theo chỗ chú giải xưa nay thì 2 bài này có nghĩa, bài 168 : 'Chớ nhác bỏ việc lần theo từng nhà, khất thực. Cẩn thận giữ đúng hạnh trì-bát này, ai làm theo hạnh này, thì đời này, đời sau đều khoái lạc'. Bài 169 : 'Cẩn thận làm đúng hạnh này, chớ làm theo phóng dật. Ai làm đúng hạnh này, thì đời này, đời sau đều được khoái lạc.'
169. Hãy làm lành theo Chánh-pháp, việc ác tránh không làm. Người thực hành đúng Chánh-pháp thì đời này vui đời sau cũng vui.
170. 'Như bọt nước trôi sông, như lầu sò chợ bể' (2). Nếu xem đời bằng cặp mắt ấy, chẳng còn sợ thần chết kéo lôi.
(2) : Lầu sò chợ bể là dịch nghĩa chữ 'Thần lâu hải thị' để chỉ thị cảnh huyễn-hóa không thật. Những làn khí bốc lên trên mặt biển đụng phải ánh nắng, hoặc làn không khí tương phản mà hiện ra những bóng hình nhìn xa như lầu đài chợ búa. Người xưa tin những làn khí ấy là hơi của giống sò thần tự dưới đáy bể phun lên.
171. Giả sử thế-gian này có được trang hoàng lộng lẫy như chiếc xe của vua đi nữa, thì trong số người đến xem, chỉ người ngu mới tham đắm, chứ kẻ trí chẳng hề bận tâm.
172. Người nào trước buông lung sau lại tinh tấn, người đó là ánh sáng chiếu cõi thế gian như vừng trăng ra khỏi mây ám.
173. Người nào trước làm ác sau lại làm lành, người đó là ánh sáng chiếu cõi thế gian như vừng trăng ra khỏi mây ám.
 
174. Như chim thoát khỏi lưới, chẳng mấy con bay thẳng lên trời cao, trong thế gian này chẳng mấy người sáng suốt trông thấy cao xa.
175. Con thiên nga chỉ bay được giữa không trung, người có thần thông chỉ bay được khỏi mặt đất, duy bậc đại trí, trừ hết ma-quân mới bay được khỏi thế gian này.
176. Những ai vi phạm đạo Nhất-thừa (Nhất pháp (Ekham Dhamman) tức là chân đế, chân lý (Saccam) ) , những ai ưa nói lời vọng ngữ, những ai không tin tưởng đời sau, thì chẳng có điều ác nào là họ không làm được.
177. Người xan tham không thể sanh lên cõi trời, người ngu si không ưa tán dương việc bố-thí, nhưng người trí thấy bố-thí lại tùy hỉ công đức và tương lai họ sẽ dự hưởng phần an lạc.
178. Người thống suất cõi đất, người làm chủ chư thiên, hết thảy vị thế-chủ ấy, chẳng sánh kịp một vị đã chứng quả Tu-đà-hoàn (Dự lưu quả (Sotapattiphalam) là quả vị đầu trong 4 quả vị Niết-bàn Thanh-văn).
14. PHẨM PHẬT ÐÀ - BUDDHAVAGGO
179. (1) Chẳng ai hơn nổi người đã thắng phục dục tình. Người đã thắng phục dục tình không còn bị thất bại trở lại (2), huống Phật-trí mênh mông không dấu tích (3); các ngươi lấy gì mà hòng cám dỗ được ư ?
(1) : Hai bài sau này đức Phật đối Ma-nữ mà nói.
(2) : Ý toàn câu là 'cái tình dục đã bị chinh phục rồi, thì dù đang ở thế gian này, nó cũng không thể theo dõi người kia nữa'.
(3) : Ðã bỏ hết ái dục.
180. Người dứt hết trói buộc, ái-dục còn khó cám dỗ được họ, huống Phật-trí mênh mông không dấu tích, các ngươi lấy gì mà hòng cám dỗ được ư ?
181. Người trí thường ưa tu thuyền định, ưa xuất gia và ở chỗ thanh vắng. Người có Chánh-niệm và Chánh-giác bao giờ cũng được sự ái kính của Thiên nhơn.
182. Ðược sinh làm người là khó, được sống còn là khó, được nghe Chánh-pháp là khó, được gặp Phật ra đời là khó.
183. Chớ làm các điều ác, gắng làm các việc lành, giữ tâm ý trong sạch. Ấy lời chư Phật dạy.
184. Chư Phật thường dạy Niết-bàn là quả vị tối thượng, nhẫn nhục là khổ hạnh tối cao. Xuất gia mà não hại người khác, không gọi là xuất gia Sa-môn.
185. Chớ nên phỉ báng, đừng làm não hại, giữ giới luật tinh nghiêm (4), uống ăn có chừng mực, riêng ở chỗ tịch tịnh, siêng tu-tập thuyền-định (5); ấy, lời chư Phật dạy.
(4) : Nguyên văn : Patimokkha tức là biệt giải thoát luật nghi giới; gồm 227 giới điều chủ yếu mà tất cả Tỳ kheo phải giữ.
(4) : Chỉ 8 định (Atthasalacattu) : 4 thiền định và 4 không định.
186,187. Giả sử mưa xuống bạc vàng cũng chẳng thỏa mãn được lòng tham dục. Người trí đã biết rõ sự dâm dật vui ít mà khổ nhiều. Thế nên, dù sự dục lạc ở cõi trời, ngươi cũng chớ sinh tâm mong cầu. Ðệ tử các đấng Giác-ngộ, chỉ mong cầu diệt trừ ái dục mà thôi.
188 - 192. Vì sợ hãi bất an mà đến quy y thần núi, quy y rừng cây, quy y miễu thờ thọ-thần (6), nhưng đó chẳng phải là chỗ nương dựa yên-ổn, là chỗ quy y tối thượng, ai quy y như thế, khổ não vẫn còn nguyên. Trái lại, quy y Phật, Pháp, Tăng, phát trí tuệ chân chánh, hiểu thấu bốn lẽ mầu : biết khổ, biết khổ-nhân, biết khổ diệt và biết tám chi Thánh-đạo (7), diệt trừ hết khổ não. Ðó là chỗ quy y an ổn, là chỗ quy y tối thượng. Ai quy y được như vậy mới giải thoát khổ đau.
(6) : Thọ chi đề (Rukkha cetya) là 'thọ miếu', vị thọ thần của Ấn-độ tín ngưỡng, lấy cây làm đối tượng sùng bái, như đối với tháp-miếu vậy.
(7) : Bát chánh đạo (Ariyam utthangikkhama magam ) : Chánh kiến (Sammaditthi), Chánh tư duy (Sammasankappa), Chánh ngữ (Sammavaca), Chánh nghiệp (Sammakamanta), Chánh mạng (Sammăjiva), Chánh tinh tấn (Sammavayama), Chánh niệm (Sammasati), Chánh định (Sammasamadhi). Hai câu này chỉ về đạo diệt khổ, nói gọn là đạo-đế.
193. Rất khó gặp được bậc Thánh-nhân, vì chẳng thường có. Phàm ở đâu có vị Thánh-nhân ra đời thì gia tộc đó được an lành.
194. Hạnh phúc thay đức Phật ra đời; hạnh phúc thay diễn nói Chánh-pháp; hạnh phúc thay Tăng-già hòa hợp; hạnh phúc thay dõng tiến đồng tu.
195, 196. Kẻ nào cúng dường những vị đáng cúng dường, - hoặc chư Phật hay đệ tử, những vị thoát ly hư vọng, vượt khỏi hối hận lo âu, - công đức của người đã cúng dường các bậc tịch tịnh vô úy ấy, không thể kể lường.
15. PHẨM LẠC - SUKHAVAGGO
( An lạc phẩm ).
197. Sung sướng thay chúng ta (Phật tự xưng) sống không thù oán giữa những người thù oán; giữa những người thù oán, ta sống không thù oán.
198. Sung sướng thay chúng ta sống không tật bệnh, giữa những người tật bệnh (Tật bệnh đây chỉ các phiền não thống khổ) , ta sống không tật bệnh.
199. Sung sướng thay chúng ta sống không tham dục giữa những người tham dục; giữa những người tham dục, ta sống không tham dục.
200. Sung sướng thay chúng ta sống không bị điều gì chướng ngại (Không còn các phiền não chướng như tham, sân, si v.v..) . Ta thường sống với những điều an lạc như các vị Thần ở cõi trời Quang-Âm (1).
(1) : Lúc Phật ở tạm nơi thôn của một người Ba-la-môn tên Ngũ-ta-la (Pancasal), một hôm Ngài vô xóm làng khất thực, nhưng không ai cúng dường, một kẻ ma-vương đứng ở cửa làng thấy Phật mang bát đi về không, mới cười chọc, nói : 'Ngài chưa thọ thực, ắt phải đi vào thôn xóm khất thực để giải quyết sự đói'. Nhân đó Phật nói bài này.
201. Thắng lợi thì bị thù oán, thất bại thì bị đau khổ ; chẳng màng tới thắng bại, sẽ sống một đời hòa hiếu an vui.
202. Không lửa nào bằng lửa tham dục, không ác nào bằng ác sân si, không khổ nào bằng khổ ngũ ấm, và không vui nào bằng vui Niết-bàn.
203. Ðói là chứng bệnh lớn, vô thường (2) là nỗi khổ lớn ; biết được đúng đắn như thế, đạt đến Niết-bàn vui tối thượng.
(2) : Nguyên văn : Sankhara, dịch là Hành; tức các pháp hữu vi có sanh có diệt, trong Pali chú thích là Uẩn (Khandha).
204. Vô bệnh là điều rất lợi, biết đủ là kẻ rất giàu, thành-tín là nơi chí thân, Niết-bàn là vui tối thượng.
205. Ai đã từng nếm được mùi độc cư, ai đã từng nếm được mùi tịch tịnh, người ấy càng ưa nếm pháp vị để xa lìa mọi tội ác, sợ hãi.
206. Gặp được bậc Thánh-nhơn là rất quý. Vì sẽ chung hưởng sự vui lành. Bởi không gặp kẻ ngu si nên người kia thường hoan hỷ.
207. Ði chung với người ngu, chẳng lúc nào không bị lo buồn. Ở chung với kẻ ngu khác nào ở chung với quân địch. Ở chung với người trí khác nào hội ngộ với người thân.
208. Ðúng thật như vậy (câu này là câu tiếp liên trên dưới) : Người hiền trí, người đa văn, người trì giới chơn thành và bậc thánh giả là chỗ nương dựa tốt nhất cho mọi người. Ðược đi theo những bậc thiện nhân hiền huệ ấy, khác nào mặt trăng đi theo đường tinh-đạo.
16. PHẨM HỶ ÁI -PIYAVAGGO
209. Chuyên làm những việc không đáng làm, nhác tu những điều cần tu, bỏ việc lành mà chạy theo dục lạc, người như thế dù có hâm mộ kẻ khác đã cố gắng thành công, cũng chỉ là hâm mộ suông. (1)
(1) : Những Tỳ-kheo vì bị dục lạc mê hoặc, bỏ việc hành-đạo để sinh-hoạt theo thế tục, sau thấy kẻ khác tu hành có công quả, lại luống tỏ lòng hâm mộ; chứ tự mình không thành được chi.
210. Chớ kết giao với người đáng ưa, chớ kết giao với người không đáng ưa : không gặp được người thương yêu là khổ, mà gặp phải người cừu oán cũng khổ.
211. Thế nên chớ đắm yêu, vì đắm yêu bị biệt ly là khổ. Nếu không còn những niệm yêu ghét, tức không điều gì ràng buộc được.
212. Từ hỷ ái sinh lo, từ hỷ ái sinh sợ ; xa lìa hết hỷ ái, còn lo sợ gì.
213. Từ tham ái sinh lo, từ tham ái sinh sợ ; xa lìa hết tham ái, còn lo sợ gì.
214. Từ tham dục sinh lo, từ tham dục sinh sợ ; xa lìa hết tham dục, còn lo sợ gì.
215. Từ lạc dục sinh lo, từ lạc dục sinh sợ ; xa lìa hết lạc dục, còn lo sợ gì.
216. Từ ái dục sinh lo, từ ái dục sinh sợ ; xa lìa hết ái dục, còn lo sợ gì.(2)
(2) : Năm câu 212 Ố 216, theo bản dịch của Ðại-đức Narada là : 'From endearment springs grief, from endearment springs fear ; for him who is wholly frê from endearment there is no grief, much less fear. From affection... From delight ... From lust... From craving ...'
217. Ðầy đủ giới hạnh và chánh kiến, an trú Chánh-pháp (Chỉ 4 hướng, 4 quả và Niết-bàn, cộng là 9 pháp thù thắng) , rõ lý Chơn-thường (Chỉ 4 Thánh-đế) và viên-mãn các công hạnh (chỉ giới định huệ) , là người đáng kính mến.
218. Khát cầu pháp ly-ngôn, sung-mãn tâm lự sát, không đắm mê dục lạc, ấy là bậc thượng lưu (Bậc thượng lưu (Ubdhamsôo), chỉ quả vị Bất hoàn (Anagami) gần đến Niết-bàn A-la-hán.
219,220. Người khách ly hương lâu ngày, khi từ phương xa trở về yên ổn được bà con thân hữu đón mừng thế nào, thì người tạo phước-nghiệp cũng vậy, khi từ cõi đời này sang cõi đời khác, phước nghiệp của họ là kẻ thân hữu đón mừng họ.
17. PHẨM PH"N Nộ - KODHA VAGGO
221. Xa bỏ lòng giận dữ, trừ diệt tánh kiêu căng ; thoát mọi ràng buộc, không chấp trước sắc (1) : người không có một vật chi ấy, sự khổ chẳng còn theo dõi được.
(1) : Danh sắc (Namarapa) tức là tinh thần và vật chất, tâm và thân.
222. Người nào ngăn được cơn giận dữ nổi lên như dừng được chiếc xe đang chạy mạnh, mới là kẻ chế ngự giỏi, ngoài ra chỉ là kẻ cầm cương hờ mà thôi. (Nếu tự chủ, ngăn sự nóng giận kịp thời, mới là người thiện-ngự ; ngoài ra toàn như kẻ cầm cương e-chừng chứ không chế được con ngựa).
223. Lấy từ-bi thắng nóng giận, lấy hiền lành thắng hung dữ, lấy bố thí thắng xan tham, lấy chơn thật thắng ngoa ngụy.
224. Nói chân thật, không giận hờn, đích thân bố thí cho người đến xin (2) . Ðó là ba việc lành đưa người đến cõi chư Thiên.
(2) : Nguyên văn còn có một chữ 'thiểu' - ít (appam), tức là mình có vật gì dù ít, cũng có thể chia sớt cho người đến xin được.
225. Không làm hại người thanh tịnh; thường chế phục thân tâm, thì đạt đến nơi chẳng chết ; chẳng còn ư bi.
226. Những người thường giác-tỉnh, thường tu tập chuyên cần thường để chí hướng tới Niết-bàn, thì mọi phiền não đều dứt sạch.
227. A-Ða-La (A-tu-la : là một người tại gia Phật-tử xưa) nên biết : Ðây không phải chỉ là chuyện đời nay mà đời xưa người ta cũng từng nói : Làm thinh bị người chê, nói nhiều bị người chê, ít nói cũng bị người chê. Làm người mà không bị chê, thật là chuyện khó có ở thế gian này.
228. Toàn bị người chê cả, hay toàn được người khen cả, là điều quá khứ chưa từng có, hiện tại tìm không ra, mà vị lai cũng không dễ gì thấy được.
229. Cứ mỗi buổi mai thức dậy tự biết phản tỉnh, hành động không sai quấy, trí tuệ hiền minh và giới hạnh thanh tịnh, đó là người đáng được kẻ trí tán dương.
230. Phẩm đúng loại vàng Diêm-Phù (3) ai lại chê bai được ? Hạnh đúng Bà-la-môn, chư thiên nào lại không tán thưởng ?
(3) : Diêm phù kim (Jambunada) là tên đặc biệt để chỉ một thứ vàng phẩm chất rất quí. Ý nói thứ vàng này từ sông Diêm-phù (Jambu) mà có.
231. Gìn giữ thân đừng nóng giận, điều phục thân hành động, xa lìa thân làm ác, dùng thân tu hạnh lành.
232. Gìn giữ lời nói đừng nóng giận, điều phục lời nói chánh chơn, xa lìa lời nói thô ác, dùng lời nói tu hành.
233. Gìn giữ ý đừng nóng giận, điều phục ý tinh thuần, xa lìa hung ác, dùng ý để tu thân.
234. Người trí chẳng những lo điều phục thân nghiệp còn điều phục ngôn ngữ và tâm ý ; cả ba nghiệp thảy điều phục hoàn toàn.
18. PHẨM CẤU UẾ - MALAVAGGO
235. Ngươi nay đã giống ngọn lá héo khô; Diêm-ma sứ giả (tử thần) ở sát bên mình. Ngươi đang đứng trước ngưỡng cửa chết, bước lữ đồ ngươi cũng thiếu hẳn tư lương.
236. Ngươi hãy tự tạo lấy cho mình một hòn đảo an toàn, gấp rút tinh cần làm kẻ không ngoan, gột sạch bao nhiêu phiền não trần cấu, để bước lên thánh-cảnh hàng chư thiên. (1)
(1) : Thánh cảnh hàng chư thiên đây là chỉ 5 cõi trời Tịnh cư (Panca Anđhavasa bhumi) : Vô phiền (Aviha), Vô nhiệt (Atappa), Thiện hiện (Sudassa), Thiện kiến (Suđassi), Sắc cứu kính (Akanittha), là 5 chỗ của hàng A Na Hàm ở.
237. Ðời sống ngươi nay sắp lụn tàn, ngươi đang dịch bước gần Diêm-vương, giữa đường đã không nơi ngơi nghỉ, bước lữ đồ ngươi cũng thiếu hẳn tư lương.
238. Ngươi hãy tạo lấy cho mình một hòn đảo an toàn, gấp rút tinh cần làm kẻ không ngoan, gột sạch bao nhiêu phiền não trần cấu, chớ trở lui đường sanh lão nguy nan.
239. Hết sát-na này đến sát-na khác, người trí lo gột trừ dần những cấu uế nơi mình như anh thợ vàng cần mẫn lọc trừ quặng bã khỏi chất vàng ròng.
240. Như sét do sắt sinh ra rồi trở lại ăn sắt, ác nghiệp do người ta gây ra rồi trở lại dắt người ta đi vào cõi ác.
241. Không tụng tập là vết nhơ của kinh điển, không siêng-năng là vết nhơ của nghiệp nhà, biếng-nhác là vết nhơ của thân thể và nơi ăn chốn ở, phóng túng là vết nhơ của phép hộ vệ.
242. Tà hạnh là vết nhơ của người đàn bà, xan lẫn là vết nhơ của sự bố thí ; đối với cõi này hay cõi khác, thì tội ác lại chính là vết nhơ.
243. Trong hết thảy nhơ cấu đó, vô-minh-cấu là hơn cả. Các ngươi có trừ hết vô-minh mới trở thành hàng tỳ-kheo thanh tịnh.
244. Sống không biết xấu hổ, sống lỗ mãng như quạ diều, sống chê bai kẻ khác, sống đại đởm khoa trương, sống ngạo mạn tà ác, sống như thế ấy chẳng khó khăn gì.
245. Sống biết hổ thẹn, sống thường cầu thanh tịnh, sống không đam mê dục lạc, sống khiêm tốn, sống trong sạch, sống dồi dào kiến thức, sống như thế mới thật khó làm.
246-247. Trong thế gian này, ai hay sát sinh hay nói dối, hay lấy cắp, hay phạm dâm, hay rượu chè say sưa ; ai có các hành vi đó, tức đã tự đào bỏ thiện căn của mình ngay ở cõi đời này.
248. Các ngươi nên biết : 'hễ không lo chế ngăn tức là ác'. Vậy các ngươi chớ tham, chớ làm điều phi-pháp mà phải sa vào thống khổ đời đời.
249. Vì có tâm tin vui nên người ta mới bố thí, trái lại kẻ có tâm ganh ghét người khác được ăn, thì ngày hoặc đêm kẻ kia không thể nào định tâm được.
250. Những kẻ nào đã cắt được, nhổ được, diệt được tâm tưởng ấy, thì ngày hoặc đêm, kẻ kia đều được định tâm.
251. Không lửa nào dữ bằng lửa tham dục, không cố chấp nào bền bằng tâm sân hận, không lưới nào trói buộc bằng lưới ngu si, không giòng sông nào đắm chìm bằng sông ái dục.
252. Thấy lỗi người thì dễ, thấy lỗi mình mới khó. Lỗi người, ta cố phanh tìm thóc lẫn trong gạo, còn lỗi mình, ta cố che giấu như kẻ cờ gian bạc lận thu giấu quân bài.
253. Nếu thấy lỗi người thì tâm ta dễ sinh nóng giận mà phiền não tăng thêm, nếu bỏ đi thì phiền não cũng xa lánh.
254. Giữa hư không thì làm gì có dấu vết, trong ngoại đạo thì làm gì có Sa-môn (2) , chúng-sanh thì thích điều hư vọng (3) mà Như-Lai làm gì còn hư vọng.
(2) : Sa-môn (Samano) ở đây chỉ những vị chứng ngộ 4 thánh quả.
(3) : Nguyên văn : Papanca, gồm có nghĩa hư vọng và chướng ngại. Ở đây đặc biệt chỉ cho ái (Tanha), Kiến (Ditthi), mạn (Mano).
255. Giữa hư không thì làm gì có dấu vết, trong ngoại đạo thì làm gì có Sa-môn, năm uẩn thì không thường trú mà Như-Lai thì chẳng loạn động bao giờ.
19. PHẨM PHÁP TRụ (1) - DHAMMATTHAVAGGO
(1) : Pháp trụ (Dhammattha) có nghĩa là thật hành đúng pháp, an trụ phụng thờ pháp, nên cũng dịch là 'phụng pháp'.
256. Xử dụng lỗ mãng (2) đâu phải hạnh của người phụng thờ chánh-pháp ; vậy các ngươi cần biện biệt cho rõ đâu chánh và đâu tà.
(2) : Lỗ mãng (Sahasa) bao hàm nghĩa cẩu thả, khinh suất, độc đoán. Ở đây chỉ cho cái quan niệm bất chính xác bởi chịu ảnh hưởng của tham, sân, si, bố úy mà sinh ra.
257. Không khi nào lỗ mãng, đúng phép và công bình mới là người dẫn đạo. Kẻ trí nhờ hộ trì chánh-pháp nên gọi là người an trụ chánh pháp.
 
258. Chẳng phải cậy nhiều lời mà cho là người có trí, nhưng an tịnh không cừu oán, không sợ hãi thì mới là người có trí.
259. Chẳng phải cậy nhiều lời mà cho là người hộ trì chánh-pháp, nhưng tuy học ít mà do thân thực thấy (3) chánh pháp, không buông lung mới là người hộ trì chánh pháp.
(3) : Do thân (Kayena), nguyên chú thích là 'do danh thân' (Namakayena). Trong văn Pali chia 5 uẩn ra 2 loại : A. danh thân (Namakayena), tức Danh uẩn là thọ, tưởng, hành, thức uẩn; B. Sắc thân (Rupakayena), tức sắc uẩn. Như vậy, 'do thân thực thấy chánh pháp' tức là nói do tâm thực thấy chánh pháp, là do tự nội tâm chứng ngộ chánh pháp, đích thực chứ không vin lấy chỗ ngộ của người làm của mình ngộ. Chữ thân là một chứa nhóm, đồng nghĩa với chữ uẩn.
260. Trưởng lão (4) chẳng phải vì bạc đầu. Nếu chỉ vì tuổi tác cao mà xưng trưởng lão, thì đó chỉ là xưng suông.
(4) : Trưởng lão (Thera) tiếng tôn xưng người đã giữ giới Tỳ-kheo 10 năm trở lên, nhưng vốn trọng về chỗ thật tu thật chứng, nếu không thì chỉ là cách gọi suông.
261. Ðủ kiến giải chân thật (Chỉ lý Tứ-đế) , giữ trọn các pháp hành(chỉ 4 quả, 4 hướng và Niết-bàn), không sát hại sinh linh, lo tiết chế (chỉ hết thảy giới luật) điều phục (đặc biệt chỉ điều phục 5 căn : nhãn, nhĩ, tỷ,thiệt, thân) , đó mới là người có trí ; trừ hết các cấu nhơ, mới đáng danh trưởng lão.
262. Những người hư ngụy, tật đố và xan-tham, tuy có biện tài lưu loát, tướng mạo đoan trang cũng chẳng phải là người lương thiện.
263. Chỉ nhờ trừ diệt tận gốc lòng sân hận, mới là người lương thiện.
264. Người vọng ngữ và phá giới, dù cạo tóc chưa phải là Sa-môn ; huống còn chất đầy tham dục làm sao thành được bậc Sa-môn ?
265. Người nào dứt hết các điều ác, không luận lớn hay nhỏ ; nhờ dứt hết các ác, mà được gọi Sa-môn.
266. Chỉ mang bình khất thực, đâu phải là Tỳ-kheo ! Chỉ làm nghi thức tôn giáo, cũng chẳng phải Tỳ-kheo vậy.
267. Bỏ thiện (chỉ cái thiện hữu lậu, làm thiện với cái tâm bỉ thử ngã nhân) và bỏ ác, chuyên tu hạnh thanh tịnh, lấy 'biết' (biết giới, biết định, biết huệ) mà ở đời mới thật là Tỳ-kheo.
268-269. Kẻ ngu muội vô trí, dù làm thinh cũng không gọi được là người tịch tịnh. Kẻ trí tuệ, sáng suốt nhờ bàn cân, biết cân nhắc điều thiện lẽ ác mà chọn lành bỏ dữ, mới gọi là người tịch tịnh. Biết được cả nội giới và ngoại giới nên gọi là người tịch tịnh.
270. Còn sát hại chúng-sanh, đâu được xưng là Ariya (hiền đức, cao thượng), không sát hại chúng-sanh, mới gọi là Ariya.(5)
(5) : Chữ Ariya có nghĩa là hiền đức, cao thượng. Phật đối với người đánh cá tên Ariya mà nói ra bài này.
271-272. Chẳng phải do giới luật, đầu đà (6) , chẳng phải do nghe nhiều học rộng (học ba-tạng (Tipitaka) ), chẳng phải do chứng được tam-muội, chẳng phải do ở riêng một mình, đã vội cho là 'hưởng được cái vui xuất gia, phàm phu không bì kịp'. Các ngươi chớ vội tin những điều ấy khi mê lầm phiền não của các ngươi chưa trừ.
(6) : Giới luật đây chỉ cho Biệt-giải-thoát-luật-nghi-giới, căn-bản-luật-nghi-giới, hoạt-mạng-biến-tịnh-giới và tư cụ-y chỉ-giới. Ðầu-đà (Dhutaga) là hạnh tu kham khổ, tiết độ trong việc ăn, mặc, ở để dứt sạch phiền não, gồm có 12 hạnh, riêng một số người tu.
20. PHẨM ÐẠO - MAGGAVAGGO
 
273. Bát-chánh-đạo là đạo thù thắng hơn các đạo, Tứ-đế (1) là lý thù thắng hơn các lý, ly dục (2) là pháp thù thắng hơn các pháp, Cụ-nhẫn (3) là bậc thù thắng hơn các bậc thánh hiền.
(1) : Bốn đế (tứ cú) : khổ (dukkha), khổ tập (dukkhasam udaya), khổ diệt (dukkhanirodha), khổ diệt đạo (dukkhanirodha gamini Patipada), Xưa dịch là : khổ, tập, diệt, đạo.
(2) : Chỉ Niết Ốbàn.
(3) : Chỉ Phật-đà. Phật đủ năm mắt : nhục nhãn (mamsacakkhu), thiên nhãn (dibhacakkhu), huệ nhãn (panna cakkhu), Phật nhãn (Buđha cakkhu), nhất thế trí nhãn (samanta cakhu).
274. Chỉ có con đường này (Tứ đế, Bát chánh đạo, Niết-bàn) , chẳng còn con đường nào khác có thể làm cho tri kiến các ngươi thanh tịnh. Các ngươi thuận làm theo, thì bọn ma bị rối loạn.
275. Các ngươi thuận tu theo chánh-đạo trên này thì khổ não sẽ dứt hết, và biết rằng đạo ta nói có sức trừ diệt chông gai (chỉ tham, sân, si v.v...)
276. (4) Các ngươi hãy nỗ lực lên ! Như-Lai chỉ dạy cho con đường giác ngộ (Như-Lai chỉ bày chánh đạo, còn đi là do người) chứ không giác ngộ thế cho ai. Sự trói buộc của ma vươngsẽ tùy sức thuyền định của các ngươi mà được cởi mở.
(4) : Các tăng già Tích Lan mỗi khi khai hội nghị để luận bàn việc trọng đại thường lấy bài này làm khẩu hiệu kêu gọi.
277. 'Các hành (tất cả các hiện tượng) đều vô thường' ; khi đem trí tuệ soi xét được như thế thì sẽ nhàm lìa thống khổ. Ðó là đạo thanh tịnh.
278. 'Các hành đều là khổ' ; khi đem trí tuệ soi xét được như thế thì sẽ nhàm lìa thống khổ. Ðó là đạo thanh tịnh.
279. 'Hết thảy các pháp đều vô ngã' ; khi đem trí tuệ soi xét được như thế thì sẽ nhàm lìa thống khổ. Ðó là đạo thanh tịnh.
280. Khi đáng nỗ lực không nỗ lực, thiếu niên cường tráng đã lười biếng, ý chí tiêu trầm và nhu nhược : Kẻ biếng nhác làm gì có trí để ngộ đạo.
281. Thận trọng lời nói, kiềm chế ý nghĩ, thân không làm ác, ba nghiệp thanh tịnh là được đạo Thánh nhơn.
282. Tu Du-già (yoga tức là Ðịnh) thì trí phát, bỏ Du-già thì tuệ tiêu. Biết rõ hai lẽ này thế nào là đắc thất, rồi nỗ lực thực hành, sẽ tăng trưởng thêm trí tuệ.
283. Hãy đốn rừng dục vọng, chớ đốn cây thọ lâm ; từ dục vọng sinh ra lo sợ, hãy thoát ngoài rừng dục vọng.
284. Những sợi dây tình giữa gái trai chưa dứt thì tâm còn bị buộc ràng, như trâu con còn bú sữa, thì chẳng rời vú mẹ bao giờ.
285. Tự mình dứt hết ái tình, như lấy tay bẻ cành sen thu ; siêng tu đạo tịch tịnh. Ðó là Niết-bàn mà đức Thiện-Thệ (Sugato - tức Phật Ðà) đã truyền dạy.
286. 'Mùa mưa ta ở đây, đông, hạ ta cũng ở đây', đấy là tâm tưởng của hạng người ngu si, không tự giác những gì nguy hiểm (chẳng biết sự nguy hiểm về cái chết cách nào, ở đâu, lúc nào).
287. Người đắm yêu con cái và súc vật thì tâm thường mê hoặc, nên bị tử thần bắt đi như xóm làng đang say ngủ bị cơn nước lũ lôi cuốn mà không hay.
288. Một khi tử thần đã đến, chẳng thân thuộc nào có thể thế thay, dù cha con thân thích, chẳng làm sao cứu hộ.
289. Biết rõ lý lẽ trên (Chỉ ý nghĩa của bài trên) , người trí hãy gắng trì giới thấu hiểu đường Niết-bàn, mau làm cho thanh tịnh.
21. PHẨM TẠP - PAKINNAKAVAGGO
290. Nếu bỏ vui nhỏ mà được hưởng vui lớn, kẻ trí sẽ làm như thế.
291. Gieo khổ cho người để cầu vui cho mình, sẽ bị lòng sân hận buộc ràng, không bao giờ thoát khỏi nỗi oán tăng.
292. Việc đáng làm không làm ; việc không đáng lại làm, những người phóng túng ngạo mạn, lậu tập mãi tăng thêm.
293. Thường quán sát tự thân, không làm việc không đáng, việc đáng gắng chuyên làm, thì lậu tập dần tiêu tan.
294. (1) Hãy diệt mẹ (ái dục) và cha (kiêu căng), diệt hai vua giòng Sát-đế-lợi (2) , diệt Vương quốc (3) luôn cả quần thần (4) mà hướng về Bà-la-môn vô ưu (5).
(1) : Hai bài này đều mượn thí-dụ để cắt nghĩa.
(2) : Dụ thường kiến (Sassataditthi) và đoạn kiến (Ucche da ditthi).
(3) : Chỉ 12 xứ (dvadasayatana) mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
(4) : Chỉ sự dục lạc (nadirago).
(5) : Chỉ quả vị lậu tận A-la-hán.
295. Hãy diệt mẹ (ái dục) và cha (kiêu căng), diệt hai vua giòng Bà-la-môn, diệt luôn hổ tướng 'nghi' thứ năm (6) mà hướng về Bà-la-môn vô ưu.
(6) : Hổ tướng thứ 5 (Veyyagghapancaman) tức bằng với nghi thứ 5 (Vicikicchapancaman). Ví trong 5 cái (ngăn - che Pamcamovarama) thì Nghi cái (Vicikicchannaiarana) ở về thứ 5. Năm cái là : Tham dục (Kamacchanda); Sân nhuế (Vyavada), Hôn trầm thùy miên (thina middha), Trạo cử ác tác (Uddhacc-kukkucca), Nghi (Vicikiccha).
296. Ðệ tử Kiều-Ðáp-Ma (Gotama tức Ðức Phật), phải luôn tự tỉnh giác, vô luận ngày hay đêm, thường niệm tưởng Phật-đà.
297. Ðệ tử Kiều-Ðáp-Ma, phải luôn tự tỉnh giác, vô luận ngày hay đêm, thường niệm tưởng Ðạt-ma.
 
298. Ðệ tử Kiều-Ðáp-Ma, phải luôn tự tỉnh giác, vô luận ngày hay đêm, thường niệm tưởng Tăng già.
299. Ðệ tử Kiều-Ðáp-Ma, phải luôn tự tỉnh giác, vô luận ngày hay đêm, thường niệm tưởng sắc thân (quán thân gồm có 32 thứ bất tịnh : tóc, lông, móng, răng, da v.v..).
300. Ðệ tử Kiều-Ðáp-Ma, phải luôn tự tỉnh giác, vô luận ngày hay đêm, thường vui điều bất sát.
301. Ðệ tử Kiều-Ðáp-Ma, phải luôn tự tỉnh giác, vô luận ngày hay đêm, thường ưa tu thiền quán.
302. Xuất-gia dứt hết ái dục là khó, tại-gia theo đường sinh hoạt là khó, không phải bạn mà chung ở là khổ, qua lại trong vòng luân hồi là khổ. Vậy các ngươi đừng qua lại trong vòng khổ thống ấy.
303. Chánh tín mà giới hạnh, được danh dự và thánh-tài (là gia tài của thánh giả (nhờ đó mà thành đạo quả), có 7 : tín, giới, tàm, quí, văn, xã, huệ.) ; người nào được như thế, đến đâu cũng tôn vinh.
304. Làm lành thì danh được vang xa, tỏ rạng như lên núi tuyết (Himayanto - Hy-mã-lạp-sơn) , làm ác thì tối tăm như bắn cung ban đêm.
305. Ngồi một mình, nằm một mình, đi đứng một mình không buồn chán, một mình tự điều luyện, vui trong chốn rừng sâu.
22. PHẨM ÐịA NGụC - NIRAYAVAGGO
306. Thường nói lời vọng ngữ, có làm mà nói không ; người tạo hai nghiệp ấy, chết cùng đọa địa ngục.
307. Không ngăn trừ ác hạnh thì dù mặc áo ca-sa, người ác cũng sẽ vì nghiệp ác, chết phải đọa địa ngục.
308. Phá giới chẳng tu hành, thì thà nuốt hòn sắt nóng hừng hực lửa đốt thân còn hơn thọ lãnh của tín thí.
309. Buông lung theo tà dục, sẽ chịu 4 việc bất an : mắc tội, ngủ không yên, bị chê, đọa địa ngục.
310. Vô phước, đọa ác thú, bị khủng bố, ít vui, quốc vương kết trọng tội : đó là kết quả của tà dâm. Vậy chớ nên phạm đến.
311. Cũng như vụng nắm cỏ cô-sa (kusa - cỏ thơm) thì bị đứt tay, làm sa-môn mà theo tà hạnh thì bị đọa địa ngục.
312. Những người giải đãi, nhiễm ô và hoài nghi việc tu phạm hạnh, sẽ không làm sao chứng thành quả lớn.
313. Việc đáng làm hãy làm cho hết sức ! Phóng đãng và rong chơi chỉ tăng thêm trần dục mà thôi.
314. Không tạo ác nghiệp là hơn, vì làm ác nhất định thọ khổ ; làm các thiện nghiệp là hơn, vì làm lành nhất định thọ vui.
315. Như thành quách được phòng hộ thế nào, thì tự thân các ngươi cũng phải nên phòng hộ như thế. Một giây lát cũng chớ buông lung. Hễ một giây lát buông lung là một giây lát sa đọa địa ngục.
316. Không đáng hổ lại hổ, việc đáng hổ lại không, cứ ôm tà kiến ấy, địa ngục khó lánh xa.
317. Không đáng sợ lại sợ, việc đáng sợ lại không, cứ ôm tà kiến ấy, địa ngục khó lánh xa.
318. Không lỗi tưởng là lỗi, có lỗi lại tưởng không, cứ ôm tà kiến ấy, địa ngục khó lánh xa.
319. Lỗi biết rằng lỗi, không lỗi biết rằng không lỗi, giữ tâm chánh kiến ấy, đường lành thấy chẳng xa.
23. PHẨM VOI - NAGAVAGGO
32O. Voi xuất trận nhẫn chịu cung tên như thế nào, ta đây thường nhẫn chịu mọi điều phỉ báng như thế ấy. Thật vậy, đời rất lắm người phá giới (thường ghét kẻ tu hành).
321. Luyện được voi để đem dự hội, luyện được voi để cho vua cỡi, là giỏi, nhưng nếu luyện được lòng ẩn nhẫn trước sự chê bai, mới là người có tài điêu luyện hơn cả mọi người.
322. Con la (1) thuần tánh là con vật tốt, con tuấn mã Tín-độ (2) là con vật lành tốt, con voi lớn Kiều-la (3) cũng là con vật lành tốt, nhưng kẻ đã tự điêu luyện được mình lại càng lành tốt hơn (4).
(1) : Lừa và ngựa giao hợp với nhau sinh ra con gọi là con La.
(2) : Tín độ là (Sindha) con sông Ấn-độ. Giống ngựa Tuấn sinh ở địa phương này.
(3) : Kiều la (Kuajara) tên voi.
(4) : Ý nói người chưa điêu luyện thì tánh lung lăng hơn cả voi ngựa, nhưng khi tuy luyện được rồi thì quí hơn nhiều.
 
323. Chẳng phải nhờ xe hay ngựa mà đến được cảnh giới Niết-bàn, chỉ có người đã điêu luyện lấy mình mới đến được Niết-bàn thôi.
324. Con voi tên Tài-hộ (Dhamapala = hộ vệ tài sản) nhưng đến kỳ phát dục thì lung lăng khó trị (5), khó buộc trói, lại ăn nhiều và tâm thường nhớ mẹ ở rừng sâu.
(4) : Voi đến thời kỳ phát dục thường tiết ra một thứ nước thối-tha và tính tình hung hăng khó trị.
325. Như heo kia ưa ngủ lại tham ăn, kẻ phàm-ngu vì tham ăn ưa ngủ, nên phải bị tiếp tục sanh mãi trong vòng luân hồi.
326. Trong những thời quá khứ, ta (Phật tự xưng) cũng từng thả tâm theo dục lạc, tham ái và nhàn du, nhưng nay ta đã điều phục được tâm ta như con voi đã bị điều phục dưới tay người quản tượng tài giỏi.
327. Hãy vui vẻ siêng năng, gìn giữ tự tâm để tự cứu mình ra khỏi nguy nan, như voi gắng sức để vượt khỏi chốn sa lầy.
328. Nếu gặp bạn đồng hành hiền lương, giàu trí lực, hàng phục được gian nguy, thì hãy vui mừng mà đi cùng họ.
329. Nếu không gặp được bạn đồng hành hiền lương, giàu trí lự, thì hãy như vua tránh nước loạn, như voi bỏ về rừng.
330. Thà ở riêng một mình hơn cùng người ngu kết bạn. Ở một mình còn rảnh rang khỏi điều ác dục như voi một mình thinh thang giữa rừng sâu.
331. Gặp bạn xa lâu ngày là vui, sung túc phải lúc là vui, mệnh chung có được thiện nghiệp là vui, lìa thống khổ là vui.
332. Ðược kính dưỡng mẹ hiền là vui, kính dưỡng thân phụ là vui, kính dưỡng Sa-môn là vui, kính dưỡng thánh nhơn là vui.
333. Già vẫn giữ giới là vui, thành tựu chánh tín là vui, đầy đủ trí tuệ là vui, không làm điều ác là vui.
24. PHẨM ÁI DụC - TANHAVAGGO
334. Nếu buông lung thì tham ái tăng lên hoài như giống cỏ Tỳ-la-na mọc tràn lan, từ đời này tiếp đến đời nọ như vượn chuyền cây tìm trái.
 
335. Nếu ở thế gian này, mà bị ái dục buộc ràng, thì những điều sầu khổ càng tăng mãi như loài cỏ Tỳ-la gặp mưa.
336. Nếu ở thế gian này, mà hàng phục được những ái dục khó hàng phục, thì sầu khổ tự nhiên rụng tàn như nước giọt lá sen.
337. Ðây là sự lành mà Ta bảo với các ngươi : Các ngươi hãy dồn sức vào để nhổ sạch gốc ái dục, như người muốn trừ sạch giống cỏ Tỳ-la phải nhổ hết gốc nó. Các ngươi chớ lại để bị ma làm hại như loài cỏ lau gặp cơn hồng thủy !
338. Ðốn cây mà chưa đào lấy gốc rễ thì tược vẫn ra hoài, đoạn trừ ái dục mà chưa sạch căn gốc thì khổ não vẫn sanh trở lại mãi mãi.
339. Những người có đủ 36 giòng ái-dục (1), họ mạnh mẽ dong ruổi theo dục-cảnh chẳng chút ngai ngùng, bởi vậy, người đã có tâm tà kiến, hằng bị những tư tưởng ái dục làm trôi giạt hoài.
(1) : Ái dục có 3 thứ : a) Dục ái (Kamatanha), b) Hữu ái (Bhavatanha - sự ái dục dính líu với thường kiến), c) Phi-hữu-ái (Vibhavatanha Ố sự ái dục tương quan với đoạn kiến ). Trong 6 căn, ngoài sáu trần đều là ái, hợp thành 12 : dục ái 12, hữu ái 12, phi hữu ái 12, cộng thành 36 ái dục, 36 ái dục thường lưu động không ngừng như giòng nước, nên gọi là dục lưu.
340. Lòng ái dục tuôn chảy khắp nơi (từ 6 căn phát ra) như giống cỏ Man-la mọc tràn lan mặt đất. Ngươi hãy xem giống cỏ đó để dùng tuệ kiếm đoạn hết căn gốc ái dục đi.
341. Người đời thường vui thích theo ái dục, ưa dong ruổi lục trần, tuy họ có hướng cầu an lạc mà vẫn bị quanh quẩn trong chốn trầm luân.
342. Những người trì trục theo ái dục khác nào thỏ bị sa lưới. Càng buộc ràng với phiền não, càng trở lại chịu khổ lâu dài.
343. Những người trì trục theo ái dục, khác nào thỏ bị sa lưới. Hàng Tỳ-kheo vì cầu vô dục (Chỉ Niết-bàn) nên phải tự gắng lìa dục.
344. Người đã lìa dục xuất gia, vui ở chốn sơn lâm (lìa thế tục để xuất gia) rồi trở lại về nhà lại (xuất gia rồi hoàn tục) ; người hãy xem hạng người đó, kẻ đã được mở ra rồi lại tự trói vào !
345. Ðối với người trí, sự trói buộc bằng giây gai, bằng cây, bằng sắt chưa phải kiên cố, chỉ có lòng luyến ái vợ con tài sản mới thật sự là sự trói buộc chắc bền.
346. Những kẻ dắt người vào sa đọa, là như sự trói buộc chắc bền, nó hình như khoan dung hoà hưỡn mà thật khó lòng thoát ra. Hãy đoạn trừ đừng dính mắc, lìa dục mà xuất gia.
347. Những người say đắm theo dục, tự lao mình trong lưới buộc như nhện giăng tơ. Ai dứt được sự buộc ràng không còn dính mắc nữa, thì sẽ xa mọi thống khổ để ngao du tự tại (chứng Niết-bàn).
348. Bỏ quá khứ, hiện tại, vị lai (bỏ sự tham đắm theo ngũ uẩn quá khứ, hiện tại và vị lai) mà vượt qua bờ kia ; tâm đã giải thoát tất cả, thì không còn bị sanh già trở lại.
349. Những kẻ bị tư tưởng xấu ác làm tao loạn, thường cầu mong dục lạc thật nhiều. Mong dục lạc tăng nhiều là tự trói mình càng thêm chắc chắn.
350. Muốn lìa xa ác tưởng hãy thường nghĩ tới bất tịnh. Hãy trừ hết ái dục, đừng để ác ma buộc ràng.
351. Bước tới chỗ cứu kính (Chỉ A-la-hán) thì không còn sợ hãi ; xa lìa ái dục thì không còn nhiễm ô ; nhổ lấy mũi tên sanh-hữu thì chỉ còn một thân này là cuối cùng, không bị tiếp tục sanh nữa (Từ đây không còn luân hồi sanh tử nữa).
352. Xa lìa ái dục không nhiễm trước, thông đạt từ vô ngại, thấu suốt nghĩa vô ngại, pháp vô ngại, và thứ lớp của tự cú (2) , đó là bậc đại trí đại trượng phu, chỉ còn một thân này là cuối cùng, không bị tiếp tục sinh nữa.
(2) : Câu này theo nguyên văn là : Niruttipada Kovido, dịch thẳng là 'thông đạt từ và tha cú', tức chỉ cho 4 thứ biện giải vô ngại (Catupatisambhida) : nghĩa-vô-ngại (Attha) , là thông suốt lý-nghĩa ; pháp-vô-ngại (Dhamma), là thông suốt giáo pháp như 3 tạng 12 bộ, Từ-vô-ngại (Nirutti) là thông suốt lời lẽ văn cú ; Biện-thuyết-vô-ngại (Patibhana) là thông suốt cách trình bày giảng nói (biết thứ lớp của tự-cú, là chỉ môn biện-thuyết-vô-ngại).
353. Ta đã hàng phục tất cả, ta đã rõ biết tất cả, ta không nhiễm một pháp nào, ta xa lìa hết thảy, diệt dục mà giải-thoát và tự mình chứng ngộ, thì còn ai là thầy ta nữa (3).
(3) : Sau khi Phật thành đạo, từ Bồ-đề-tràng đi tới Lộc-giã-uyển, giữa đường gặp nhà tu của đạo khác, ông Ư-ba-ca (Upaka), hỏi Phật rằng : 'Ông xuất gia theo ai ? Thầy ông là ai ? Ông tin Tôn giáo nào ?' Phật liền nói bài trên để trả lời.
354. Trong các cách bố thí, pháp-thí là hơn cả ; trong các chất vị, pháp vị là hơn cả ; trong các hỷ lạc, pháp hỷ là hơn cả ; người nào trừ hết mọi ái dục là vượt trên mọi đau khổ.
355. Giàu sang chỉ làm hại người ngu chứ không thể để cầu sang bờ giác. Người ngu bị tài dục hại mình như mình đã vì tài dục mà hại người khác.
356. Cỏ làm hại rất nhiều ruộng vườn, tham-dục làm hại rất nhiều thế-nhân. Vậy nên bố thí cho người lìa tham, sẽ được quả báo lớn.
357. Cỏ làm hại rất nhiều ruộng vườn, sân nhuế làm hại rất nhiều thế nhân. Vậy nên bố thí cho người lìa sân, sẽ được quả báo lớn.
358. Cỏ làm hại rất nhiều ruộng vườn, ngu si làm hại rất nhiều thế nhân. Vậy nên bố thí cho người lìa si, sẽ được quả báo lớn.
359. Cỏ làm hại rất nhiều ruộng vườn, dục vọng làm hại rất nhiều thế nhân. Vậy nên bố thí cho người lìa dục, sẽ được quả báo lớn.
25. PHẨM TỲ KHEO - BHIKKHUVAGGO
360-361. Chế phục được mắt, lành thay ; chế phục được tai, lành thay ; chế phục được mũi, lành thay ; chế phục được lưỡi, lành thay ; chế phục được thân, lành thay ; chế phục được lời nói, lành thay ; chế phục tâm ý, lành thay ; chế phục được hết thảy, thật lành thay. Tỳ-kheo nào chế phục được hết thảy thì giải thoát hết thảy khổ.
362. Gìn giữ tay chân và ngôn ngữ, gìn giữ cái đầu cao (cái đầu nằm ở chỗ cao nhất nơi thân ta) , tâm mến thích thuyền định, riêng ở một mình và tự biết đủ, ấy là bậc Tỳ-kheo.
363. Tỳ-kheo nào điều nhiếp được ngôn ngữ, khôn khéo và tịch tịnh, thì khi diễn bày pháp-nghĩa, lời lẽ rất được hòa ái rõ ràng.
364. Tỳ-kheo nào an trú trong lạc viên chánh-pháp, mến pháp và theo pháp, tư duy nhớ tưởng pháp, thì sẽ không bị thối chuyển.
365. Chớ nên khinh điều mình đã chứng, chớ hâm mộ điều người khác đã chứng, Tỳ-kheo nào chỉ lo hâm mộ điều người khác tu chứng, cuối cùng mình không chứng được Tam-ma-địa (chánh định) (ý nói chỉ hâm mộ việc của người, chẳng ích chi cho việc của mình).
366. Hàng Tỳ-kheo, dù được chút ít cũng không sinh tâm khinh hiềm, cứ sinh hoạt thanh tịnh và siêng năng, nên đáng được chư thiên khen ngợi.
367. Nếu đối với thân tâm mà không lầm chấp là 'ta' hay 'của ta'. Vì không ta và của ta nên không lo sợ. Người như vậy mới gọi là Tỳ-kheo.
368. Hàng Tỳ-kheo an trú trong tâm từ bi, vui thích giáo pháp Phật-đà, sẽ đạt đến cảnh giới tịch tịnh an lạc, giải thoát các hành (vô thường).
369. Tỳ-kheo múc nước trong chiếc thuyền này (thuyền dụ thân thể ; nước dụ ác-tâm, phiền não) , hễ nước hết thì thuyền nhẹ và đi mau ; đoạn trừ tham dục và sân nhuế trong thân này, hễ tham dục hết thì mau chứng Niết-bàn.
 
370. Tỳ-kheo nào đoạn được năm điều (1) , bỏ được năm điều (2), siêng tu năm điều (3), vượt khỏi năm điều say đắm (4), ta gọi là người đã vượt qua giòng nước lũ (5).
(1) : Ðoạn năm điều, là dứt 5 kiết sử của hạ giới (ngũ hạ-phần-kiết (Panca orambhagiyasamyaja nani) : dục giới tham (Khamatago) là sự tham lam ở tại dục giới ; Sân (Vyapado); Thân kiến (Sakkayaditthi) là chấp thân thật hữu ; giới cấm thủ (Silabhataparamaso) là cố chấp các giới cấm tà-vạy ; nghi (vicikischa).
(2) : Bỏ năm điều, là bỏ 5 kiết sử của thượng giới ; (ngũ thượng phần kiệt - Panca Ud- dhambhagiyasamyokanani) , Sắc giới tham (Ruparaga) là tham lam ở tại sắc giới ; trao cử (Uddahcca) là loạn động ; mạn (Mana) là ngạo mạn ; vô minh (Avijja).
(3) : Tu 5 điều là tu 5 căn lành : Tín, tấn, niệm, định, huệ.
(4) : Ngũ trược là 5 điều say đắm : tham, sân, si, mạn, ác-kiến.
(5) : Bộc lưu là giòng nước lũ (Ogho), chỉ cho 4 thứ ; dục lưu, hữu lưu, kiến lưu, vô minh lưu.
371. Hãy tu định chớ buông lung, chớ mê hoặc theo dục ái. Ðừng đợi đến khi nuốt hoàn sắt nóng, mới ăn năn than thở !
372. Không có trí tuệ, thì không có thuyền định, không có thuyền định, thì không có trí tuệ. Người nào gồm đủ thuyền định và trí tuệ thì đã gần đến Niết-bàn.
373. Tỳ-kheo đi vào chỗ yên tĩnh thời tâm thường vắng lặng, quán xét theo chánh-pháp thì được thọ hưởng cái vui siêu nhân.
374. Người nào thường nghĩ đến sự sanh diệt của các uẩn thì sẽ được vui mừng hạnh phúc. Nên biết : người đó không bị chết.
375. Nếu là bậc Tỳ-kheo sáng suốt, dù ở trong đời, trước tiên vẫn lo nhiếp hộ các căn và biết đủ, hộ trì giới luật.
376. Thái độ thì phải thành khẩn, hành vi thì phải đoan chánh, được vậy, họ là người nhiều vui và sạch hết khổ não.
377. Cành hoa Bạt-tất-ca (Vassika - tên một thừ hoa thơm hơn cả các hoa khác) bị úa tàn như thế nào, thì Tỳ-kheo các ông cũng làm cho tham sân úa tàn thế ấy.
378. Hàng Tỳ-kheo mà thân giữ thanh tịnh, tâm an trú tam-muội, xa lìa nơi dục lạc, ta gọi là người tịch tịnh.
379. Các ngươi hãy tự kỉnh sách, các ngươi hãy tự phản tỉnh ! Tự hộ vệ và chánh niệm theo chánh-pháp mới là Tỳ-kheo an trụ trong an lạc.
380. Chính các ngươi là kẻ bảo hộ cho các ngươi, chính các ngươi là nơi nương náu cho các ngươi. Các ngươi hãy gắng điều phục lấy mình như thương-khách lo điều phục con ngựa lành.
381. Tỳ-kheo nào đầy tâm hoan hỷ, thành tín theo giáo pháp Phật-đà, sẽ đạt đến cảnh giới tịch tịnh an lạc, giải thoát các hành (vô thường).
382. Những Tỳ-kheo tuy tuổi nhỏ mà siêng tu đúng giáo pháp Phật-đà, là ánh sáng chiếu soi thế-gian, như mặt trăng ra khỏi mây mù.
27. PHẨM BÀ-LA-MÔN(1) Ố BRAHMANAVAGGO
 
(1) : Bà-la-môn (Brahamana) ở đây là tiếng chỉ chung người hành đạo thanh tịnh chứ không phải như nghĩa thông thường chỉ riêng về giai cấp đạo sĩ Bà-la-môn. Phẩm này Phật dạy, gọi là Bà-la-môn là cốt ở tư cách xứng đáng của họ, chứ không phải ở tại giòng giõi, nơi sanh hay những gì hình thức bên ngoài.
383. Dũng cảm đoạn trừ giòng ái dục, các người mới là Bà-la-môn ! Nếu thấu rõ các uẩn (các yếu tố cấu thành sanh mạng) diệt tận, các ngươi liền biết được vô-tác (Niết-bàn).
384. Nhờ thường trú trong hai pháp (chỉ và quán), hàng Bà-la-môn đạt đến bờ kia ; dù có bao nhiêu ràng buộc, đều bị trí tuệ dứt sạch.
385. Không bờ kia cũng bờ này (2) hai bờ đều không thật, chỉ xa lìa khổ não (nguyên văn là dara, cũng có thể dịch là bố-úy) chẳng bị trói buộc nữa, Ta gọi là Bà-la-môn.
(2) : Bờ kia là chỉ 6 căn bên trong (Ajjhattikani cho ayatanani) : Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Bờ này là chỉ 6 trần bên ngoài (Bahrirani cho ayatanani) : sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Không chấp trước ta và của ta, nên nói là không bờ này, bời kia.)
386. Ai nhập vào thiền-định, an trụ chỗ ly trần, việc làm đều đã xong, phiền-não-lậu dứt sạch, chứng cảnh giới tối cao, Ta gọi là Bà-la-môn.
387. Mặt trời chiếu sáng ban ngày, mặt trăng chiếu sáng ban đêm, khí giới chiếu sáng giòng vua chúa, thiền định chiếu sáng kẻ tu hành, nhưng hào quang đức Phật chiếu sáng tất cả thế gian.
388. Dứt bỏ các ác nghiệp, gọi là Bà-la-môn ; thường tu hành thanh tịnh thì gọi là Sa-môn ; còn trừ bỏ cấu uế, gọi là người xuất gia.
389. Chớ nên đánh đập Bà-la-môn ! Bà-la-môn chớ nên sân hận ! người đánh đập mang điều đáng hổ, người sân hận lại càng đáng hổ hơn.
390. Bà-la-môn ! đây không phải là điều ích nhỏ, nếu biết vui mừng chế phục tâm mình. Tùy lúc đoạn trừ tâm độc hại thì thống khổ sẽ được ngăn dứt liền.
391. Không đem thân, ngữ, ý ra làm các điều ác, chế ngăn được ba chỗ đó, Ta gọi là Bà-la-môn.
392. Ðược nghe đấng Chánh-đẳng-giác thuyết pháp, bất luận ở nơi nào, hãy nên hết lòng cung kính như Bà-la-môn (ở đây chỉ giáo-đồ Bà-la-môn) kính thờ thần lửa.
393. Chẳng phải vì núm tóc, chẳng phải vì chủng tộc, cũng chẳng phải tại nơi sanh mà gọi là Bà-la-môn ; những ai hiểu biết chân thật (chỉ Tứ-đế) , thông đạt chánh-pháp, đó mới là kẻ Bà-la-môn hạnh phúc (hạnh phúc - Sakhi : bản của Tích-Lan viết là Suci, nên dịch là Thanh-tịnh).
394. Người ngu bó tóc đùm và chuyên mặc áo da lộc (một số ngoại đạo Ấn-độ hay dùng da nai làm đồ trản ngồi và áo mặc) , đâu có ích chi ? Trong lòng còn chứa đầy tham dục, thì dung nghi bên ngoài chỉ là trang điểm suông.
395. Dù mặc áo phấn tảo (3) , gầy ốm lộ gân xương, mà ở rừng sâu tu thuyền-định, Ta gọi là Bà-la-môn.
(3) : Áo phấn-tảo (pansukula civara) là thứ vải rẻo người ta vất, người xuất gia lượm lấy giặt sạch chắp lại may áo ca-sa mặc.
396. Bà-la-môn không phải từ bụng mẹ đẻ ra. Nếu cứ chấp chặc các phiền não, thì chỉ được gọi là 'Bồ' suông (4). Người nào lìa hết chấp trước, Ta gọi là Bà-la-môn.
(4) : Nguyên văn là Bhovadi, tức là Bho - vadi, dịch là 'thuyết bồ'. Ðây là tiếng tôn xưng nhau của giáo-đồ Bà-la-môn dùng riêng với nhau trong khi nói chuyện.
397. Ðoạn hết các kiết-sử, không còn sợ hãi chi, không bị đắm trước ràng buộc, Ta gọi là Bà-la-môn.
398. Như ngựa bỏ đai da, bỏ cương, bỏ giây và đồ sở thuộc, người giác trí bỏ tất cả chướng ngại, Ta gọi là Bà-la-môn (5) .
(5) : Bài này dùng toàn những đồ để khớp ngựa mà ví dụ : Ðại da dụ lòng sân nhuế ; cương dụ ái-dục, giây dụ 62 tà kiến ; sở-thuộc (giây buộc ngựa) dụ những tập tánh tiềm tàng. (Anusaya - xưa dịch là 'Tùy miên', có 7 thứ : Dục, tham, sân, mạn, ác-kiến, nghi, vô-minh). Chướng ngại dụ vô minh.
399. Nhẫn nhục khi bị đánh mắng, không sinh lòng sân hận ; người có đội quân nhẫn nhục hùng cường, Ta gọi là Bà-la-môn.
400. Ðầy đủ đức hạnh không nóng giận, trì giới thanh tịnh không dục nhiễm, thì chỉ ngang thân này là cuối cùng, không bị sanh nữa, người như thế, Ta gọi là Bà-la-môn.
401. Người nào không nhiễm đắm những điều ái dục như nước giọt trên sen, như hột cải đặt đầu mũi kim, người như thế, Ta gọi là Bà-la-môn.
402. Nếu ngay tại thế gian này, ai tự giác ngộ và diệt trừ đau khổ, trút bỏ gánh nặng mà giải thoát, người như thế, Ta gọi là Bà-la-môn.
403. Người có trí tuệ sâu xa, biết rõ thế nào là đạo, thế nào là phi đạo và chứng đến cảnh giới vô-thượng, người như thế, Ta gọi là Bà-la-môn.
404. Chẳng lẫn lộn với tục luân, chẳng tạp xen với tăng lữ, xuất gia lìa ái dục, người như thế, Ta gọi là Bà-la-môn.
405. Ðối với bất luận loài nào lớn hay nhỏ, mà đã thả bỏ con dao sát hại, người như thế , Ta gọi là Bà-la-môn.
406. Ở giữa đám người cừu địch mà gây tình hữu-nghị, ở giữa đám người hung hăng cầm gậy mà giữ khí ôn hòa, ở giữa đám người chấp đắm mà lòng không chấp đắm, người như thế, Ta gọi là Bà-la-môn.
407. Từ lòng tham dục, sân nhuế, kiêu mạn cho đến lòng hư ngụy đều thoát bỏ cả như hột cải không dính đầu mũi kim, người như thế, Ta gọi là Bà-la-môn.
408. Chỉ nói lời chân thật hữu ích, chẳng nói lời thô ác, chẳng xúc giận đến ai, người như thế, Ta gọi là Bà-la-môn.
409. Ðối với bất luận vật gì xấu hay tốt, dài hay ngắn, thô hay tế mà người ta không cho thì không bao giờ lấy, người như thế, Ta gọi là Bà-la-môn.
410. Ðối với đời này cũng như đời khác, đều không móng lòng dục vọng, vô dục nên giải thoát, người như thế, Ta gọi là Bà-la-môn.
411. Người không còn tham dục và nghi hoặc thì được giác ngộ chứng bậc vô-sanh, người như thế, Ta gọi là Bà-la-môn.
412. Nếu đối với thế gian này, tâm không chấp trước thiện hay ác, không còn ưu lo mà thanh tịnh, người như thế, Ta gọi là Bà-la-môn.
413. Dứt sạch dục vọng không cho tiếp tục sanh nữa, như trăng trong không bợn, như nước yên lặng sáng ngời, người như thế, Ta gọi là Ba-la-môn.
414. Vượt khỏi con đường gồ ghề lầy lội (Chỉ các phiền não tham dục) , ra khỏi biển luân hồi ngu si mà lên đến bờ kia, an trú thuyền định, không dục vọng, không nghi lầm, cũng không chấp đắm rằng mình chứng Niết-bàn tịch tịnh, người như thế, Ta gọi là Bà-la-môn.
415. Xa bỏ dục lạc ngay tại đời này mà xuất gia làm Sa-môn, không cho phát sinh trở lại, người như thế, Ta gọi là Bà-la-môn.
416. Xa bỏ ái dục ngay tại đời này mà xuất gia làm Sa-môn, không cho phát sinh trở lại, người như thế, Ta gọi là Bà-la-môn.
417. Rời khỏi trói buộc của nhân gian, vượt khỏi trói buộc ở thiên thượng, hết thảy trói buộc đều xa lánh, người như thế, Ta gọi là Bà-la-môn.
418. Xa bỏ những điều đáng mừng và điều không đáng mừng, thanh lương không phiền não, dũng mãnh hơn thế gian (khắc phục ngũ uẩn không cho tái sinh) , người như thế, Ta gọi là Bà-la-môn.
419. Nếu biết tất cả loài hữu-hình tử thế nào, sinh thế nào, rồi đem tâm khôn khéo vượt qua, không chấp trước như Phật, người như thế, Ta gọi là Bà-la-môn.
420. Dù chư thiên, càn-thát-bà hay nhân loại, không ai biết đưọc nơi chốn của những vị A-la-hán đã dứt sạch phiền não, người như thế, Ta gọi là Bà-la-môn.
421. Dù pháp quá khứ, vị lai hay hiện tại, người kia chẳng có một vật chi; người không chấp đắm một vật chi ấy, Ta gọi là Bà-la-môn.
422. Hạng người dũng mãnh tôn quý như trâu chúa (6) , hạng người thắng lợi (7) vô dục như đại tiên, hạng người tắm xong (8) sạch sẽ và giác tỉnh, người như thế, Ta gọi là Bà-la-môn.
(6) : Nguyên văn là Usabha, dịch là trâu nái hay trâu chúa. Ở đây hàm chỉ sự thù thắng, là chỉ người hùng mạnh, vô-úy, siêu quần.
(7) : Khắc phục phiền-não-ma, uẩn ma và tử ma, gọi là người thắng lợi.
(8) : Người Ấn-độ mê tín nước sông Hằng có thể rửa sạch tội lỗi, nhưng ở đây lại ý nói không còn các cấu điểm trong tâm người Bà-la-môn.
423. Những vị Mâu-ni (thanh tịnh) hay biết đời trước, thấy cả cõi thiên và các cõi đau khổ (ác thú), đã trừ diệt sự tục sinh, thiện nghiệp hoàn toàn, thành bậc vô-thượng-trí ; người viên mãn thành tựu mọi điều như thế, Ta gọi là Bà-la-môn.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.21/11/2013.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.

No comments:

Post a Comment